Đập mạnh tay vào thành xe để tạo tiếng động lớn,
Huân vừa reo vui vừa vẫy tay về phía người bán hàng bên cầu Xóm-Bóng, cạnh bậc
cấp dưới chân Tháp Bà và reo lên:
– Má! Má ơi, Má! Con nè, Má!
Mỗi lần nghe tiếng đứa con thân yêu, Hạnh lính
quýnh, bỏ quày hàng và bỏ cả khách hàng, chạy ra sát lề đường, vừa che mắt vừa
nhìn theo chiếc xe đò để thấy anh chàng “lơ” xe vừa vẫy tay về phía Hạnh vừa cười.
Chiếc xe đò lẫn khuất trong dòng xe cộ ngược xuôi
trên cầu Xóm-Bóng, nhưng Hạnh vẫn tần ngần nhìn theo. Ôi, chiếc cầu nối hai miền
thân yêu của quê Nội hiền hòa mà sao chiếc cầu lại chia cách Hạnh với Phong – kể
từ ngày Hạnh tiễn Phong trở lại đơn vị lần sau cùng! Chỉ vài năm sau, trong khi
Phong biền biệt nơi nào gia đình không nhận được tin, thì chiếc cầu này lại
chia cách Hạnh và Huân để Huân theo những chuyến xe đò xuyên Việt, kiếm tiền
nuôi thân và cũng giúp Mẹ nuôi em.
Khi nào nhớ đến chồng con là Phong và Huân, Hạnh
cũng mủi lòng, đưa tay quẹt nước mắt. Vừa khi đó, Hạnh bị níu tay và giọng ái
ngại của Thủy vang lên nho nhỏ:
– Má! Đừng khóc, Má.
Hạnh quay lại và nhận ra cặp mắt của Thủy cũng ửng
đỏ. Thủy nén tiếng nấc, tiếp:
– Má đã hứa với con là Má không khóc nữa mà! Nếu
Má cứ khóc mỗi khi thấy anh Huân thì con sẽ dặn anh ấy, khi nào xe chạy ngang
đây, anh ấy sẽ không gọi má nữa .
Giọng Hạnh có vẻ hoảng hốt:
– Đừng! Đừng, con. Lâu lâu Má mới thấy anh Huân
một lần mà, con.
Thủy ân cần kéo tay Hạnh:
– Đi, Má. Má trở lại thối tiền cho người ta.
Như hiểu phần nào thảm cảnh của Mẹ con nàng, người
khách khoát tay. Thôi, chị giữ để mua quà cho cháu. Rồi người ấy lẫn vào với
nhóm du khách vừa từ Tháp Bà xuống. Thấy khách thưa dần, Thủy đề nghị:
– Chiều rồi, con về nấu cơm rồi con sửa sọan đi
học nhen, Má. A, mà Má về thì Má ăn trước đi, đừng chờ con.
Trước khi lên xe đạp, Thủy quay lại, dặn dò:
– Má không muốn nghe tiếng hát của ông công an
“dê” Má thì Má đóng cửa lại, nhen, Má.
Quanh xóm ai cũng biết chàng thiếu tá công an si
tình Hạnh. Nhiều người khuyên Hạnh nên “chấp nối” để các con đỡ khổ và
cũng để cho Hạnh bớt nhọc nhằn. Hạnh chỉ yên lặng, cười. Bây giờ nghe Thủy nhắc
đến anh công an, Hạnh cũng chỉ cười, khoát tay cho Thủy đi.
Nhìn dáng Thủy gầy guộc băng ngang con đường nhựa,
Hạnh tưởng như Hạnh có thể thấy được hình ảnh của chính nàng cách nay rất lâu;
có khác chăng, Thủy, vì đói khổ và bị đời “nhào nặn” cho nên Thủy gầy
gò, sành sỏi, và lanh lẹ. Và Hạnh, ngày xưa, lại tươi thắm, dịu dàng, xinh đẹp
và còn có tý tài mọn.
Chính tý tài mọn và nét dịu dàng, quý phái của Hạnh
đã làm nhiều thanh niên trí thức của Nhatrang say mê. Khi giáp mặt với những
nhân vật theo đuổi Hạnh, tại nhà của Hạnh, Phong cứ nghĩ rằng sẽ không bao giờ
Phong có thể “chiến thắng” được – dù Phong là một sĩ quan Lôi-Hổ!
Khi nhận biết Hạnh có cảm tình đặc biệt với
Phong, Phong vừa vui thích, vừa hãnh diện, vừa nghi ngờ, không hiểu Hạnh yêu
chàng hay là Hạnh – vì sự ngây thơ, dại khờ và tâm hồn lãng mạn của một nghệ-sĩ
tài-tử – bị lời ca của bản Chiến Sĩ của Lòng Em khích động! Lý do Phong nghĩ
như vậy là vì, một lần về phép, Phong được mấy cô cậu em rủ đi xem văn nghệ do
học sinh trường Võ-Tánh trình diễn tại rạp Minh-Châu.
Suốt buổi trình diễn, mục nào Phong cũng tán thưởng nồng nhiệt để cổ võ tinh thần các em hoc sinh của ngôi trường thân yêu mà Phong đã lìa xa sau khi chàng đỗ Tú Tài Toàn, ban Toán. Nhưng đến mục đơn ca do cô bé tóc kẹp, hơi gầy, tên Hạnh, trình bày thì Phong lại ngồi yên, lòng cảm thấy rộn ràng, phơi phới, lâng lâng theo điệu "swing". Khi Hạnh hát đến câu: “…Khi nước nhà phút ngã nghiêng, em mơ người trai anh dũng, mang thanh thế hiến giang sang, chí quật cường hiên ngang. Chiến sĩ của lòng em đắm đuối ước mơ, ở chiến trường xa giải nắng, dầm mưa…” (1) thì Phong tưởng như quanh chàng không còn ai và Hạnh hát bài này cho chàng và chỉ cho một mình chàng thôi. Phong chợt mỉm cười. Mấy người em của Phong không bỏ sót một cử động nào của Phong cả. Khi thấy Phong cứ tủm tỉm cười một mình và đôi vai nhun nhún, đầu gật gật nhè nhẹ, mấy người em bấm nhau, cười. Cô em liếng nhất nhà nghiêng sang Phong, nói vừa đủ cho Phong nghe: “Bắt được anh Phong rồi đó nghe. Nhỏ Hạnh học lớp em đó, anh bao tụi em đu đủ bò khô, em giới thiệu cho.” Phong vờ “ký” lên đầu cô em. Cô em cười, né sang một bên.
Khi buổi trình diễn chấm dứt, với nước da sạm nắng
và nhân dáng cao lớn, đượm chút phong trần của Phong – trong bộ quân phục bốn túi,
màu hoa rừng và chiếc ‘bê-rê’ màu nâu đội hơi nghiêng – nổi hẳn lên giữa những
khuôn mặt trẻ thơ và những bộ đồ dân sự. Nhiều nam sinh len lén nhìn Phong với
ánh mắt đầy thiện cảm và ngưỡng phục.
Riêng Hạnh, khi được cô em của Phong giới thiệu,
Hạnh chỉ lễ phép cúi đầu chào chứ không biết gì để nói. Sau đó, mỗi khi được về
phép, Phong thường đến nhà thăm Hạnh và xin phép ông bà Hiển – Ba Má của Hạnh –
để Hạnh đàn cho chàng nghe. Hạnh vui vẻ đàn chứ Hạnh cũng chẳng nghĩ gì.
Rồi một hôm, Hạnh được một người bà con cho tháp
tùng nhóm học sinh ủy lạo binh sĩ tiền đồn, gần biên giới Lào-Việt. Toàn nhóm
được di chuyển bằng trực thăng, sáng sớm khởi hành, chiều trở về.
Chiều, trong khi đi bộ dọc theo con đường mòn quanh co từ ngọn đồi xuống chân đồi để đến bãi đáp trực thăng, Hạnh bỗng nghe tiếng hát và tiếng đệm Guitar, trong điệu Rhumba Melody, văng vẳng trong gian im vắng của núi rừng. Nhờ trình độ thẩm âm cao, Hạnh nhận ra tiếng hát và tiếng đàn không phải từ radio. Tuy nhiên, tiếng hát và lời ca của bản nhạc trong khung cảnh này tác động mạnh vào tâm hồn rất nhạy cảm của Hạnh. Hạnh bước chậm lại, lắng nghe, câu được câu mất: “…Chiều nao, anh đứng gác ngoài biên khu. Gió xa về dâng sương khói mịt mù. Đàn chim tung cánh bay về tổ ấm. Đêm xuống phai nhòa quê hương yêu dấu… Biệt ly qua bao tháng ngày anh đi. Lắng nghe thời gian giây phút hẹn về…Đây, núi rừng âm u, suối rừng vi vu, khói lam u huyền lững lờ buôn trên xóm vắng. Đây, những chiều hành quân, xóm nghèo dừng chân, nhớ thương Mẹ già nơi quê nhà xa xôi lắm…” Nhìn quanh, Hạnh chợt thấy một người mặc quân phục hoa rừng, mang giày trận, đội nón sắt, đang ngồi trên “lô-cốt”, vừa đàn vừa hát một mình.
Trong những tia nắng cuối ngày, hình ảnh của người-lính-nghệ-sĩ
trông vừa rực rỡ, vừa hào hùng, vừa lãng mạn… Hạnh bàng hòang dừng lại, nhìn sững
và nghĩ, hình tượng đẹp quá! Hình tượng đáng yêu quá! Việt-Cộng – dù là những
người vô tri – có lẽ cũng không nỡ “bắn sẽ” khi nghe người-lính-nghệ-sĩ ca lên
nỗi niềm của mình đối với quê hương, đối với gia đình và đối với thân phận của
chính mình.
Một vị sĩ quan của đơn vị trú đóng quay lại thúc
Hạnh đi nhanh, vì ngại trời tối sẽ nguy hiểm. Hạnh chỉ người-lính-nghệ-sĩ và hỏi
tên. Vị sĩ quan đáp:
- Thưa cô, đó là thiếu úy Phong, thuộc đơn vị bạn,
đến tăng cường cho đơn vị của chúng tôi.
Hạnh ngạc nhiên:
- Sao lúc trưa các anh không mời anh ấy hát?
Vị sĩ quan cười:
- Dạ, đơn vị của anh ấy đi hành quân mới vừa về
thôi. Chiều nào cũng vậy, sau khi hành quân trở về, Phong cũng ngồi chỗ đó, đàn
và hát một mình.
Hạnh ngập ngừng:
- Dạ, anh biết anh Phong họ gì không, thưa anh?
Vị sĩ quan lại cười và đưa tay có ý giúp Hạnh bước
lên trực thăng:
- Thưa cô, xin lỗi, tôi không để ý. Nhưng tôi
nghe ai cũng gọi anh ấy là Phong Lôi-Hổ.
Thốt nhiên tim của Hạnh lỗi một nhịp.
Từ trực thăng, nhìn những dòng sông uốn khúc, những ruộng lúa xanh rì, và đồi núi chập chùng tiếp nối nhau, Hạnh nhận ra vẻ đẹp hùng vĩ của quê hương. Nhưng hình ảnh khắc ghi vào tâm khảm của Hạnh lại là một Phong Lôi-Hổ ôm Guitar ngồi trên “lô-cốt” hát bản Chiều Biên Khu…
Đang chìm đắm trong dòng hồi tưởng, Hạnh chợt
nghe tiếng:
– Chị ơi, chị! Cặp ngựa bằng đá này giá bao
nhiêu?
Hạnh hơi lúng túng. Chỉ một thóang thôi, Hạnh
bình tĩnh trở lại, mỉm cười, nhìn người khách và cho giá món hàng. Người khách
rất dễ giãi, không trả giá, yêu cầu Hạnh gói cặp ngựa màu xam xám. Trong khi
gói hàng, Hạnh cảm biết người khách đang nhìn nàng chăm chăm. Khi trao hàng cho
người khách, Hạnh nhìn ông ấy. Ông ấy, một tay đưa tiền, một tay nhận gói hàng
nhưng ánh mắt vẫn không rời Hạnh. Bất ngờ ông khách hỏi:
– Hạnh! Có phải chị là Hạnh, con ông bà Hiển
không?
Hạnh vô cùng ngạc nhiên
– Tại sao ông biết Ba Má tôi?
Ông khách nhìn quanh, không thấy ai lạ, ngoài
người con trai của ông đang ngồi trên yên xe đạp, chờ ông, ông đổi cách xưng
hô:
– Hạnh! Em không nhận ra anh cũng phải. Bao
nhiêu năm gian khổ trong rừng sâu và gần hai mươi năm tù khổ sai thì làm thế
nào em nhận ra anh được! Hồi trước anh chơi Hạ-Uy-Cầm …
Duy chưa dứt câu, Hạnh đã vui mừng reo lên nho
nhỏ:
– Anh Duy, phải không?
– Ừ, anh đây.
– Ba Má em và mấy cô chú hồi trước trong ban
Bình-Minh đều nghe nhiều người bảo là anh theo Kháng Chiến và sau đó bị bắt, bị
tù đày.
Duy cười:
– Ừ. Còn Phong thì sao?
– Dạ…
Hạnh chỉ thốt lên được một tiếng rồi nghẹn ngào.
Duy nắm tay Hạnh, nhìn vào mắt nàng:
– Hạnh! Em đừng nói với anh là Phong đã chết,
nghe chưa? Anh mà còn sống thì không thể nào Phong chết được.
– Anh gặp anh Phong ở đâu, anh Duy?
– Anh và Phong gia nhập một tổ chức Phục-Quốc.
Hạnh khóc òa:
– Ôi, Trời ơi!
– Hạnh! Một người như Phong không bao giờ để Việt-Cộng
cầm tù một cách êm thắm đâu. Em nên nhớ và nên hãnh diện về chồng của em.
Hạnh im lặng. Nàng không lạ gì bản tính liều
lĩnh, can cường và bất khuất của Phong. Nhưng Duy đưa tin đột ngột quá khiến Hạnh
bàng hoàng. Duy tiếp:
– Anh trở lại nhà của Ba Má em nhưng không ai biết
Ba Má em đi đâu cả.
– Họ tịch thu nhà rồi đuổi Ba Má em đi kinh tế mới.
Em và hai đứa con của em cũng bị đi kinh tế mới suốt thời gian dài. Cách nay
khoảng một năm, à, anh nhớ Tân, em của em không?
– Ừ, cái thằng ôm ốm, sau đi Thủ-Đức rồi về Pháo
Binh diện địa đó chứ gì?
– Dạ. Tân bảo lãnh Ba Má em sang Mỹ. Nhờ Ba Má
em gửi tiền về giúp cho nên em mới tìm cách đưa hai cháu về được đây.
– Thưa anh, có, nhưng em từ chối.
– Tại sao? Trời! Sao em dại quá vậy?
– Anh nghĩ xem, em đi sao đành khi mà em không
biết tin tức gì về anh Phong cả.
– Phong không liên lạc gì với gia đình sao?
– Dạ không.
– Nhưng em ở lại em cũng không thể lo gì cho
Phong được. Em hãy nghĩ đến tương lai hai cháu.
– Em đã nghĩ đến điều đó. Nhưng, cháu Huân trên
21 tuổi, không đủ điều kiện. Cháu Thủy đủ điều kiện. Nhưng, Thủy và em sang Mỹ
làm gì trong khi anh Phong vẫn biệt tăm và cháu Huân ở lại đây một mình?
Duy trầm ngâm một chốc:
– Em nghĩ như thế cũng phải.
Hạnh nhìn Duy:
– Anh Duy, anh cho em hỏi anh một câu, được
không?
– Ơ, cái cô này! Em muốn hỏi gì thì cứ hỏi, sao
lại phải xin phép?
– Vì câu này có thể chạm tự ái của anh.
– Chạm gì? Em nhớ, hồi đó, em đàn hoặc hát sai
nhịp là anh rầy liền. Anh đâu có sợ chạm tự ái em. Anh em là phải như thế.
– Dạ, em muốn hỏi anh là anh hiền và dáng vóc
trông nghệ sĩ như vậy mà tại sao anh xin về Thủy-Quân Lục-Chiến rồi sau lại dám
theo Kháng Chiến?
– Ơ, nghệ sĩ thì nghệ sĩ, hiền thì hiền chứ. Thủy-Quân
Lục-Chiến chỉ dữ với Việt-Cộng thôi chứ đâu có dữ với ai. Còn anh, Ông bà Nội
Ngoại và Bố Mẹ của anh đều bị Việt-Cộng đấu tố đến chết…
Duy nói chưa dứt câu, vội dừng lại, vì tiếng cô
bé đạp xe đạp ngang qua:
– Thưa Má con đi học.
Hạnh đưa tay ngoắt Thủy:
– Thủy! Con tới chào bác Duy, con.
Sau khi Thủy dựng xe đạp, khoanh tay chào, Duy
xoa tóc Thủy:
– Con gắng học giỏi cho Mẹ vui, nhé.
Nhìn sang Hạnh, Duy tiếp:
– Con bé giống y như em, hồi em còn bé. Ờ, mà
sao em không cho cháu nó học lớp ban ngày?
– Dạ, ban ngày cháu phải phụ em bán hàng; nếu
không thì trẻ con ăn cắp. Mấy đứa bé ăn cắp nhanh và “nghề” lắm, một mình em
trông hàng không được.
Hạnh vừa dứt câu, người con trai của Duy lên tiếng:
– Bố ơi, sắp đến giờ đón Mẹ, Bố coi chừng trễ.
– Ô, anh phải đến nhà thương đón chị. Anh mua cặp
ngựa này để biếu bác sĩ điều trị cho chị đó.
– Chị bị bệnh gì mà phải vào nhà thương?
– Sau khi nghe anh bị “tòa án nhân dân” kết tội
18 năm khổ sai, rồi đứa con gái của anh chị đi vượt biên bị hải tặc hiếp dâm đến
chết, chị chịu không nổi, điên! Thôi, chuyện dài lắm, cũng giống chuyện của
Phong và anh vậy. Ghi địa chỉ của em vào mảnh giấy gói hàng đây, hôm nào anh
ghé thăm, anh kể hết cho em nghe.
Duy vội vả quay đi. Hạnh chạy theo, đưa lại tiền
cho Duy:
– Anh Duy, cho em gửi lại tiền. Em không lấy tiền
đâu. Em biếu anh chị….
Duy khóat tay trong khi người con còng lưng đạp lấy trớn.
Còn lại một mình, thấy khách nhàn du thưa thớt,
Hạnh muốn dọn hàng về; nhưng tự dưng Hạnh cảm thấy sợ hãi niềm cô đơn nên không
muốn về. Hạnh khoanh tay trước ngực như muốn ôm kín nỗi quạnh hiu. Nhìn mong ra
dòng sông Cái, Hạnh thấy chiếc thuyền nhỏ xuôi dòng và hai bên bờ sông cây cỏ
nhạt nhòa trong bóng hoàng hôn; chỉ có hòn đá Chữ ngạo nghễ vương cao để những
tia nắng cuối ngày ve vuốt từng kẻ đá rong rêu.
Nhìn hòn đá Chữ một lúc Hạnh mới nhận ra những
đóm sáng thật xa, kết thành hình cánh cung. Đó là những ngọn đèn đường dọc bờ
biển Nhatrang. Dọc theo bờ biển đó, ngày xưa, mỗi lần về phép, Phong và nàng
thường lặng lẽ đi bên nhau. Khi chiều xuống, “hai đứa” dừng chân bên gốc dừa hoặc
ngồi cạnh nhau nơi bãi vắng. Những lúc đó Phong thường bảo Hạnh hát cho chàng nghe.
Phong thích nhất bản Dans Tes Bras của Dalida – một nghệ sĩ tài danh mang hai
dòng máu Pháp và Ai-Cập. Hạnh tựa đầu lên vai Phong, hát nho nhỏ. Phong âu yếm
vuốt tóc nàng. Khi Hạnh hát đến đoạn:
Phong tưởng như tiếng hát của người yêu vang vọng
cả vùng không gian êm đềm quanh đây và vang vọng trong trái tim ngùn ngụt thương
yêu của chàng.
Tình thương yêu bao la của Phong, không những Phong dành cho Hạnh, mà, trên hết, Phong dành cho Chúa và cho Cha Mẹ. Nhưng, lạy Chúa ! Phong nghĩ rằng Phong đã phụ lòng Chúa và Cha Mẹ; bởi vì Cha Mẹ gửi Phong vào chủng viện, hy vọng sau này Phong sẽ trở thành linh mục. Nhưng Phong, với bản tính phóng khoáng, thích phiêu lưu, thích thực hiện những điều mà “người lính chiến thường kể cho nhau nghe”, cho nên Phong rời chủng viện, thi vào Trường Võ-Bị Quốc-Gia Dalat. Sau khi mãn khóa, Phong chọn binh chủng Lôi-Hổ để thỏa chí tang bồng.
Thời gian đầu, Cha Mẹ rất bất mãn, buồn phiền.
Nhưng thấy Phong vui và Phong rất hãnh diện về bộ quân phục của chàng, Cha Mẹ
tha thứ cho Phong và Cha Mẹ lại hãnh diện với bạn bè, làng xóm về Phong.
Niềm hãnh diện của Cha Mẹ đối với Phong chẳng
khác chi niềm hãnh diện của Phong khi Phong sánh bước cùng Hạnh trên những con
đường thương mến quanh ngôi trường Võ-Tánh.
Khi đi trên con đường chia cách trường Võ-Tánh
và bệnh viện Nguyễn-Huệ, Hạnh thấy một chiếc Jeep chậm lại và từ chiếc Jeep, một
sĩ quan mặc quân phục Hải-Quân chồm ra, nhìn Phong:
- Phong! Phải Phong không?
Phong vui mừng reo lên:
- Dạ, thưa Thầy, em, Phong đây.
Vị sĩ quan Hải-Quân bước xuống, bắt tay Phong:
- Sao, khỏe không? Dạo này ít thấy Phong ghé
thăm.
Phong cười:
- Dạ, vì em bận hành quân liên miên. Em cũng
tính nay mai ghé thăm Thầy đó chứ.
Vị sĩ quan Hải-Quân vỗ vai Phong:
- Thôi, gọi bằng anh đi. Kỳ này Phong về được mấy
ngày?
Phong chưa kịp đáp đã thấy vị sĩ quan Hải-Quân
nhìn về phía Hạnh rất nhanh, ánh mắt như dò hỏi. Phong xoay sang Hạnh, giới thiệu:
- Dạ, thưa Thầy, ô, thưa anh, đây là cô Hạnh, bạn
của em. Và đây là Thầy Sơn, giáo sư của anh.
Sơn xuất thân từ một trường đào tạo sĩ-quan Hải-Quân
của Pháp. Sau khi trở về nước và phục vụ cho Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa, Sơn trở
thành Thầy của nhiều khóa sĩ-quan Hải-Quân Nhatrang. Và sau đó Sơn trúng cử và
trở thành Dân Biểu Quốc-Hội. Hạnh chỉ biết như vậy thôi. Đến khi nghe Phong giới
thiệu, Hạnh ngây thơ:
- Ủa, Thầy dạy ở Võ-Tánh tại sao em không biết?
Phong cười, pha trò:
- Cái cô này! Thầy là giáo sư của những lớp lớn,
như anh nè. Còn em là học trò…hụt.
Sơn cười hiền hòa:
- Tôi là Thầy…hụt của Hạnh thì đúng hơn.
Nói xong, cả ba người cùng cười…
Nhớ đến kỷ niệm vui, Hạnh bình tâm trở lại. Hạnh lủi thủi dọn hàng về.
Sau khi hâm nóng nồi cá nục kho khô, gắp ra dĩa,
Hạnh xắt trái dưa leo, đem hai chén và hai đôi đũa để trong lồng bàn, đậy lại.
Hạnh ngồi nơi ngạch cửa đợi con về.
Khi nào thấy Hạnh, anh thiếu tá công an – được
“nhà nước” cho chiếm cứ ngôi nhà của một sĩ quan “Ngụy” đã di tản, nằm đối diện
con hẽm nhỏ, trước ngôi nhà Hạnh thuê – cũng cất tiếng ca “tồ tồ” để ve vãn Hạnh: “…Hoàng
hôn nhuộm sương buồn. Là mùa Thu thê lương. Em mõi mòn mong chờ một ngày về quá
xa. Dưới rèm mắt em mờ trông bóng anh với quân lên đường. Lá rơi, kìa, Thu! Thu
đến bao lần. Hỡi người quả phụ phòng không. Mùa Thu đến chàng không về. Hôm nay
hoa lá rơi điêu tàn! Ai ơi, mùa Thu đến cô đơn…”.(2) Hạnh
than thầm, lời ca sướt mướt của một bản nhạc tình được viết theo thể điệu Boston,
âm giai Ré trưởng mà được anh chàng công an “xướng” lên như vậy
thì quả là…phản nghệ thuật! Hạnh bực mình, vào giường, lấy gối che tai để khỏi
phải nghe.
Tuy không phải nghe, nhưng vì anh thiếu tá công
an cứ hát bản đó hoài cho nên Hạnh thuộc và Hạnh nhận ra lời ca của bản nhạc đó
diễn tả được phần nào hòan cảnh và tâm trạng của nàng. Và tối nay, lời ca của bản
nhạc đó lại đem niềm thương nhớ Phong trở về trong lòng Hạnh. Hạnh mủi lòng,
khóc cho sự quạnh hiu của nàng; khóc cho sự khổ nạn của Phong; và khóc cho hoàn
cảnh thiệt thòi của Huân và Thủy. Hạnh cứ để nước mắt tuôn tràn, không cầm giữ
mà cũng không lau. Một lúc lâu lắm, Hạnh cảm biết như có người đến cạnh nàng.
Và mùi da thịt của người chồng hơn 20 năm bặt tin chợt thoang thoảng quanh
nàng. Hạnh cảm nhận được Phong đang ve vuốt mái tóc đã ngã màu của nàng. Rồi Phong
thì thầm hát cho nàng nghe: “Another day has gone. I thought I heard
you cry asking me to come and hold you in my arms. I hear your prayers. Your
burdens I will bear…you are not alone, for I am here with you. Though we’re far
apart, you’re always in my heart for you are not alone…I am here to stay…” (3)
Hạnh nắm bàn tay của Phong áp lên khuôn mặt đầm
đìa nước mắt của nàng để mê đắm theo tiếng hát của Phong. Phong từ từ cúi xuống…Giữa
lúc Hạnh sẵn sàng đón nhận nụ hôn nồng nàn của Phong thì Hạnh chợt nghe tiếng
thì thầm của Thủy:
– Má! Đừng khóc nữa, Má. Má phải phấn đấu để sống
thì anh Huân và con mới có nơi nương tựa …
Nói chưa dứt câu, Thủy sà vào lòng Mẹ. Hai Mẹ
con ôm nhau, khóc vùi!
***
“Về đây nhìn mây nước bơ vơ. Về đây nhìn cây lá
xác xơ. Về đây đâu còn phút sum vầy, đâu còn bóng người xưa, lạnh lùng ngắm trời
mây. Ôi, quê hương giờ đây nát tan! Đò vắng không người sang, thôn xóm trông
điêu tàn. Xa xa nghe tiếng chim kêu đàn, nghe suối reo bên ngàn, dường như oán
như than!…” (4)
Nghe người hành khất cứ hát tới hát lui mấy câu
đó, Phong vừa khom người bỏ vài đồng tiền lẽ vào chiếc nón nhà binh rách, đặt
trước mặt người hành khất, vừa nói nhỏ, giọng buồn bả:
– Nè, anh bạn! Anh còn bài nào khác không, sao cứ
hát bài này hoài, nghe buồn quá!
– Tui đâu phải ca sĩ mà có bài khác.
– Hát bài này anh không sợ sao?
– Sợ gì? Tui cùi, đâu sợ lỡ. Mẹ, “uýnh” nhau mấy mươi năm không…rụng sợi lông; bầy đặt rút quân để tụi tui như rắn không đầu. Lúc đó tụi tui đang quần thảo với quân chính quy Bắc-Việt tại đèo Phượng-Hoàng. Sau khi bắt được tụi tui, “cha con tụi nó” muốn sỉ nhục tụi tui, bắt tụi tui cởi bỏ đồ trận, bận quần xà-lỏn, áo thun, đi hàng một dọc theo đường cái. Mẹ! Tui đâu chịu nhục. Chờ thời cơ thuận tiện, tui cướp súng của một thằng cảnh vệ. Tui chưa kịp bắn thì thằng cảnh vệ khác bắn tui! “Cha con tụi nó” tưởng tui chết thiệt thành ra “cha con tụi nó” dẫn tù, bỏ đi.
Suốt ngày Phong tìm Cha Mẹ, vợ con không ra,
lòng rối như tơ vò. Bây giờ gặp người “nói chuyện xưa” Phong đưa đẩy câu
chuyện trong khi tâm trí của chàng vẫn còn lo lắng, không biết sẽ tìm gia đình
bằng phương cách nào!
– Vậy anh là thứ dữ, “dân” Dù, phải không?
– Sao biết?
– Tôi từ trại giam Lam-Sơn về. Trong trại giam
Lam-Sơn có nhà giam số 10 dành cho trung đội Dù bị bắt tại đèo Phượng-Hoàng,
thuộc quận Khánh-Dương…
Người hành khất đánh vào đùi một cái, cắt lời
Phong:
– Chết mẹ rồi! “Cha con tụi nó” “tóm” trọn “ổ”
trung đội của tui rồi!
– Anh là cấp chỉ huy của đơn vị đó à?
– Giỡn, cha! Sĩ quan Dù “ngon” lắm chứ đâu có
như tui. Cấp chỉ huy gì ăn nói “ba đá” như tui, cha. Tui là lính trơn hà. Rồi
sao nữa, cha kể tiếp cho tui nghe giùm đi.
– Trung đội đó chỉ có một đại úy và một trung
úy; số còn lại là hạ sĩ quan và lính.
Người hành khất lầm bầm:
– Ủa, còn ông Thầy của tui đâu cà? Lạy Trời cho ổng
còn sống…
Bất chợt người hành khất nhìn Phong, tiếp:
– Còn cha? Cha làm gì mà vô trại Lam-Sơn?
– Tôi bị bắt cùng một lần với trung đội Dù đó.
– Ô, vậy cha cũng là thứ dữ rồi, mà sao cha được
tha về, lẹ vậy?
Bản tính bộc trực, “ruột để ngoài da”
nhưng Phong hiểu không nên nói sự thật trong hoàn cảnh này cho nên nói hơi trại
đi một tý:
– Ban quản giáo phái tôi về đây mua cưa máy để
tù nhân cưa cây, tự sửa sang nhà tù của mình.
Giọng người hành khất trầm hẳn xuống:
– Sao không trốn đi, cha?
Phong cười, chỉ Thiệt, đang ngồi chồm hổm trên bậc
cấp, dưới chân Tháp Bà, nhìn chàng không rời:
– Thấy anh trung sĩ đó không? Anh ấy là cán bộ
hướng dẫn nhà 10. Ban quản giáo cử anh ấy đi theo tôi để “bảo vệ” tôi trong chuyến
công tác này. Anh ấy hiền, rất dễ thương, có cảm tình với tất cả tù nhân chúng
tôi.
Từ nãy giờ nghe Phong nói chuyện rất nhã nhặn,
bây giờ lại nghe Phong gọi “thằng Việt-Cộng” là anh trung sĩ, người hành khất
nghĩ rằng Phong không cùng giai tầng với mình, cho nên đổi cách xưng hô:
– Anh thấy “cha con tụi nó” dùng chữ hay không?
Đi theo canh tù thì nói đi theo canh tù, bầy đặt gọi là bảo vệ! Còn anh, anh
cũng là thứ dữ, vậy sao “cha con tụi nó” để anh về thành phố mà chỉ có một thằng
đi theo?
Phong cười, không đáp.
Trong thời gian ở trại Lam-Sơn, Phong cố chinh phục lòng tin của ban quản giáo để mưu đồ việc lớn. Ban quản giáo không hề biết ý đồ “đen tối” của Phong cho nên có vẻ tin tưởng Phong. Vì muốn tìm cách về thăm Cha Mẹ, vợ con một lần sau cùng trước khi cùng Duy thực hiện kế hoặch quy mô cho nên Phong nói với ban quản giáo là chàng muốn về mua cưa máy đem lên tặng cho Trại. Ban quản giáo phái Thiệt – có võ trang – đi theo.
Suốt ngày đi theo Phong, Thiệt cảm thấy có cảm
tình với Phong nhiều hơn, không phải vì Phong cho Thiệt ăn những món đặc sản miền
Nam – do tiền Phong bán chiếc nhẫn cưới – mà vì phong thái của Phong rất hiên
ngang, ngạo mạn, chẳng biết sợ ai. Thiệt nhớ, trong một lần Thiệt đến trại 10
làm nhiệm vụ hướng dẫn, trong lúc vui miệng, Thiệt thuật lại cho nhiều “trại
viên” nghe về một trận đánh đẫm máu giữa đơn vị của Thiệt và một đơn vị quân đội
V.N.C.H. để giành một vị trí chiến lược gần Lộc-Ninh. Thiệt bảo, dù chấp nhận mọi
tổn thất nhân mạng, đơn vị của Thiệt cũng vẫn không chiếm được mục tiêu. Phong
cho biết, đơn vị của chàng được biệt phái tăng cường trong trận đánh đó. Và
Phong kết luận:
- Đánh đấm với các anh chán bỏ mẹ! Quân của các
anh chỉ toàn con nít, cỡ 14 hay 15 tuổi, không biết gì khác ngoài việc xông tới,
hết lớp này đến lớp khác. Chúng tôi bắn quân của các anh chết, thây chồng chất
lên nhau, trông vừa thương tâm vừa kinh tỡm!
Chưa hết! Khi ban quản giáo bảo “trại viên” viết
bản thu hoặch, Thiệt thấy Phong chỉ viết có vài dòng. Thiệt hỏi. Phong bảo:
“Các anh nói các anh đã biết hết rồi thì tôi còn gì để viết nữa. Tôi viết ngắn,
gọn: Tôi là một sĩ quan Lôi-Hổ, một binh chủng được huấn luyện để thực hiện những
công tác đột kích vào mật khu Việt-Cộng. Và tôi đã giết nhiều cán bộ cao cấp
trong những lần đột kích đó. Tôi sẵn sàng nhận lãnh hậu quả của người chiến bại
theo tinh thần thượng võ; không có gì để các anh khoan hồng hay bắt tôi khai
báo.” Nhiều “trại viên” nhìn Phong với ánh mắt ái ngại. Một “trại viên” tên Sơn
– mà Phong lộ vẻ rất kính trọng và nói với mọi người đó là Thầy của Phong –
khuyên Phong nên thận trọng. Phong đáp tỉnh bơ:
- Thưa anh, em biết họ và họ biết rõ em. Trước
sau gì họ cũng giết em. Hôm bị bắt, em đã muốn tự vẫn, nhưng vì em là người
theo đạo Thiên Chúa. Bây giờ em phải nói để họ biết rằng Người Lính V.N.C.H.
không hèn nhát. Thua, chúng tôi chấp nhận mọi hậu quả. Chúng tôi không than
trách, không đổ thừa đồng minh bỏ chạy.
Thiệt thầm nghĩ, Phong “chì” thật. Tiếng “chì” Thiệt bắt chước ngôn ngữ miền Nam.
Là một người gan dạ và rất “chì”, nhưng suốt ngày tìm không được Cha Mẹ, các em và vợ con, Phong thiểu não ngồi nơi bậc cấp dưới chân Tháp Bà, gục đầu vào lòng bàn tay. Suy nghĩ mãi Phong cũng không thể đoán được điều gì đã xảy ra cho đại gia đình và tiểu gia đình của chàng. Cuối cùng, Phong nghĩ, có thể gia đình di tản ra ngoại quốc. Giả thuyết này giúp Phong yên lòng. Phong ngẫng lên, nhìn suốt con đường quen thuộc đối diện với Tháp Bà.
Trên con đường quen thuộc đó không biết bao nhiêu lần Phong lái Vespa chầm chậm, xa xa, lén theo sau Hạnh, rồi lượn qua lượn lại trước nhà nàng chứ không dám vào. Sau khi “hai đứa” thầm lén yêu nhau một thời gian, Hạnh viết thư cho Phong biết rằng ông bà Hiển không cho phép nàng quá thân thiện với những người khác tôn giáo và những sĩ quan tác chiến – như chàng. Phong buồn lắm, chỉ ngại Hạnh nghe lời Cha Mẹ, đoạn tuyệt với chàng. Và, Phong xin nghỉ phép đặc ân.
Vào một buổi sáng cuối tuần, cũng trên con đường
đó, trẻ em và người tò mò đã ùa ra nhìn hai chiếc Jeep. Chiếc Jeep đi trước chỉ
có tài xế, ngồi cạnh tài xế là trung úy Lôi-Hổ Nguyễn-Phong, trong quân phục đại
lễ, lưng đeo súng lục, ngực đầy huy chương và trên xe cũng đầy sính lễ. Chiếc
Jeep thứ hai gồm tài xế, một đại úy đại diện nhà trai và một trung úy phụ rể.
Khi thấy hai chú lính trang trọng bưng sính lễ
vào nhà và Phong cùng hai sĩ quan đột ngột xuất hiện, ông bà Hiển vô cùng ngạc
nhiên nhưng cũng phải ra tiếp. Ông Hiển hỏi:
- Xin lỗi, quý vị có nhầm nhà hay không? Tại sao
trung úy Phong hôm nay lại xuất hiện một cách trang trọng như vậy?
Vị đại úy chủ hôn trình bày lý do. Ông Hiển lắc
đầu:
- Chúng tôi chưa bao giờ chấp thuận lời cầu hôn
của bất cứ ai, cho con gái của chúng tôi.
Vị đại úy xin ông bà Hiển cho phép Hạnh ra phòng
khách để được xác định.
Bà Hiển vào gọi Hạnh. Hạnh – đã theo đúng kế hoặch
do Phong dặn trước – e dè bước ra trong chiếc áo dài màu hồng, tai đeo đôi hoa
tai lấp lánh, cổ đeo kiền chạm, tóc vấn khăn vành. Ông bà Hiển chỉ biết nhìn
nhau. Vị đại úy chủ hôn hỏi Hạnh:
- Cô Hạnh! Cô biết hôm nay là ngày gì và tại sao
chúng tôi dâng sính lễ hay không?
Hạnh thẹn thùng cúi mặt, nói nho nhỏ:
- Kính thưa Ba Má! Xin Ba Má tha tội cho con.
Hôm nay là ngày anh Phong xin phép Ba Má cho con về làm vợ anh ấy.
Ông Hiển giận quá, tái mặt, muốn nói đều gì đó;
nhưng bà Hiển bấm tay ông, nói nhỏ:
- Thôi, ông. Con nó lỡ thương thì thôi.
Trước khi nắm tay Hạnh bước ra xe, Phong hơi cúi
đầu trước mặt ông bà Hiển:
- Con xin biết ơn Ba Má.
Ông bà Hiển vừa giận vừa buồn nhìn theo hai chiếc Jeep. Trẻ con chạy theo xe reo hò trong khi Hạnh, ngồi cạnh Phong, khóc sướt mướt; không biết Hạnh khóc vì lấy được người nàng yêu hay là khóc vì đã làm Cha Mẹ buồn lòng!
Ngày xưa đó, dù Hạnh khóc vì lý do nào đi nữa
thì những dòng nước mắt của Hạnh cũng không mang niềm uất hận và sợ hãi như khi
Hạnh khóc lúc hay tin đơn vị của Phong “tan hàng”! Nghĩ đến Cha Mẹ, ông bà Hiển
và vợ con cùng những quân nhân trong đơn của chàng, Phong chỉ biết thở dài.
Xa xa, tiếng hát của người hành khất vẫn dội vào tâm thức buồn thảm của Phong: “Về đây…”
***
Tại trại Lam-Sơn, thời gian đầu, vợ con tù nhân
có thể thăm viếng tù một cách dễ giãi. Nhưng Phong không muốn nhắn cho gia đình
biết tin vì chàng có dụng ý riêng. Trước cổng trại Lam-Sơn ban quản giáo còn
cho phép họp chợ bán thức ăn và mọi thứ cần dùng cho tù nhân. Nhờ vậy Phong mới
bán đưọc chiếc nhẫn cưới.
Khi từ Nhatrang trở về, thấy không ai mua bán gì
trước trại Lam-Sơn như mọi hôm, Phong hỏi Thiệt. Thiệt bảo chả biết. Linh tính
nhạy bén báo cho Phong biết rằng có chuyện không hay. Vào trong Trại, sau khi
trình diện ban quản giáo, Phong vội vã trở về nhà 10.
Vừa thấy Phong, Sơn kín đáo ra dấu để Phong theo
chàng ra ngoài. Nhìn quanh, không thấy ai, Sơn cho Phong biết, hôm qua Duy và
vài bạn tù vượt thoát, nhờ lẫn vào những người buôn bán trước cổng Trại. Phong
sốt ruột:
- Có ai bị bắt lại không, anh?
Sơn lắc đầu:
- Không. Hy vọng tất cả thoát được. Có điều tệ hại
là ban quản giáo đã tìm ra danh sách của những tù nhân liên hệ trong một tổ chức
bí mật! Tôi thấy Phong thân với anh Duy cho nên tôi báo cho Phong biết. Cẩn thận,
nha.
Phong ngần ngừ, muốn nói điều gì đó, nhưng vội
ngưng.
Chiều đến, đang ngồi cạnh con đường đất, Sơn bỗng
nghe tiếng Phong từ một GMC đang chạy ngang:
- Anh Sơn ơi! Em đi đây. Vĩnh biệt anh!
Sơn vội đứng lên, nhìn theo. Sơn thấy Phong đưa
cao tay vẫy vẩy và cố hét lớn:
- Anh Sơn! Vĩnh biệt anh!
Sơn đứng lặng, tưởng như tiếng gào của Phong
vang dội, làm rung chuyển cả núi đồi. Khi chiếc GMC khuất ở cuối đèo chính là
lúc một tâm niệm vừa khởi lên trong lòng Sơn. Nếu còn sống, Sơn sẽ tìm mọi cách
gặp vợ con của Phong để kể lại giây phút bi hùng của Phong Lôi-Hổ.
Hơn ba mươi năm sau, từ ngọai quốc trở về thăm
quê hương, tình cờ Sơn gặp lại Duy. Sơn cho Duy biết tâm nguyện của Sơn. Duy
vui mừng:
- Anh đến nhà giờ này không gặp cô ấy đâu. Anh đến thẳng chỗ quày hàng, bên kia cầu Xóm-Bóng, dưới chân Tháp-Bà, là anh thấy Mẹ con của cô ấy ngay.
***
Thời gian đã phôi phai, nhưng khi kể đến giây
phút bi hùng có thật của Phong, Sơn vẫn tưởng như tiếng gào cùa Phong còn xóay
sâu trong lòng chàng. Và Huân, khi nghe Sơn lập lại năm tiếng sau cùng của
Phong, Huân chịu không nổi, vội đứng lên, đi nhanh ra chỗ khác. Thủy đưa tay quẹt
nước mắt. Sơn nhìn Hạnh. Hạnh vẫn ngồi lặng yên, mắt đăm đăm nhìn xuống dòng
sông, không chớp. Tự dưng Sơn mong được thấy những giọt nước mắt lăn dài trên
khuôn mặt sạm nắng của Hạnh. Hạnh vẫn ngồi trơ như pho tượng. Một lúc lâu, Sơn
thấy dường như Hạnh đang cố nuốt vật gì to lớn lắm. Sơn thở dài, thầm nhủ: Khóc
đi Hạnh! Khóc đi cho vơi bớt sầu thương.
Hạnh vẫn không khóc. Nhìn con đò nhỏ xuôi dòng,
Hạnh chợt nhớ lại câu nói của Duy: “…Anh mà không chết thì không thể
nào Phong chết được…” Vừa lúc đó Hạnh tưởng như nàng nghe được giọng
hò êm ái của cô lái đò vang xa trong không gian loáng thoáng ánh trăng non: “….Hò…
ho…hó…ho…ho…Nghe…gió lùa…trong đêm vắng. Em… mơ thấy chàng … bên sông mờ
trăng…” (5)
Hạnh từ từ nghiêng sang Thủy, tựa đầu lên vai
con, thổn thức…
Điệp-Mỹ-Linh
* Cảm tác và “mượn” vài chi tiết từ bài viết “Chuyện
Một Người Chiến Binh Trong Cuộc Chiến Nam Bắc” của Trần-Bình-Nam.
---------
(1) Chiến Sĩ của Lòng Em của Canh-Thân
(2) Thu Cô Phụ của Điệp-Linh
(3) You Are Not Alone của R. Kelly
(4) Trở Về của Châu-Kỳ
(5) Bên Sông Cũ của Điệp-Linh
No comments:
Post a Comment