Qua người bạn thân
cùng lớp, tôi quen với gia đình bác Chấn, một gia đình gốc Tây học, giàu có và
thế lực của miền Nam trước năm 1975. Bác có hai người con, một trai, anh Quang
hơn tôi 3 tuổi, một gái, chị Yến hơn tôi 1 tuổi. Hai người con của bác đều theo
học chương trình Tây. Sự quen biết của tôi với gia đình bác rất sơ sài, không
bước xa hơn những lời chào hỏi xã giao thông thường hay vài câu hỏi tò mò về
thân thế, gia đình và học hành của tôi trong những lần tôi theo người bạn đến
nhà bác chơi.
Sau này khi vừa xong
tú tài, trong một lần ghé thăm bác Chấn, tôi được biết hai người con của bác đã
đi du học tại Thụy Sĩ ngay sau khi tốt nghiệp bậc trung học Pháp tại Sàigon.
Còn tôi không có điều kiện nên học đại học trong nước, sau khi tốt nghiệp xuống
Cần thơ dạy học, tôi không có dịp nào đến chơi nhà bác
Chấn nữa. Đầu năm 1974, trước khi nhận học bổng tu nghiệp ở Nhật Bản, tôi được
người bạn cho biết bác Chấn trai đã bị mất vì ung thư. Bác gái vẫn sống với vài
người cháu họ xa ở căn nhà khá lớn, sang trọng ngày xưa ở đường Ngô Tùng Châu
rất gần với trung tâm Sàigon.
Rồi với bao nhiêu đưa
đẩy của thời cuộc, cuối năm 1979 tôi rời bỏ Nhật Bản vì tìm được việc làm đúng
với chuyên môn ở thành phố Zürich, vùng nói tiếng Đức, miền bắc Thụy Sĩ. Sang
Thụy Sĩ được khoảng một năm tôi lập gia đình với người bạn gái
người Nhật mà tôi đã quen biết nhiều năm trong thời du học tại đó.
Một lần vào năm 1983
gia đình tôi xuống Genève thăm người bạn, ngẫu nhiên tôi gặp được chị Yến, cô
con gái của bác Chấn. Chị cho biết chị và anh Quang đã tốt nghiệp xong đại học
Genève từ lâu. Cả hai đang đi làm, vẫn sống ở Genève, nhưng kẻ ở đầu tỉnh, người
ở cuối tỉnh, lại bận rộn với công việc làm cho nên cũng rất ít gặp nhau. Chị
Yến cũng cho biết cả hai vẫn chưa lập gia đình nhưng sống chung với người yêu
đều là người Thụy Sĩ. Tôi cũng hơi ngạc nhiên vì cả hai đều đã xấp xỉ 40 tuổi
mà vẫn độc thân, nhưng không dám thắc mắc vì có lẽ lối sống Tây phương là thế.
Trong lần gặp nhau đó,
tôi cho chị địa chỉ, số điện thoại của gia đình, ân cần mời chị và anh Quang
nếu có dịp đến chơi, coi như tìm được người bạn xa xưa nơi xứ lạ quê người.
Nhưng tôi có cảm tưởng chị không có vẻ hân hoan với lời mời vồn vã, chân thành
của tôi lắm. Vô tình hay cố ý, chị cũng không cho tôi biết địa chỉ! Tuy nhiên
tôi cũng chẳng bận lòng vì nghĩ họ đã sống và lớn lên với nền văn hóa Tây
Phương từ ngày còn bé, sự lạnh lùng, cách biệt với những người không cần thiết
là lẽ tự nhiên mà thôi.
Chỉ có vậy, lần gặp
nhau như thoáng qua, đã được quên đi dễ dàng. Bất thình lình, khoảng gần 2 năm
sau ngày chúng tôi gặp nhau thoáng qua, nhạt nhẽo đó, tôi nhận được điện thoại
của chị cho biết bác Chấn gái đã được anh em chị bảo lãnh sang đoàn tụ, hiện
đang sống với chị ở Genève đã được khoảng một tháng rồi. Chị có nói với bác
Chấn về gia đình chúng tôi, bác mong muốn mời gia đình tôi đến chơi để tâm sự.
Đặc biệt trong cuộc điện thoại này chị rất thân thiện, thân thiện đến nỗi tôi
có cảm tưởng chị năn nỉ chúng tôi đến chơi với mẹ chị, giúp bà vui mà quên đi
nỗi nhớ quê hương khi chưa quen biết ai ở Genève.
Sau đó, một buổi sáng
sớm thứ bẩy cuối tuần,vợ chồng tôi lái xe xuống Genève, chúng tôi đến tạm trú
nhà một người bạn cũng ở trong Genève, nghỉ ngơi, nói chuyện một lúc. Khoảng 2
giờ chiều chúng tôi mới đến nhà chị Yến thăm bác Chấn. Trong lần gặp gỡ này có
cả anh Quang cùng với 2 người Thụy Sĩ là bạn trai và bạn gái của họ. Ngay khi
bước vào nhà, sau vài câu chào hỏi thông thường, vợ chồng tôi đã nhận thấy ngay
bầu không khí nặng nề giữa bác Chấn với 2 người con của bác cũng như với 2
người bạn trai gái của họ.Bác Chấn hoàn toàn bị tách xa trong cuộc sinh hoạt
của hai người con và bạn của họ, dù ngôn ngữ Pháp với bác không thành vấn đề.
Sau vài câu xã giao bình thường, nói chuyện vu vơ với chúng tôi, nhóm con của
bác Chấn cũng tự tách rời. Họ nói chuyện, cười đùa, âu yếm nhau trước mặt chúng
tôi, chẳng có tí ngại ngần rồi dẫn nhau vào phòng bên cạnh đùa giỡn trong âm
thanh của âm nhạc khá ồn ào. Họ để bác Chấn tiếp đãi trò chuyện với chúng tôi.
Bác Chấn có vẻ ngượng ngùng, nhưng chúng tôi cố làm ra vẻ không để ý, coi như
chuyện bình thường của giới trẻ Tây phương. Chúng tôi ân cần mời bác lên nhà
chúng tôi chơi bất cứ lúc nào, có thể ở với chúng tôi cả tháng trời cũng chẳng
sao vì nhà khá rộng lại có vườn riêng để ăn uống ngoài trời. Bác tỏ vẻ rất cảm
động với nhiệt tình của chúng tôi. Bác càng thích hơn khi thấy vợ tôi cầm chiếc
áo len mà bác đang đan nửa chừng, tò mò xem ra chiều hiểu biết và đồng sở thích
thêu thùa. Lúc sửa soạn ra về, vợ chồng tôi có ý gặp hai người con để chào từ
giã, nhưng với tí chút ngần ngừ trong vẻ ngượng ngùng bác nói:
– Thôi, các cháu cứ về
đi, bác sẽ nói với chúng nó sau!
Từ giã bác Chấn, chúng
tôi trở lại nhà người bạn ngủ qua đêm, sáng hôm sau, ngày chủ nhật, sau khi ăn
sáng với gia đình người bạn xong chúng tôi từ giã ra về. Chiều ý vợ, tôi lái xe
đi một vài vòng thành phố Genève cho vợ tôi xem tí chút về thành phố, trước khi
về lại Zürich. Đang lúc chạy xe tôi thoáng thấy bác Chấn ngồi ở chiếc ghế của
một trạm xe bus. Dừng xe vào lề đường tôi chạy vội đến nói với bác:
– Bác Chấn, bác đi đâu
vậy? Bác lên xe cháu chở cho.
Bác giật mình khi nhìn
thấy tôi, nhưng ngay lúc đó cảm giác ngượng ngùng buồn bã hiện rõ trên khuôn
mặt, trong ánh mắt khi bác nhìn tôi. Chẳng đợi cho bác trả lời tôi nói tiếp:
– Cháu đang định chạy
lòng vòng xem thành phố đây, bác đừng ngại gì cả, cứ lên cháu chở đi mà!
Nói xong tôi cầm tay,
kéo bác về hướng chiếc xe, nơi đó vợ tôi đang mở cửa xe chờ đợi. Ngần ngừ tí
chút, nhìn tôi như gửi gấm nỗi buồn kín đáo, bác nói như muốn khóc:
– Bác có muốn đi đâu
đâu! Ở nhà buồn và cô đơn quá cháu ạ, chịu không được! Ngày nào bác cũng
ra ngồi ở các trạm xe bus, xe điện để nhìn người ta lên xe, xuống xe cho đỡ
buồn đó mà thôi!
Nghe bác nói, tôi ngẩn
ngơ, nhìn bác trân trối! Câu trả lời của bác xót đau quá! Tôi có cảm nhận người
đàn bà xấp xỉ tuổi 70 đang đứng tước mặt tôi có rất nhiều tâm sự buồn đau khó
nói. Hình ảnh cuộc gặp mặt chiều hôm qua ở nhà cô Yến, con gái của bác lại hiện
ra, trở về trong ký ức tôi! Tôi thoáng hiểu một phần nào nỗi buồn, cô đơn của
bác. Nhân dịp gặp lại trong ngẫu nhiên này tôi muốn được nghe bác tâm sự, biết
đâu tôi lại tìm được điều gì đó giúp bác giảm được nỗi buồn mà bác đang chất
chứa trong lòng ?! Nghĩ như vậy, tôi thân thiện khoác tay lên vai bác, khẩn
khoản tôi nói:
– Bác cháu mình tìm
một quán nước nào đó nói chuyện đi! Bác đừng ngại ngần gì cả, ngày hôm qua cháu
muốn nói chuyện với bác nhiều mà chưa hết.
Hình như sự nhiệt lòng
của tôi và cũng có lẽ vì quá buồn, bác im lặng đi theo. Sau một lúc chạy lung
tung, chúng tôi vào một quán nước bên ngoài hành lang của một khách sạn trên
đại lộ Quai du Mont Blanc, bên kia đường là hồ nước Lehmann. Bầu trời trong xanh,
ánh sáng ban mai chiếu rọi lên mặt hồ nhấp nhô tạo ra những dải sáng lấp lánh
tuyệt đẹp của một buổi sáng nắng tốt. Bác Chấn đã khóc gần như suốt thời gian
ngồi kể cho tôi nghe về lý do của bác khi lựa chọn rời xa VN, sang Thụy Sĩ định
cư. Một lựa chọn mà bác nghĩ rằng đã sai lầm, đang làm cho bác buồn đau vì cô
đơn.
Bác cho biết, với lời
khuyên nhủ rất hợp lý, chân tình của hai con, bác đã bán căn nhà của mình ở
trong nước, tiền bán nhà cùng với tất cả tiền bạc,nữ trang mà bác đã dành dụm
từ khi mới kết hôn, bác đã giúp 2 con, mua cho mỗi người một căn hộ ở
Genève. Căn hộ mà chúng tôi đến thăm hôm qua là của Yến. Một căn khác cho
Quang, nhưng đến nay dù đã hơn một tháng ở Thụy Sĩ nhưng bác vẫn chưa có dịp
đến xem nó ra sao!
Trước khi rời bỏ quê
hương sang Thụy Sĩ, bác nghĩ rằng, tuổi đã già, bệnh hoạn, sống chết không biết
lúc nào, vì vậy nếu được sống với chính con của mình là một điều rất hợp lý,
vẫn hơn sống với những đứa cháu họ ở Việt Nam. Đã thế bác nghĩ với khả năng thông
thạo tiếng Pháp, có lẽ bác chẳng khó khăn trong việc giao tế với người địa
phương. Thêm vào đó với sở thích đọc sách báo, thêu thùa cũng sẽ giúp bác che
lấp được những lúc nhàn rỗi, cô đơn khi các con đi làm. Với ý nghĩ lạc quan như
vậy bác đã chờ đợi từng ngày được ra đi đoàn tụ với hai con. Nhưng khi đến Thụy
Sĩ, chỉ sau một tuần lễ đầu tiên bác đã nhận thấy mình sai lầm! Cái sai lầm ra
ngoài tưởng tượng, tính toán của bác.Dù thích đọc sách,thích thêu thùa nhưng
bác chẳng có được hứng thú mà làm được như mong muốn!
Bác được Yến, người
con gái mà bác thương yêu nhất, đón về sống chung. Mấy ngày đầu tiên, Yến nghỉ
làm việc, dẫn bác đi lo giấy tờ hành chánh, bảo hiểm sức khỏe đồng thời chỉ dẫn
bác cách mua vé, xử dụng các phương tiện giao thông công cộng như xe bus, xe
tram của thành phố. Yến cũng không quên hướng dẫn bác xử dụng các máy móc trong
nhà như máy giặt, máy sưởi cùng với những việc làm trong tập thể chung cư.
Mấy ngày đầu tiên còn
bận rộn với những học hỏi, làm quen với cuộc sống mới nơi xứ lạ quê người,bác
không có thời gian để cảm thấy cô đơn. Nhưng chỉ một tuần sau,mọi hoạt động đã
được đưa vào thứ tự và đều đặn. Buổi sáng Yến vội vàng đi làm,chiều tối về nhà,
mệt mỏi nên cô ta chẳng có thì giờ và hứng thú để nói chuyện với bác ngoài vài
câu hỏi sức khỏe vu vơ. Đã thế Yến thường về với người bạn trai, họ lại quây
quần với nhau trong phòng riêng, chẳng thèm để ý đến bác. Bác sống im lìm như
một chiếc bóng thừa thãi trong căn hộ.
Mấy ngày đầu tiên, có
lẽ vì món ăn lạ hay nể nang công lao nấu nướng của bác, Yến và người bạn trai
còn về nhà ăn cơm tối.Nhưng chỉ được vài ngày, họ chẳng còn thú vị với món ăn
của bác nữa. Yến nói với bác đừng nấu cơm cho họ, họ tự lo được. Từ đó Yến và
bạn trai thường ăn cơm ở đâu đó trước khi về nhà khá muộn. Thỉnh thoảng Yến mua
đồ ăn nguội, rượu bia mang về bày ra bàn, ăn uống, nói chuyện cho đến khuya rồi
chẳng thèm thu dọn. Sáng hôm sau khi thức dậy, nhìn thấy đống bát đĩa bác lại
phải lau chùi, thu dọn! Không nói ra nhưng bác Chấn đã có cảm tưởng mình là
người hầu hạ trong nhà, không còn là người mẹ được con đón sang để phụng dưỡng
nữa. Còn anh Quang, con trai của bác, thỉnh thoảng cùng với cô bạn gái đến
chơi, thoáng qua một vài giờ đồng hồ nói chuyện vu vơ với bác rồi từ giã ra về,
cũng chưa một lần nào chở bác đến nhà để biết cuộc sống của anh ra sao!
Đôi lần thấy bác buồn,
than van với các con là cô đơn không bạn bè... Yến khuyên bác hãy làm
theo lối giải trí, tìm vui của người Thụy Sĩ khi về già, không có việc gì làm.
Họ tìm cách tránh thời gian rảnh rỗi, cô đơn bằng cách mua vé tháng của thành
phố cho xe bus, xe tram... rồi sáng đi, tối về. Ngày ngày dùng phương tiện giao
thông đi từ phố này, sang phố kia ngắm nhìn người ta buôn bán ở các siêu thị
hay các công viên của thành phố... Buổi trưa hay lúc mệt mỏi thì tạt vào những
nhà ăn bình dân rẻ tiền trong các siêu thị uống cà phê hay ăn trưa. Nghe lời đề
nghị của cô con gái, bác đã hình dung khá rõ con đường sống của mình sẽ ra sao
nếu còn sống nơi đây. Bác chợt hiểu ra rằng hai đứa con của bác thật sự đã là
dân Thụy Sĩ rồi, chúng sống, chúng suy nghĩ và chúng giải quyết theo xã hội,
con người Thụy Sĩ. Chúng không thể nào nhìn thấy hay cảm thấy nỗi buồn, cô đơn
của bác được nữa. Nói đến đây, bác Chấn ngước nhìn tôi với đôi mắt nhòa lệ,
buông tiếng thở dài buồn bã bác than thở:
– Có lẽ bác phải về
lại VN cháu ạ, sống ở đây chắc bác sẽ chết vì cô tịch mà thôi. Mấy ngày trước
bác có liên lạc với tòa lãnh sự VN ở Genève để hỏi về việc hồi hương. Theo bác
không khó khăn lắm, nhưng cần nhiều thủ tục để lấy lại hộ khẩu của bác ở VN và
nhất là chứng minh được sự bảo đảm về tài chánh cho sự sinh sống của bác khi
hồi hương. Thấy tôi im lặng, bác buồn rầu nói tiếp:
– Hiện nay bác chẳng
có gì ở VN nữa, nhà cửa đã bán, tiền bạc, nữ trang cũng không còn. Bác đúng
nghĩa một người nghèo, già lão đơn độc nếu về lại quê hương thì sống làm sao
đây?
Tôi buột miệng hỏi:
– Tại sao bác không
nói với anh Quang, chị Yến trả lại cho bác một ít tiền để có thể về VN sinh
sống? Theo cháu biết thì không cần quá nhiều đâu vì cuộc sống và nhà cửa ở VN
vẫn còn rất rẻ.
Lắc đầu ra vẻ thất
vọng, bác cho biết tiền bán nhà, bán nữ trang vừa rồi rất lớn so với xã hội VN
nhưng có đáng bao nhiêu so với Thụy Sĩ! Bác đã chia cho hai con để giúp chúng
mua nhà, theo bác biết thì 2 người con cũng còn phải mượn ngân hàng hơn một nửa
mới có đủ tiền để mua 2 căn hộ. Hiện nay tiền lời ngân hàng cùng với chi phí
dịch vụ cho chung cư như thang máy, điện nước, lau chùi, cắt cỏ, xúc tuyết, làm
vườn... tất cả không phải nhỏ, chẳng thua gì tiền đi thuê nhà. Bác cũng đã bàn
với 2 con để trả lại bác một số tiền cho bác mua một căn nhà nhỏ ở VN, nhưng
coi vẻ không được vì chúng vẫn phải trả nợ ngân hàng mỗi tháng, chẳng dư dả để
đưa cho bác được! Đã thế khi về VN tiền sinh sống, thuốc thang, bệnh viện khi
ốm đau cũng không thể coi là chuyện bỏ qua mà không tính toán được!
Nhẩm tính lại cuộc
sống ở VN, tôi nói với bác:
– Theo cháu nghĩ nếu
hai người con của bác giúp bác mỗi tháng 200 quan Thụy Sĩ (thời điểm 1986) chắc
bác sống không khó khăn lắm đâu!
Bác Chấn mỉm cười với
tí cay đắng, bác trả lời:
– Cháu tưởng đơn giản
như thế sao? Giả dụ mà chúng nó gửi cho bác 200 quan mỗi tháng thì cũng chỉ đủ
cho sinh sống bình thường mà thôi. Còn lúc ốm đau, chi dụng cho việc thuê nhà,
cho người quen, họ hàng để người ta vui vẻ mà săn sóc cho mình làm sao mà đủ?!
Tuổi già của bác đâu có thể sống độc lập được, mà phải dựa vào người khác, nhất
là lúc ốm đau. Dù là họ hàng, quen biết cũng phải có tiền cháu ạ! Không dễ dàng
và đơn giản như cháu nghĩ đâu!
Nghe bác tâm sự, tôi
đã đã tạm hiểu hoàn cảnh của bác. Đúng như vậy, cái sai lầm lớn nhất là bác đã
bán nhà, thu dọn tài sản để gửi cho con mong được sống gần con. Điều này nghe
ra nó đơn giản và hợp lý như thói thường của gia đình văn hóa VN. Nhưng với hai người con của bác, nếp sống, sự suy nghĩ của
văn hóa Tây phương đã thấm sâu vào con người họ, nó
không còn là đơn giản nữa! Tìm một giải quyết cho bác không dễ dàng, họa chăng
một hay cả hai người con bác biết cảm thông nỗi cô đơn, buồn bã của mẹ mà chính
họ tìm cách giúp đỡ mà thôi. Bác không nói ra, nhưng tôi có cảm tưởng 2 người
con bác không như bác chờ mong.
Trước khi chia tay tôi
ân cần nhắc lại lời mời của gia đình tôi, bất cứ lúc nào bác có ý muốn đến nhà
tôi chơi nhiều tuần, vài tháng, hoàn toàn không có gì khó khăn. Hình như nhìn
rõ sự chân thành của tôi, bác vuốt nhẹ bàn tay vợ tôi mỉm cười và hỏi vợ tôi:
– Cháu có phiền lòng
nếu bác đến nhà cháu chơi không?
Dù ngôn ngữ VN chỉ
hiểu lõm bõm, nhưng vợ tôi cảm nhận hoàn toàn ý nghĩa lời nói của bác qua ánh
mắt, khuôn mặt và cả dáng điệu chân thành trong giọng nói, nụ cười của bác. Vợ
tôi đưa tay ra dấu thêu đan, lõm bõm câu tiếng Việt:
– Bác cứ đến chơi đi,
có nhiều việc làm với nhau lắm, bác đừng lo!
Có lẽ đây là lần đầu
tiên trong cuộc gặp gỡ bác hôm qua và cả hôm nay, tôi mới nhìn thấy nỗi buồn bã
biến mất trên nét mặt của bác. Thay vào đó là niềm vui thoáng hiện trong ánh
mắt, nụ cười của người đàn bà xấp xỉ 70 tuổi mà tôi cũng chỉ quen biết thoáng
qua trong quá khứ....
Trở về lại Zürich đã
cả tháng trời, tôi cũng chẳng có dịp liên lạc với bác nữa.Đôi lúc trong lúc
thảnh thơi tôi cũng nghĩ đến bác. Tôi cho rằng với thời gian bác sẽ làm quen
với những người VN khác, rồi cũng giống như mọi người, đâu cũng vào đó mà thôi.
Nhưng bất thình lình vào buổi tối khi tôi đang ăn giở bữa cơm thì bác gọi đến.
Với giọng nói thều thào, chứa đầy buồn bã, chán nản bác cho biết hiện đang ở
bịnh viện đã gần một tuần lễ nay. Tôi hỏi lý do, bác không nói rõ ràng lắm
nhưng có lẽ liên quan đến tim mạch lại thêm bị trầm uất vì buồn bã, cô đơn mà
ra. Bác khóc qua điện thoại cho biết hai người con chỉ đến thăm bác một lần duy
nhất vào ngày đầu tiên, sau đó vì bận rộn họ chỉ điện thoại hỏi thăm mà thôi.
Tôi buông tiếng thở dài, nói vài câu an ủi bác, hứa sẽ chở vợ đến thăm bác vào
ngày mai hay ngày kia! Có lẽ cảm nhận được ý nghĩa tiếng thở dài của tôi trong
điện thoại, bác nói rất nhẹ:
– Cám ơn vợ chồng
cháu, biết là làm phiền cháu nhưng bác muốn gặp lại các cháu lắm. Vợ chồng cháu
cố đến với bác lần nữa nhé! Chắc bác không có dịp gặp lại vợ chồng cháu nữa
đâu!
Tôi nghe mà rụng rời,
tưởng như bác muốn gặp chúng tôi để nói lời trối trăn! Tôi nói vài câu an ủi,
nâng đỡ tinh thần bác rồi tôi hứa chắc ngay ngày mai sẽ xin nghỉ làm một ngày
đến thăm bác.
Xế chiều hôm sau vợ
chồng chúng tôi đến bệnh viện của tỉnh, căn phòng khá rộng có 4 bệnh nhân.
Chúng tôi đã giật mình đến độ nghi ngờ thị giác của mình khi nhìn thấy bác xơ
xác nằm như đang ngủ. Chỉ hơn một tháng trời mà sắc diện của bác thay đổi quá
mau! Khuôn mặt tái xanh, hốc hác như người bệnh lâu năm, cơ thể như bị thu nhỏ
lại nằm ép dính xuống tấm nệm của chiếc giường! Cánh tay trái khẳng khiu, tái
xanh thò ra ngoài chiếc chăn, được nối với sợi dây truyền serum treo lủng lẳng
trên chiếc giá bằng alumin trắng. Tôi nhẹ nhàng nắm lấy cổ tay xương xẩu của
bác,bác giật mình tỉnh dậy. Nhìn thấy chúng tôi, sự vui mừng, cảm động hiện rõ
trên khuôn mặt già nua trắng bệch. Bác gật đầu nhẹ, đáp lại lời chào hỏi của vợ
chồng tôi, rồi thều thào:
– Cám ơn hai cháu đã
đến thăm bác,mời hai cháu ngồi!
Bác cho biết mấy ngày
trước tự nhiên bị mệt mỏi,chóng mặt rồi bị xỉu, ngã ngay ở trong bếp vào ban
đêm. Yến nghe tiếng động của chiếc ghế bị đổ, chạy ra mới biết và chở bác đến
bệnh viện. Qua kiểm nghiệm bác sĩ cho biết do chứng suy tim đã có từ trước kèm
theo thận hoạt động không bình thường gây tắc trách sự tuần hoàn dẫn đến chứng
lậm độc máu.
Sau vài giờ đồng hồ
tâm sự, bác kể cho chúng tôi nghe những ngày tháng cô độc, buồn chán càng lúc
càng đè nặng lên bác vừa qua. Tôi lắng tai nghe nhưng cũng chỉ biết khuyên nhủ
để nâng đỡ tinh thần bác mà thôi. Chúng tôi ở với bác mãi đến buổi chiều, khi
từ giã, bác nói với vợ chồng tôi trong nước mắt:
– Chắc bác và vợ chồng
cháu không còn có dịp gặp lại nhau nữa đâu! Dù thế nào thì bác rất cảm động với
lòng tốt của các cháu đã vì thương bác mà nghe tất cả những lời tâm sự của bác.
Bác cũng không ngờ cuối đời mình lại cô độc và buồn đau như thế này. Con của
bác vì bận rộn hay vì vô tâm mà quên săn sóc bác. Biết làm sao hơn là im lặng!
Nhưng ít ra vào lúc cuối đời này bác cũng có một niềm vui đó là có hai cháu để
hàn huyên, tâm sự...
Bác nói với chúng tôi
nhiều lắm, toàn là những câu nói đượm buồn và kín đáo than van! Tôi có cảm
tưởng tinh thần bác hoàn toàn suy sụp, buông xuôi. Nỗi chán nản cùng cực của
bác không những thể hiện trên khuôn mặt mà còn trong những lời nói như trăn
trối với vợ chồng tôi. Tôi cố gieo vào bác lòng tin về tài năng của y học Thụy
Sĩ, họ sẽ mang lại cho bác sức khỏe và niềm vui. Tôi hứa
chắc chắn khi bác khỏe mạnh tôi sẽ xuống chở bác lên chơi với gia đình tôi vài
tháng. Bác nghe lời hứa của tôi trong trạng thái bâng quơ hình như kín đáo che
giấu sự thất vọng ở trong lòng.
Sau khi từ giã ra về, tôi tạt vào phòng y tá trực của dẫy phòng bác nằm,ý định gặp người y tá nào đó nói với họ vài lời cám ơn, nhân tiện nhờ họ thông báo cho tôi biết ngay nếu có gì cần thiết. Thật may, tôi gặp được cô y tá trưởng, biết nói tiếng Đức,nhờ vậy mà vấn đề giao tiếp, nhờ vả của tôi dễ dàng hơn. Tôi cũng chẳng ngần ngại nói rõ với cô ta sự thật về hoàn cảnh không vui của bác cùng với sự nhạt tình, thiếu săn sóc của hai người con. Tôi mong cô ta cảm thương nỗi cô tịch của bác mà đặc biệt quan tâm. Tôi cũng không quên đưa cho cô ta số điện thoại, ân cần xin cô ta báo tin cho tôi biết ngay, bất cứ giờ nào, ban đêm hay ban ngày nếu có gì bất trắc, để tôi kịp đến thăm viếng hay giúp đỡ bác nếu cần.
Trở về nhà, vừa được 2
ngày, vào buổi sáng khi đang sửa soạn đi làm thì cô y tá trưởng từ bệnh viện
Genève gọi đến. Tôi giật mình, linh cảm có gì không may xẩy đến cho bác rồi. Cô
ta cho biết bác hiện đang ở khoa cấp cứu, trong tình trạng tuyệt vọng! Với tí
chút ngập ngừng cô ta cho biết đêm hôm qua vào khoảng nửa đêm, khi mọi người an
ngủ, bác đã dùng kéo cắt đứt sợi dây truyền serum, rồi để nguyên mũi kim trong
mạch máu ở khủy tay cho máu chẩy ra ngấm vào chăn và đệm! Khi người y tá trực
đêm biết thì bác đã rơi vào hôn mê. Bác sĩ khoa cấp cứu cho biết rất khó hy
vọng cứu chữa vì bệnh nhân đã bị sẵn bệnh về tim mạch lại bị mất máu nên cơ thể
rất yếu. Theo cô ta, nếu tôi đến bệnh viên trước buổi trưa hy vọng có thể gặp
được bác lần cuối cùng.
Dù bị vướng bận với
việc làm, nhưng tôi cũng xin nghỉ, lái xe một mình xuống Genève hy vọng gặp
được bác thêm một lần nữa. Trên đường đi, tôi cầu mong sự kiện không phải quá
bi đát như lời cô y tá nói với tôi.
Đến Genève,người đầu
tiên tôi tìm gặp là cô y tá, cô ta cho biết bác đã mất ngay sau khi cô ta điện
thoại cho tôi, hiện đang nằm ở một phòng riêng gần khu nhà xác của bệnh viện để
làm thủ tục cần thiết trước khi đưa vào nhà xác của bệnh viện. Tôi thẩn thờ khi
biết mình đến quá chậm để không gặp được bác lần cuối cùng!
Mở cửa bước vào căn
phòng nhỏ ở cuối hành lang của dẫy nhà phụ được tách biệt với khu vực chính của
bệnh viện,chỉ có một chiếc giường duy nhất trên đó bác Chấn đang nằm. Cặp mắt
của bác nhắm lại, bình thản như đang trong giấc ngủ! Chỉ có khác là khuôn mặt
của bác hốc hác làm cho đôi gò má nổi hẳn lên giữa màu xám, tái xanh xấu xí của
làn da mặt. Tôi im lặng đặt nhẹ bàn tay lên thân thể, lên cánh tay xương xẩu
của bác như muốn cảm nhận rõ hơn cái lạnh lẽo của cơ thể cũng như nỗi buồn đau,
cô độc của tâm hồn bác lúc ra đi.
Cũng chính lúc đó, lời
tâm sự của bác mấy ngày trước khi vợ chồng tôi đến thăm bác ở bệnh viện hình
như vang nhẹ bên tai tôi: Bác đã lầm lẫn chọn lựa! Cái lầm lẫn đã làm cho bác
mất tất cả!Mất nhà cửa,mất tiền bạc nữ trang và có lẽ mất cả hai đứa con của
bác nữa! Bác đã không thể hình dung ra cuộc sống xa quê hương nó lại mang đến
cho bác thất vọng và buồn đau đến như thế! Nhưng ân hận cũng đã muộn, chẳng còn
giải quyết nào khác hơn là phải chấp nhận những ngày tháng cô liêu đang đến.
Nhưng bác tự hỏi bác có can đảm để chấp nhận nó suốt cuộc đời còn lại của bác
hay không? Tôi đưa mắt nhìn qua khung cửa sổ, bên ngoài ánh nắng hoàng hôn đổ
dài trên con đường trải đá sỏi trong khung viên của bệnh viện.Vài con chim nho
nhỏ chuyền nhẩy trên cành cây làm rung động những bông hoa cuối mùa đã khô vì
nắng gió còn sót trên những đọt cây... Không gian thật vô tư, im lặng, chẳng có
gì khác lạ để cảm thương cho một người mẹ đã vượt xa biết bao nhiêu khoảng cách
trời đất, rời bỏ quê hương đến nơi đây với hy vọng được sống gần những đứa con,
tìm cho mình một niềm vui đoàn tụ. Nhưng cuối cùng phải mang lấy nỗi buồn đau,
cô tịch mà về với hư vô!
Switzerland, Zuerich,
19/10/2024
Lưu An Vũ Ngọc Ruẩn
No comments:
Post a Comment