Có người cho rằng:
“Gặp nhau là ý trời, bên nhau là ý người”.
Hạm đội của Quang có
kết giao mối tình dân quân thắm thiết với trường nữ trung học Gia Long,ông hạm
trưởng có nhã ý dành cho học sinh một chuyến du ngoạn thú vị bằng tàu của hải
quân VNCH. Mỗi lớp chỉ có trưởng lớp được tham dự và những chàng lính thủy có
nhiệm vụ chăn dắt, bảo vệ những cô nữ sinh áo trắng, xinh xắn, bé nhỏ từ lớp 6
đến lớp 12 trong suốt chuyến du hành trên đất liền cũng như trên sông biển.
Ngọc Yến, trưởng lớp
10 A1, vui mừng, háo hức vì lần đầu được đặt chân lên chiếc thuyền lướt sóng,
dưới trời mây mênh mông, trên sông nước miền Tây vào một ngày đẹp trời. Rời con
tàu, đổ bộ trên con đường đất ghé thăm giang sơn của ông Đạo Dừa ở cồn Phụng
thuộc tỉnh Bến Tre, Yến bị hụt chân té nhào vào một chàng lính biển đang đứng
canh dưới con đường dốc vừa hẹp vừa gập ghềnh khó đi. Người con gái mới lớn mắc
cỡ, thẹn thùng pha lẫn cảm xúc yêu đương len nhẹ vào lòng... Dịp ấy đến thật
tình cờ, như một nhân duyên tiền định, Quang và Yến yêu nhau.
Cha của Ngọc Yến là
trung tá thuộc bộ tổng tham mưu QLVNCH, gia đình sống trong khu cư xá sĩ quan
Chí Hòa. Quang thường đến thăm và xin đưa Yến đi chơi, dạo phố mỗi khi anh được
nghỉ phép. Đôi lứa yêu nhau, mơ màng dệt mộng, nguyện xin suốt đời được sống an
vui, hạnh phúc bên nhau. Quang chờ mong cho Yến học xong trung học rồi xin
cưới.
Quang rất yêu mê biển,
anh sinh ra và lớn lên ở Nha Trang, quê hương có những bãi cát trắng chạy dài
với biển trời xanh biếc, có những hàng dương lả lơi soi bóng. Là người lính, ôm
mộng hải hồ, lênh đênh phiêu bạt với những chuyến hải hành để bảo vệ vùng biển
của quê hương, Quang thường gởi nhớ thương về cô học trò nhỏ xinh và âu yếm gọi
người yêu là “Hải Âu”, cánh chim của biển xanh sóng bạc. Trong thời chiến,
những lá thư tình của lính thì đong đầy những nhớ nhung mà hạnh phúc bên nhau
suốt đời thì mong manh như những ánh sao rơi.
Vào những ngày yên
bình trên biển, Quang thường mộng mơ có con chim “nghiêng cánh nhỏ,” cùng anh
ngắm “bóng chiều sa”(*) và nhìn trăng lung linh trên sóng nước. Lính biển nổi
tiếng là những chàng thủy thủ hào hùng nhưng cũng hào hoa, đa tình và lãng mạn,
Yến thường hay bâng khuâng rồi ghen... mơ màng nghĩ đến chuyện tình yêu của
loài chim hải âu sống đến sáu mươi năm cuộc đời, chỉ
một vợ một chồng. Yến thường thỏ thẻ: “Nếu lỡ mai em chết, anh yêu người khác
em sẽ hiện hồn thành chim hải âu bay về cắn mổ anh.”
Năm 1975, miền Nam
thất thủ, Quang phải vào lao tù, thư gởi đi cho Ngọc Yến không hề thấy thư về.
Quang ôm nhiều đau khổ trong lòng, nước mất nhà tan, người yêu giờ xa vắng, lưu
lạc nơi đâu?
Hơn 3 năm sau, Quang
ra tù, gõ cửa đến tìm Yến thì nhà đã đổi chủ. Bơ vơ, buồn bã không biết về đâu,
chợt nhớ đến Yến có người dì sống ở khu nhà gần hồ con Rùa... đi lang thang
mong tìm gặp lại người yêu, mắt Quang mở lớn khi nhìn thấy dưới giàn hoa Tigôn
một tấm bảng be bé “Café Hải Âu” treo bên cánh cổng của một ngôi biệt thự. Tim
đập nhanh, hồi hộp và xúc động, Quang vội bước vào quán... cây cối um tùm, trời
âm u, cảnh vật buồn rầu, sầu muộn làm sao! Quang tìm ghế ngồi và gọi ly café
phin, mắt luôn nhìn vào trong quầy tìm kiếm bồn chồn như kẻ gian. Buồn ơi,
người chủ quán nhìn thật xa lạ, Quang buồn lặng lẽ, lòng xa vắng.. Tiếng nhạc
ngoại quốc không lời êm êm tha thiết... La Paloma, Somewhere my love, Love
Story... càng làm Quang thấm thía nỗi sầu cô quạnh. Có lẽ cả nhà Yến đã đi nước
ngoài hay về vùng kinh tế mới? Quang chán nản, thất vọng rời khỏi quán café và
đi xuống phố...
Trời ui ui buồn, mây
đen kéo đến, gió thổi lay lắt trên những cành cây, ngọn lá, mưa bắt đầu
rơi...Chân bước, Quang quên cả tiếng mưa, tiếng ồn ào của xe cộ, tiếng người
qua lại mua bán, réo gọi nhau..Quang thẫn thờ đi trên phố, băng ngang qua đường
và bước vào Brodard là nơi Yến thích ăn kem, ăn bánh ngọt... Quang lại ngồi
nhìn những giọt café đen rơi tí tách, lòng cay đắng mang nỗi buồn mất mát, chia
ly.
Rạp Rex và Eden còn
đó, đang chiếu phim “Sao tháng tám”, “Cách mạng tháng Mười” và phim ngoại quốc
“Xê Muốc” của Ba Lan. Người ta nhếch nhác, nhốn nháo, chụp giựt mua bán những
món hàng vặt vãnh trên vỉa hè, góc đường, con hẻm... Thành phố trở nên xơ xác,
tiêu điều và vẻ lo âu, sợ hãi lẫn đói khổ lộ rõ trên mặt người. Mọi thứ đã đổi
thay, kỷ niệm cũ của ngày xưa thân ái nay tìm đâu thấy nữa, ôi! đau đớn, xót
xa.....
“Còn đây không gian xưa quen gót lầy
Bên hè phố cây lá
thưa, chim đã bay
Ngồi nghe yêu thương
đi xa tầm tay....”
(Rồi mai tôi đưa em –
Nhạc của Trường Sa)
Dọc theo đường Lê
Thánh Tôn, đi qua một dãy hàng bán giày dép, Quang lang thang đến khu Tạ Thu
Thâu (nay là đường Lưu văn Lang). Mắt lại mở to khi nhìn thấy tấm bảng “Hải Âu”
trước một cửa tiệm bán vải lụa, tim đập nhanh khi chợt nhớ Ngọc Yến rất thích thêu
thùa, may vá, nàng là nữ sinh của trường Gia Long nổi tiếng với “công, dung,
ngôn, hạnh”. Quang vội vã bước vào, bà chủ tiệm đon đả mời chào:
– Cậu mua vải thêu à, có nhiều hàng mới đẹp lắm,
mời cậu vào xem.
Quang thảng thốt, ngẩn
người vì bà rất giống mẹ của Ngọc Yến nhưng trẻ hơn. Quang ngại ngùng một chút
rồi lắp bắp hỏi:
– Dạ... dạ... thưa, cháu không mua vải, cháu chỉ
muốn hỏi thăm tìm một người bạn tên Ngọc Yến.
Trong tiệm, có cô gái
đang ngồi thoăn thoắt đưa mũi kim bé tí trên khung vải, nghe như có tiếng ai
gọi tên mình, cô ngước nhìn lên, mắt họ gặp nhau...
– Anh... trời ơi... anh Quang...!
Quang ôm người yêu bé
nhỏ,lòng sung sướng rộn ràng sau bao năm tháng xa cách đầy nhớ thương, mà tưởng
chừng như không bao giờ còn thấy nhau trong đời.
Phút giây tương phùng,
mừng vui lẫn đau buồn... Cha của Yến đã vào trại tù xa xôi tận miền Bắc, người
anh trai và em trai đang bị cầm tù ởTrà Vinh vì tội vượt biên. Cán bộ chiếm
nhà, cả gia đình bị đuổi ra khỏi cư xá, vô gia cư, đành phải ăn nhờ ở đậu nhà
dì Út. Bà mẹ của Yến là cô giáo dạy Văn nay mất việc vì chồng là sĩ quan VNCH,
bà phải ra chợ trời tảo tần buôn bán nuôi chồng tù tội, nuôi con đói khổ. Mấy
chị em Yến đan móc, thêu thùa, may vá và phụ dì Út mở quán café để kiếm sống.
Quang chua xót nghe kể về những khốn khổ điêu linh khi nước mất nhà tan, người
người chịu đựng những đau khổ khốn cùng, phải chật vật sống trong một “nhà tù”
lớn, thật thảm thương!
Quán café Hải Âu gần
hồ con Rùa chính là nhà của dì Út, nhưng khi Quang đến tìm đã ngại ngùng không
dám mở lời hỏi thăm. Yến lấy cái tên “Hải Âu” để nhắn gửi thông điệp cho người
yêu. Thỉnh thoảng Yến có ghé nhà cũ hỏi thăm gã cán bộ đang chiếm ngụ, để mong
có ai gởi thư hay đến tìm Yến, nhưng gã vẫn hằn học xua đuổi. Bao nhiêu thư của
Quang gởi chắc hẳn gã đã đọc rồi cười hả hê.
Quang vội xin cưới
Ngọc Yến rồi tìm đường vượt biên. Là sĩ quan được huấn luyện tại trường Hải
Quân Nha Trang, Quang biết lái tàu, rành về đường hàng hải nên nhiều tổ chức
vượt biển đi tìm tự do đã bí mật mời gọi.
Thoát ra đến hải phận
quốc tế, con tàu lênh đênh đơn độc trên biển. Sau thời gian đầy căng thẳng, lo
âu, mọi người đều vui mừng vì đã đến được vùng biển tự do. Nhiều người ói mửa
nằm la liệt trên sàn tàu, mặt Yến tái nhợt, nàng mệt mỏi ngồi bệt, dựa vào vách
gần nơi buồng lái để Quang còn nhìn thấy vợ. Nhưng vui mừng chưa được lâu chợt
thấy đàn hải âu bay lượn, hoảng hốt, dáo dác gọi nhau.
Bầu trời bỗng trở nên
âm u, mưa vần gió vũ, sấm chớp nổi lên, cả tàu lo sợ và nhốn nháo. Bất ngờ có
bão, Quang kêu gọi mọi người sẵn sàng chống chọi để sống còn. Quang trấn an và
tìm những vật dụng trên tàu để làm phao cho đàn bà và con nít. Quang lấy cái
thùng nhựa, cột vợ vào rồi dặn dò: “Có gì xảy ra em phải ráng ôm giữ cái thùng
phao này nhé!” Yến sợ hãi nép vào bên chồng, Quang ôm vợ an ủi: “Ráng lên, mình
sắp đến bến bờ tự do rồi, có anh ở đây, đừng lo sợ gì!”
Biển động, sóng gào,
gió dập đã nhồi con tàu như chiếc lá nhỏ bé, mong manh; nó rệu rạo, lắc lư,
tròng trành như giãy dụa trước giờ lâm tử. Đối mặt với nỗi sợ hãi hùng của
trùng dương mênh mông, sóng đã ôm chầm lấy con tàu và đập nó vỡ vụn! Tiếng sóng
cuồng nộ át cả những tiếng kêu gào trong vô vọng... Quang chỉ thấy đầu người lố
nhố và thấp thoáng bóng cái thùng nhựa mang người vợ yêu quý, nhấp nhô trên
sóng rồi xa dần ... Còn lại một màu đen ngòm phủ xuống đám người đang ngoi
ngóp. Quang ngụp lặn mãi, trong cơn mơ màng dường như có bóng chim vụt bay lên
khỏi mặt biển rồi tan thành sương khói, nhẹ tựa như mảnh hồn ai mong manh vừa
lìa khỏi xác!...
Quang nhận ra mình
đang ôm một tấm ván, bềnh bồng, chơi vơi, giữa biển trời không biết đâu là bến
bờ! Những người trên tàu đánh cá Mã Lai đã cứu vớt Quang và ba người bạn đồng
hành đưa vào trại tỵ nạn Bidong. Hơn trăm người trên chuyến tàu gặp nạn, nhưng
không có một cái xác nào tắp vào bờ ngoài bốn người được cứu sống khi đang thoi
thóp, ngoi ngóp trên biển. Ôi, con tàu mang một màu ly biệt!
Ngọc Yến, người vợ trẻ
của Quang đã chìm dưới lòng biển sâu hay trôi dạt nơi đâu? Hải Âu ơi! sao không
sống cùng anh cho đến sáu mươi năm cuộc đời? Quang buồn khổ, hận mình đã đem cô
vợ nhỏ bé, yếu đuối đi cùng trên chuyến tàu định mệnh mà giờ đây đã nghìn trùng
xa cách.
Quang đến Mỹ định cư ở
Houston, Texas. Ít lâu sau, anh gặp lại Thành, một người bạn trong quân ngũ
đang sống ở Galveston, và cùng nhau đi biển làm nghề đánh cá để sinh sống.
Quang siêng năng, chăm chỉ, dành dụm lo giúp đỡ gia đình hai bên nội ngoại còn
ở lại quê nhà, rồi anh mua một chiếc tàu đánh cá, sống lênh đênh trên biển. Mỗi
lúc ra khơi, Quang thường thấy có con chim hải âu bay lượn cứ quấn quít quanh
tàu rồi biến mất khi ánh chiều buông. Quang nghĩ đó là hồn của vợ thương nhớ
đến thăm.
“Khuất nẻo chân trời bóng chim sa,
Ngẩn ngơ thương nhớ,
hồn vương vấn”.
(Thơ GVV)
Đêm đêm, Quang thường
mơ màng như có ai đến vỗ về, ôm ấp, mùi hương tóc mây mềm còn vương trên vai;
khi buổi sớm mai vừa tỉnh giấc thoáng thấy bóng chim vụt bay rồi tan biến sau
khung cửa sổ còn mờ sương trắng. Bàng hoàng, tiếc thương linh hồn người vợ hiền
vẫn quyến luyến theo anh đi khắp chân trời góc bể, không chịu rời xa. Khi yêu,
người ta luôn mang nỗi nhớ, không gặp thì nhớ mong, vừa gặp vẫn nhớ, bên nhau
cũng nhớ, cho nên suốt đời mãi nhớ nhau...
Quang thường về sống
cùng gia đình Thành để tránh mùa mưa bão và nghỉ xả hơi khi không đi đánh bắt
cá. Nhiên, em gái của Thành rất yêu mến Quang. Một hôm Quang bị bịnh nặng,
Nhiên chăm sóc anh. Đêm đó, Nhiên kinh hãi không ngủ được vì cứ mơ thấy một con
chim đến mổ vào người như muốn xua đuổi. Nhiên kể cho Quang nghe về giấc mơ,
anh xót xa nói: “Đó là linh hồn con chim nhỏ hiện về vì ghen”. Vậy mà khi xưa
anh lại hay trêu đùa: “Lúc ấy hồn em về, chỉ nhìn rồi nước mắt rơi thôi chứ
chẳng làm được gì mà cứ thích ghen!”
Quang vẫn bùi ngùi
sống độc thân, anh còn vương mang lời thề mãi nhớ thương người vợ trẻ.
Vào một ngày mưa gió,
có con chim lạc đàn, nó hoảng hốt bay lượn quanh rồi buồn bã đậu trên mũi tàu
“yêu thương”, cất tiếng kêu tha thiết như tìm gọi người bạn tình xa vắng. Quang
âu yếm ấp ủ, nó dụi mãi vào lòng Quang. Từ đó con chim nhỏ sống trên tàu, quanh
quẩn bên Quang như hình với bóng. Đôi khi, Quang nghe như con chim nhỏ cất
tiếng thì thầm, thỏ thẻ... âm vang của ma mị hay trong giấc chiêm bao mơ như
Yến đang ở bên anh!?
“Em ơi! cánh buồm xưa
còn vương bao lời thề
Biệt ly sao chua cay
làm mắt ướt, tóc xanh nay phai màu
Nhớ mãi, nhớ mãi môi
em cười khi bến xa con tàu...”
(La Paloma – Cánh buồm
xa xưa – Lời Việt: Phạm Duy)
Giọng hát êm êm thường
ru Quang vào giấc ngủ với con tim luôn nức nở, tiếc thương, nhớ nhung một bóng
hình. Bóng chim lúc ẩn, lúc hiện, nhất là vào những buổi chiều tà... đôi ngã
chia ly, cánh chim nhỏ phiêu bạt phương nao mà khiến người ở lại luôn khắc khoải
trong lòng với nỗi buồn hiu quạnh...
“Yêu nhau một thời,
rồi xa nhau một đời.
Lệ này em nhỏ xuống
hồn tôi...”
(Giọt lệ cho ngàn sau
– Từ Công Phụng)
Nửa thế kỷ đã trôi
mau, tóc xanh nay bạc màu sương khói. Chiều chiều, nhìn đàn hải âu bay lượn,
hồn lãng đãng phiêu bồng bên bến bờ thương nhớ, Quang mơ mình là cánh chim bay
vào không gian, tan vào cõi Vĩnh Hằng...
(*) Trích bài thơ
“Tràng Giang” của Huy Cận.
Gió ViVu
No comments:
Post a Comment