Hoài niệm trên những chuyến đi.
Một số người giải thích vì hầu hết các chủ nhà xe đi
miền Trung là người Sài Gòn nên “xe đò” trở thành phương ngữ chung cho tiện. Và
rồi câu chuyện sôi nổi hơn khi nhà văn nhắc tới kỷ niệm thời học sinh trung học
từng đi xe đò từ Rạch Giá về Cần Thơ mà ông có nhắc lại trong tập “Hồi ký Sơn
Nam”: “…Tiền xe từ Rạch Giá đến Cần Thơ là một đồng hai (120km) nhưng nhỏ tuổi
như tôi chỉ tốn có 6 cắc. Tôi lên xe ngồi để người phụ xế sắp đặt chỗ ngồi cho
gọn, khép nép, chung quanh xe là nhiều người rao hàng để hành khách ăn buổi
sáng vì buổi trưa mới đến bến Cần Thơ, tôi còn nhỏ, ba tôi cho riêng tôi 2 cắc,
rất tủi thân vì trong khi ấy gia đình khá giả dám trả 1 đồng hai (hai chỗ dành
cho trẻ con rộng rãi hơn) lại dành cho con một cái bánh bao to để ăn dọc đường.
Xe khách bóp kèn inh ỏi, chạy vòng quanh để tìm kiếm
khách…”
Nhưng điều thú vị nhất là ông kể hồi thời kỳ đầu xe đò
do người Pháp làm chủ toàn là loại xe nhỏ chở khách chừng hơn hai mươi người,
nhưng chỉ một thập niên sau, người Việt mình giàu có tham gia mở công ty lập
hãng, nhập cảng máy, khung gầm từ châu Âu châu Mỹ, đóng thùng thành xe đò loại
lớn chở hơn năm chục hành khách, cạnh tranh ác liệt trong giai đoạn đường bộ được
mở rộng và phát triển ở các tỉnh miền Tây và Ðông Nam Bộ, giao thông kết nối khắp
nơi, nhu cầu đi lại của người dân càng nhiều, tạo thành thời vàng son của xe
đò, khi chiến tranh Ðông Dương nổ ra, Nhật vào chiếm miền Nam, xăng dầu khan hiếm,
bị giám sát chặt chẽ, ngành xe đò suy giảm, một số hãng xe hoạt động cầm chừng
và phải thay đổi nhiên liệu cho xe hoạt động.
Cụ Sơn Nam kể: “Xe ô tô chở khách phải dùng “ga”, hiểu
là than củi tràm, bỏ vào cái thùng tròn đặt bên hông xe phía sau, trước khi cho
xe nổ máy thì quạt cho than tràm cháy, hơi ga ấy bị đốt, gây sức ép cho máy xe
chạy, gọi “Autogène”, theo mô hình của Kỹ sư Thịnh Hưng Ngẫu chế tạo ở Sài
Gòn”.
- Kỷ niệm kinh hoàng về chiếc xe than ..
Hình ảnh chiếc xe đò nhỏ chạy bằng than đốt trong cái
thùng phía sau xe được lặp lại từ sau khi bọn cộng sản vào tiếp quản trong giai
đoạn từ sau năm 1975 đến 1985, chắc người Sài Gòn tuổi trung niên trở lên đều
biết rõ, tôi từng đi loại xe sử dụng nhiên liệu này, mỗi lần chui vào cửa xe
phía sau là đều phải cẩn thận với cái thùng than cháy nóng được treo dính ở
đuôi xe, thường thì người ta chỉ cải tiến xe đò lỡ – tức là loại xe Renault cũ
xì từ giữa thập niên 50. Tuy giới lái xe gọi đó là xe đò hỏa tiễn nhưng nó chạy
chậm hơn xe chạy xăng hoặc dầu, có lúc xe chạy ì à ì ạch khi than cháy không hết,
lơ xe phải dùng thanh sắt mở lò đốt cời than, hoặc thỉnh thoảng gặp đường vồng
xóc, than văng ra khỏi cửa thông không khí, rớt xuống đường cháy đỏ rực.
Vô phúc cho chiếc xe đạp nào chạy phía sau tránh không
kịp, cán phải cháy lốp xe.
Xe đò hỏa tiễn chạy những đường ngắn như Sài Gòn –
Long Khánh, Chợ Lớn – Cần Giuộc – Gò Công, Sài Gòn – Long An, còn xe đò dài vẫn
chạy bằng xăng dầu, nhưng không còn nhiều như trước, trên mui phía đầu xe thường
có thùng phuy nước dùng để làm nguội máy, kế tiếp là nơi chở hàng hóa, xe gắn
máy, xe đạp cho khách buôn chuyến và khách đi tỉnh xa.
Tôi còn nhớ mãi lần đầu được đi xe lô về quê bên ngoại
ở Càn Long, Trà Vinh, năm đó tôi chín tuổi, đi cùng với người anh bà con, xe lô
có bãi xe ở Bến Bạch Ðằng và Bến Chương Dương. Bãi xe lô hay nhiều bãi bến xe
đò khác khắp nơi trong thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn đều nằm hai dãy dọc theo đường
phố, phòng vé là một cái quầy hay cái bàn gắn tấm biển to đề tên từng hãng xe,
chạy lộ trình nào, riêng xe lô không cần bán vé, khách đến bãi xe còn chỗ trống
cứ lên, đủ người thì bác tài chạy. Loại xe này gọi đúng tên là “Location”, sơn
màu đen, kiểu xe ô tô chở chừng bảy tám người nhưng bác tài cố nhét thêm hành
khách.
Xe lô chạy nhanh hơn xe đò vì không bắt khách dọc đường,
không lên xuống hàng hóa cồng kềnh, lại có khi qua cầu tạm không cần bắt hành khách
xuống cuốc bộ, để gió lùa vào cho hỉ hả đám hành khách ngồi chật cứng như nêm,
lại thêm giỏ xách túi bị, va li lỉnh kỉnh, bác tài mở cửa sau bung lên cột chặt
lại, người ngồi phía sau ngó ra phố phường.
Xe chạy ra khỏi Phú Lâm, nhìn cảnh đồng lúa xanh tươi
hai bên đường, lòng cảm thấy phơi phới mặc dầu lâu lâu tôi phải nhấc mông trở cẳng
vì bị ngồi bó gối.
Nói là đi xe lô thì hành khách không cần xuống bộ qua
cầu tạm, chứ lần đó tôi vẫn phải xuống cuốc bộ như bao chuyến xe đò khác. Tôi mới
ca cẩm, xe lô cái nỗi gì, có mà “lô ca chân” theo lời hát của một tuồng cải
lương trên truyền hình, sau năm 1968, cuộc chiến ngày càng ác liệt, cầu đường
nhiều nơi bị “mấy thằng việt cộng” gài mìn phá hủy, có nơi phải dựng cầu tạm, đầu
cầu có đặt trạm kiểm soát của quân cảnh hay cảnh sát, đường về Trà Vinh chỉ hơn
160 cây số mà qua mấy chục cây cầu, lại phải chờ phà Mỹ Thuận, đi xe lô cho được
nhanh mà về đến nơi phải mất năm sáu tiếng đồng hồ, huống hồ chi hành khách đi
miệt Hậu Giang, Cà Mau xuống ở bến xe còn phải đón đò về nhà ở vùng U Minh, Miệt
Thứ mất cả ngày đường. Chỉ có xe thư tức là xe đò làm nhiệm vụ giao nhận thư từ
bưu phẩm chuyển cho bưu điện tỉnh mới được ưu tiên, không phải lụy phà hay bị cảnh
sát xét hỏi.
Bây giờ xe đò tiến bộ hơn nhiều, xe có máy lạnh, ghế nằm
thoải mái cho khách đường xa, duy chỉ không có phòng vệ sinh trong xe, lại còn tặng
thêm nước uống, khăn ướt lau mặt, xe chạy nhanh nhờ có cầu qua hai con sông Tiền
và sông Hậu, tôi ngồi xe Taxi ngày nay chạy một lèo về tới chợ Cà Mau chỉ mất
sáu tiếng đồng hồ. Nếu không kể đến loại xe dù bắt khách dọc đường, thì xe đò
là phương tiện đi đường xa tương đối rẻ tiền.
- Từ thời Quốc Gia Việt Nam tới thời Việt-Nam-Cộng-Hòa
Hồi đó khu xa cảng miền Tây là bến tập trung các xe đò
về các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, bên cạnh đó lại có bến xe Chợ Lớn đi về Cần
Giuộc, Gò Công, Lý Nhơn, về sau bến xe này gộp lại với Xa cảng miền Tây mở rộng
thành Bến xe miền Tây nằm trên đường Kinh Dương Vương quận Bình Tân, còn bến Miền
Ðông dành cho xe đi các tỉnh miền Trung và phía Bắc trên đường Petrus Ký trước
kia thì gộp lại với hai bến xe nhỏ là Nguyễn Cư Trinh đi lộ trình cao nguyên và
Nguyễn Thái Học đi Long Hải – Vũng Tàu – Phan Thiết, rồi sau đó vài năm chuyển
về bến xe Văn Thánh, và cuối cùng yên vị tại Bến xe miền Ðông trên đường Ðinh Bộ
Lĩnh hiện nay.
Nhưng nghe đâu hai bến xe này sẽ phải dời ra xã Tân
Túc huyện Bình Chánh và Suối Tiên Q9 để có diện tích rộng hơn, đáp ứng được cho
nhu cầu ngày càng tăng, sẽ thiếu sót nếu không nhắc đến Bến xe An Sương, bến
này đúng ra có xe đi Tây Ninh – Bình Phước – Bù Ðăng, Bù Ðốp vùng Tây Trường
Sơn, nhưng cũng có xe đi vài tỉnh thành của cả ba miền, do hai bến xe miền Ðông
và miền Tây nhỏ hẹp.
Ai cũng có kỷ niệm lần đầu đi xe đò, mỗi chuyến xe
chuyên chở nỗi niềm hoài niệm, có người nhớ chuyện tiền vé như nhà văn Sơn Nam,
có người lòng phơi phới nhìn thấy phong cảnh đồng lúa xanh tươi chạy dài bên quốc
lộ như tôi, cũng có người nhớ mùi mồ hôi, mùi xăng dầu giữa nắng gió miền
Trung.
Nhớ bến bãi ồn ào í ới ngày xưa và cũng có người tuổi
đời chồng chất, nhớ cảnh xuống xe qua cầu xe lửa Bến Lức, Tân An thuở xa lắc xa
lơ hay những lúc đi tắm biển ở thành phố Vũng Tàu xưa.
Một thời kỷ niệm và đầy nhung nhớ.
Nguồn Sài Gòn Xưa
Share lại Hoài Niệm T.TT
No comments:
Post a Comment