Trong “Bên Thắng Cuộc,” tác giả Huy Đức ghi lại lời thân phụ ông, di cư
vào Nam từ năm 1954: “Chưa có thời nào mà bắt người thua trận bị tù hàng chục vạn
như thời cộng sản. Các tay này không biết lòng dân là thế nào sao?
Thêm vào đó, cái ngỡ ngàng khó chịu nhất là dân Miền Nam, thấy mình
không phải là người “được giải phóng,” mà là “người thua trận”, bị khinh miệt,
bị làm tình làm tội, bị đối xử không ra con người.
Sau đây là nguyên văn lời thân phụ Trần Đĩnh, nói về sự tùy tiện đối xử
của một “anh bộ đội” đối với một người dân bình thường, trong vùng mới được “giải
phóng:”
-“Bố đi bộ về đến đầu phố thì bị một anh bộ đội cầm súng gác giữ lại hỏi
đi đâu mà nhanh thế. Bố nói tôi già nên muốn mau về nhà nằm.
- Không được, đứng nghiêm năm phút!
Bố lại ngỡ như thuở bé đi học đứng nghiêm là quay mặt vào tường nên quay
vào tường thì anh ấy lại vặn sao quay mặt đi? Trốn giáo dục à? Lại quay lại
nhìn thiên hạ qua lại nhìn mình. Đứng đã ngán lại phải nghe loa ca ngợi chiến
thắng, phân tích chiến thắng…”
Người lính của phe thắng trận có thể hành xử như thế với một người dân
vô danh hay sao, còn đâu là chuyện thu phục nhân tâm? Suốt hơn 40 năm nay, rõ
ràng bọn cộng phỉ miền Bắc đã chiếm được đất đai, xóm làng, thành phố, nhưng
không hề và CHƯA BAO GIỜ chiếm được lòng người Miền Nam và SẼ KHÔNG BAO GIỜ chiếm
được lòng người dân Miền Nam Việt Nam.
Ngay trong những ngày đầu trong trại tập trung mà bọn cộng phỉ bắc việt
lừa gạt dư luận thế giới với cái tên mỹ miều là trại “học tập cải tạo,” những
người thất trận nhưng có văn hóa đã cảm thấy bị đối xử thô bạo bởi một lũ mọi rợ,
thất học, vô nhân tính.
Từ sĩ quan cho đến một vị tướng lãnh Miền Nam khi gặp bọn cai tù (tên gọi
là cán bộ vệ binh hay quản giáo,) đều phải đứng nghiêm, chào kính, nếu cần nói,
phải dùng tiếng “thưa cán bộ!”
Khi ra trại tù đi làm lao động khổ sai, hay lúc trở về, đoàn tù Miền
Nam, khi qua cổng, có tên vệ binh con nít mặt búng ra sữa, đang ngồi trên chòi
gác, đều phải dở nón mũ ra, có khi cao hứng, những tên lính gác mất dạy miền bắc
này còn bắt tù bỏ cả kính ra, dù là kính cận thị.
Ngày mới đi trình diện để tập trung lên xe đi vào trại tù, vì ác cảm với
giới trí thức, một người bạn tôi đã bị một tên phỉ quân bắc việt lột cặp kính cận
thị của anh, vứt xuống đất và đạp nát. Uất hận tận cùng, nhưng trong thế “chim
lồng cá chậu,” người sĩ quan miền Nam đành nuốt hận vào lòng.
Theo cuốn hồi ký của một tác giả cựu sĩ quan Miền Nam, tại trại Đá Bàn,
Khánh Hòa, một tên vệ binh oắt con có sở thích bệnh hoạn là vặt râu một ông già
tù binh. Người tù khốn khổ này chỉ biết khóc!
Không biết ai đã dạy dỗ những tên “lính cụ Hồ” có thái độ mất dạy như vậy
và vì sao cấp trên của bọn chúng lại nhắm mắt làm ngơ trước những thái độ mất
nhân tính như thế? Phải chăng chính cấp trên của bọn “lính cụ Hồ” cũng chỉ là một
lũ tiểu nhân thất học, thất nhân, và thất đức.
Chuyện trả thù cũng rất dễ hiểu, như nhà văn miền Bắc, Tạ Duy Anh, đã viết:
“Niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên ngùn ngụt trong ngực mình... Giết
người lúc ấy sao thấy sướng thế!” (Đi Tìm Nhân Vật, tiểu thuyết, NXB Văn Hóa
Dân Tộc, 2002.)
Thì ra mình giết nó, hành hạ nó, vì nó hạnh phúc, giàu có, sung sướng
hơn mình. Điều này có thể rất dễ hiểu khi bọn cộng phỉ miền bắc “đánh” tư sản
Miền Nam, bỏ tù người miền Nam, ăn cướp hết nhà cửa, tài sản, đổi tiền của người
Miền Nam không tiếc tay. Tất cả những việc này của bọn chúng đều nằm trong một
kế hoạch trả thù hèn hạ có quy mô và có hệ thống.
Sự thật đã ghi lại như một toàn Biệt Kích Dù 81 đã buông súng đầu hàng
ngày 30/4/1975 nhưng vẫn bị bọn phỉ quân bắc việt tiểu nhân bắn chết và chôn họ
trong một cái giếng sâu hiện nay chưa tìm ra dấu vết. Tại Hậu Nghĩa, nhiều sĩ
quan chỉ huy của QLVNCH đã bị bọn tiểu nhân cộng phỉ xử bắn, nhân viên Cảnh Sát
Quốc Gia bị bọn chúng nấu nước sôi dội lên đầu.
Trong “Hồi Ký Dang Dở,” Ông Dương Hiếu Nghĩa cho biết: “Ngay tại tỉnh
Vĩnh Long, các ông cai tổng Nguyễn Văn Dần, Nguyễn Văn Xôm, Nguyễn Văn Thêm đều
bị bọn cộng phỉ kết án là “có tội với nhân dân” mà không thông qua một tòa án
nào, và bị bọn chúng hành quyết man rợ ngay sau khi bị bắt, bằng vũ khí thô sơ
như búa, mã tấu …
Không nói lời gian dối, chúng tôi xin ghi lại đây danh sách của những
viên chức tình báo cao cấp của VNCH, sau tháng 4-1975 bị đưa ra Bắc và đã bị bọn
phỉ quyền Hà Nội hèn hạ bức tử.
Sau khi được đưa đến trại tù Hoả Lò làm việc, các viên chức tình báo cao
cấp của VNCH được bọn chúng “bồi dưỡng” một tô phở, nhưng ngay sau khi về đến
trại, các vị đã ói máu ra mà chết trên tay anh em bạn tù:
- Chuẩn Tướng Bùi Văn Nhu, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia (nguyên Tư Lệnh
Phó) người thay thế Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình.
- Đốc Sự Nguyễn Phát Lộc, Đặc Uỷ Trưởng Phủ Đặc Uỷ Trung Ương Tình Báo
(thay TT. Nguyễn Khắc Bình)
- Ông Nguyễn Kim Thúy, Giám Đốc Nha Nghiên Cứu Phủ Đặc Uỷ Trung Ương
Tình Báo.
- Đại Tá Dương Quang Tiếp,Phụ Tá An Ninh Tình Báo Phái Đoàn Liên Hợp
Quân Sự 2 Bên.
- Đại Tá Nguyễn Văn Học, Đặc Trách Tình Báo và Phản Tình Báo Nha An Ninh
Quân Đội VNCH.
Riêng trường hợp Đại Tá Lê Khắc Duyệt, Sĩ Quan Tình Báo Cao Cấp phục vụ
tại Tổng Nha Cảnh Sát, được bà con bên kia mách nước là phải lo lót để khỏi ra
Bắc, may ra còn có xác mà đem về chôn. Hai năm sau, ông qua đời tại tại Sài
Gòn, cũng bị ngón đòn “trả thù” như các chiến hữu của ông bị đưa ra Bắc!
Tại các Bộ Chỉ Huy CSQG tỉnh, các Trưởng F. (tức Phụ Tá Cảnh Sát Đặc Biệt,
đặc trách Tình Báo), phần lớn là cấp Uý, đều bị tập trung 17 năm, nếu không có
sự can thiệp của Hoa Kỳ qua chương trình định cư cho những người bị tù “cải tạo,”
sẽ chết mòn trong các trại tù lao động khổ sai khắc nghiệt ngoài miền Bắc!
Đó là chuyện trả thù người sống, với người chết, bọn tiểu nhân phỉ quyền
Hà Nội cũng chẳng buông tha.
Ngay khi bọn cộng phỉ bắc việt vào ăn cướp Sài Gòn, ngày 3 tháng 5,
Nghĩa Trang Quân Ðội Hạnh Thông Tây, Gò Vấp đã bị bọn cộng phỉ bắc việt dùng xe
ủi đất san bằng hết ngay chiều ngày hôm đó.
Tại Vĩnh Long, riêng ngôi mộ của Trung Úy Nhảy Dù Nguyễn Văn Ngọc, dù đã
chết từ hơn một năm trước, vẫn bị bọn tiểu nhân phỉ quyền Hà Nội đào lên trả
thù hèn hạ, đưa cả quan tài ra giữa chợ Ngã Tư Long Hồ để cho phá nát bằng cốt
mìn (Hồi ký Dang Dở.)
Sau khi xâm lăng và cưỡng chiếm bất hợp pháp Miền Nam Việt Nam, phỉ quyền
Hà Nội tiểu nhân hèn hạ đã phá hủy bức tượng “Tiếc Thương” mang đi, xem nghĩa
trang này như một nhà tù, bị canh gác, rào kẽm gai, và không ai được thăm viếng,
di dời phần mộ ra khỏi đây. Trong gần 30 năm, nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa
thành một nơi hoang phế, quạnh hiu.
Chúng ta dược biết rằng, năm 2015, Ukraine đã tháo dỡ gần 140 tượng đài
của Liên Xô và chính phủ Ba Lan có kế hoạch hạ bỏ khoảng 500 tượng đài Liên Xô,
kẻ thù ngày trước, nhưng họ đã không hề đụng đến những tượng đài ở các nghĩa
trang, nơi an nghỉ cuối cùng của những người lính Sô Viết.
Vẫn theo nhà báo Huy Đức, thời Đỗ Mười vào Nam đánh tư sản mại bản,
trong một cuộc họp mật, đích thị tên Đỗ Mười đã hung hăng hò hét: “... Chúng ta
phải róc thịt chúng ra!”
Theo tài liệu, kế hoạch trả thù X.1 do Đỗ Mười đề xuất theo kiểu Khmer Đỏ,
thì sĩ quan “nguỵ” từ Trung Úy trở lên, công chức miền Nam từ cấp Chánh Sự Vụ
phải bị tử hình.
Người ta đã có lần so sánh tháng Tư lịch sử của nước Mỹ (4-1865) và
tháng Tư định mệnh của Việt Nam (4-1975.) Binh sĩ miền Bắc kính cẩn chào khi tướng
Robert E. Lee cỡi ngựa đến nơi ký hiệp ước đầu hàng. Không có tiếng reo hò, nổ
súng vui mừng của người thắng trận. Binh sĩ miền Nam không bị coi là quân đội
phản quốc. Sĩ quan miền Nam không ai bị đi tù. Bên thắng trận không đụng tới hoặc
làm phiền hà đến họ. Kỵ binh thất trận được quyền mang ngựa và lừa về nhà để
giúp gia đình cày cấy làm ăn.
Nhưng đó là Hiệp Ước của Những Người Quân Tử (Gentleman's Agreement) của
hơn 100 năm trước, nó không hề có trên đời này với những kẻ tiểu nhân phỉ quyền
Hà Nội hôm nay./.
Huy Phương
CSVN là loài dã thú; đến nay sau 50 năm chúng vẫn thù hằn người miền Nam. ĐMĐ10
ReplyDelete