Monday, January 25, 2021

Lá Số Vượt Biên - Phạm Hoàng Chương



Tôi lần đầu nghe nói về Tử vi năm 16 tuổi, học đệ nhị ở Saigon. Trong nhà có ông bác họ giải tử vi cho bà con trong gia đình, nghe bàn luận như vịt nghe sấm. Năm 23 tuổi đi dạy, 24 đi lính, mãi 26 tuổi được biệt phái về dạy lại mới được bác Hương, một bạn cũ của ba tôi, chấm giải giùm cho lá số tử vi. Còn nhớ mãi bác lập đi lập lại:

- Mệnh mày có Sát Phá Liêm Tham, hội Song Lộc, suốt đời không túng thiếu. 

Nghe thì nghe vậy chứ không khoái chí mấy, vì đinh ninh mình sẽ làm giàu nhiều hơn là chỉ “ không túng thiếu” như bác nói. Năm 1973, tôi 29 tuổi, mở một tiệm sách và tạp hóa lớn ở Phanrang, tiền vào như nước. Đang khấp khởi mừng thầm vì “tam thập nhi lập”, thì đùng một cái, hơn 1 năm sau , Cọng sản vào, sự nghiệp sụp đổ, hết dạy học, đi tù cải tạo. Những năm sau đó, gian nan lao động vất vã, làm lò gạch, thợ mộc, dạp xích lô… cảm thấy tương lai bắt đầu đen tối, tôi cố gắng tìm câu giải đáp cho tương lai bằng cách tự nghiên cứu học hỏi tử vi, nhờ có dấu được một số sách về tử vi tướng pháp khi dẹp tiệm sách.

 Năm 1977, phong trào vượt biên bắt đầu nhen nhúm khắp nơi trên toàn quốc,tôi tự chấm lấy cho mình lá số và chạy qua tham khảo ý kiến bác Hương, người con trai bác, và mấy người bạn giỏi về tử vi. Tuổi Giáp thân, sinh giờ Mẹo ngày 23 tháng 4 âm lịch, mệnh Thủy, tôi được cách Tham lang và Trường sinh đóng ở cung Dần ( sống lâu như ông Bành tổ), có Lộc tồn, Thiên mã ( học cao, tháo vát, kinh doanh giàu có), Phượng các, Bác sĩ, được Hóa Lộc ở Thiên Di và Hóa Quyền ở Tài xung và hợp chiếu. Đó là số văn chương học giỏi, năng động, tài ba, kinh doanh giàu có, phú quí trường thọ. Cung Nô bộc có Tả hữu, Xương Khúc, Khôi Việt nên số làm giáo sư có đông học trò giỏi và bạn bè sang quí. Ngặt nỗi bị cách “Mệnh Kiếp Thân Không “ và cung Quan Lộc có Tướng quân, Phục binh, bị TUẦN nên tuy sắc xảo khôn ngoan mà cuộc đời thăng trầm lên voi xuống chó, công danh lận đận, nghề nghiệp thay đổi liên miên. Thân cư cung Thiên Di là số xuất ngoại, nhưng bị Triệt chận, nên tôi hoang mang không biết có vượt biên ra nước ngoài bình yên hay không. Bấy giờ là chế độ bao cấp, đời sống cực kỳ khó khăn bi đát, tương lai của sĩ quan, trí thức chế độ cũ và con cái rất là tôi tăm, thê thảm, tôi thấy chỉ có con đường vượt biển là lối thoát duy nhứt cho gia đình. Em gái tôi theo chồng ra Qui nhơn làm giấy giả đi bán chính thức năm 79, tới Hongkong. Nhiều người trong tỉnh cũng đi vượt biên lọt, bắn tin về, tôi náo nức đứng ngồi không yên, nhờ bác Hương coi kỹ xem có hy vọng ra đi không. Bác cứ chỉ sao Địa Không ờ cung Di, có Địa kiếp ở cung Mệnh chiếu lên, lắc đầu lia lịa:

- Đi vượt biên coi chừng “mạt”…. 

Tôi cãi: 

- Nhưng mà Thân cư Di là số sống tha hương, Mệnh có Thiên Mã, Tràng sinh…là may mắn hanh thông , được đi nhiều nơi. Thiên mã ở Dần là Mã trạng nguyên, rất đắc lực. Không Kiếp tuy là sát tinh, nhưng Đắc địa, đâu phải hãm địa. 

- Mã này chỉ đi loanh quanh trong nước thôi. Ông già tao cũng Thân cư Di mà chết ở nhà.

Tôi không tin tưởng bác Hương nữa, hay đúng ra không muốn tin, vì sau cuộc đổi đời, bác đoán sai cho mấy người , và họ đến kể tôi nghe chuyện thằng Hàng, con bác, mà người ta đồn là chính bác chấm tử vi đoán nó đi lọt, rốt cuộc bị công an bắt nhốt một năm tù mới được thả về. Tôi có linh tính kỳ lạ, biết trước sau thế nào cũng đi được, chỉ có điều trễ nãi thôi, vì bị sao Triệt chận ở cung Di. Địa không là sao ác, chuyên mang xui xẻo, nhưng lại nhờ Triệt mà giải được nguy hiểm, chuyển Hung thành An, hơn nữa cung Phúc đức tôi có Tử Phủ Vũ Tướng, Khoa Quyền Lộc, Quang Quí (Ơn Trên che chở), quá sức tốt, làm sao có chuyện xui xẻo mạt vận xảy ra. Trong 12 cung, sách nào cũng nói cung Phúc quan trọng nhất. Số tuyệt tự mà Cung Phúc tốt vẫn có thể có con . Mệnh xấu mà Phúc tốt vẫn có may mắn vào hậu vận.

Nghiên cứu đạo Phật từ năm 20 tuổi, tin ở nhân quả, nghiệp chướng, nên tuy gian nan lao động vất vã 7 tám năm trời, tôi vẫn lạc quan nuôi hy vọng bằng cách tụng kinh Pháp hoa, lạy Kinh Vạn Phật sám hối, bố thí phóng sanh làm phước, và tự hành hạ thân xác trong lao động nhọc nhằn để trả nghiệp. Biết mình có cách “Mệnh Kiếp Thân Không”nên cuộc đời lao đao lận đận, lại Tham Kiếp đồng cung ở Mệnh , “như người ngồi thuyền lênh đênh trên sóng lớn” (theo Thái thứ Lang), tôi chấp nhận thương đau và thường xuyên niệm Phật xin gia hộ. 

Năm 1982, tôi đã 39 tuổi, bị cấm đạp xích lô (ở tỉnh nhỏ giáo sư mà đi đạp xich lô bị coi là cố ý bêu riếu chế độ), nên bán rẽ xích lô, xoay ra xin môn bài cho vợ buôn bán lặt vặt ở nhà sống qua ngày chờ thời. Một hôm có bà X, một người bạn quen mẹ tôi từ Saigon dẫn ra một anh chàng nhà giàu tổ chức ghe đi tại Hải chữ, biển Phanrang. Anh hứa cho con cháu bà X và cha con tôi đi không trả tiền, nhưng chuyến đó bị mấy người chủ ghe gạt nên không thành. Anh bỏ về Saigon gầy lại, hứa sẽ gọi tôi vào đi khi chuẩn bị xong. Một tháng sau anh gọi vào thật, dấu 2 cha con tôi ở một căn nhà ở làng quê mấy hôm. Nóng ruột,tôi lên Saigon chơi, có người khuyên tôi đi coi ông thầy nổi tiếng coi đúng về vượt biên ở chùa Pháp Hoa, thầy bấm quẻ nói :

- Có phải người đàn bà móc nối, người đàn ông tổ chức, họ hẹn vài hôm nữa đi , phải không?

 - “Dạ đúng”, tôi lạnh toát cả người.

 - Chuyến này không có đi được , về nhà đi. Anh chắc chắn sẽ đi, nhưng chưa đi bây giờ, về nhà buôn bán tạm một thời gian nữa. Mà sao đi bỏ vợ ở lại,không đi cùng?

 - Đi cả nhà nguy hiểm lắm thày ơi,lỡ có gì mất nhà,ở tù,chết cà gia đình.

Thày cho một lá bùa để bỏ vô ngăn tủ kính bán hàng. Quả nhiên một tuần sau, thấy con gái bà X. lủi thủi dẫn hai đứa con nhỏ trở về Phanrang đi học lại, vì chuyến đi ở Saigon bể. Lúc đó, tình cờ tôi quen với Thành, con trai út cụ Thiên Lương ( thày tử vi nổi tiếng ở Saigon trước 75), bấy giờ đang làm công nhân viên ở Phanrang. Thành nói, ”Năm nay tiểu hạn anh vô cung Tý có Tử Phủ Vũ Tướng, có Khoa, Lộc, anh buôn bán có tiền. Số anh trước sau gì cũng phải đi, bỏ nhà cửa lại, vì cung Điền trạch có Đại tiểu hao và Thân cư Thiên di. 

Tôi nghe lời, bán ra mấy chỉ vàng mua hàng giao vợ ở nhà mở mang buôn bán, tiền vô áo ạt, quanh năm thoải mái rong chơi, tụ họp bè bạn tính chuyện vượt biên. Thành không rành về coi chi tiết nên giới thiệu tôi cho Đông, mới 30 tuổi,ở ngoại ô, theo công giáo,nhưng lại có nhiều kinh nghiệm tử vi chính xác. Đông rât bình dân, giản dị, tử tế. Đông giữ được nhiều sách tử vi và mấy chục tập Khoa học Huyền bí cho tôi mượn về đọc mở mang kiến thức. Sau 75, tôi chưa bao giờ có một người bạn tâm đầu ý hợp và tốt bụng như thế. Hai đứa đạp xe lang thang đó đây, say mê nói chuyện về Tử vi, trao đổi kinh nghiệm, dẫn chứng sự kiện. ..Tôi đưa Đông coi lá số của đứa em trai đi du học Nhật trước 75, làm kỹ sư , bằng tuổi Đông. Đông coi kỹ, phát giác ra cách “Minh Lộc Ám Lộc”, trầm trồ tấm tắc khen ngợi mãi. Sau đó, Đông có vẻ trầm ngâm buồn bã: 

-Không ngờ tuổi Tỵ mà lại có người được cách này. Trong 1 vạn người mới có 1 người được cách này đó anh. Em cũng tuổi Tỵ mà không ra chi. Ăn học lên đại học, chạy trốn lính, tốn hết bao nhiêu tiền của mẹ em, đi vượt biên mấy lần trần ai gian khổ, rốt cục chẳng ra gì, bây giờ an phận đi cuốc đất, trồng bậy bạ trong vườn sống qua ngày.

Tôi thấy tôi có Phượng các ở Mệnh, là cách xuất ngoại, như con chim tung cánh bay đi. Cụ Phan thanh Giản lá số cũng có Phượng Các mà đi qua Pháp một dạo. Thiên mã là cách dời đổi, đi xa. Thân cư Thiên di,có Song lộc,Tứ linh, đều là cách làm ăn thành công ở nước ngoài. Trong sách lại nói: ” người có Liêm trinh đóng Thiên Di, cả đời chỉ muốn đi”, đúng y chang, mà sao Đông và cả bác Hương đều không tin tưởng lắm. Bác Hương cứ lập đi lập lại:

 - Số mày có Song Lộc, Thiên Mã, hưởng di sản cha mẹ, làm ăn có tiền,chế độ nào cũng no ấm suốt đời, không sợ đói, nghe tao ở lại đừng có đi mà mang họa.

 Đông cũng nói:

 - Anh mạng Thủy, mà cung Thiên Di toàn sao Hỏa. THủy khắc Hỏa, lại bị Triệt Kim, ngũ hành xung khắc chọi nhau chan chát, không xuôi chèo mát mái chút nào, đi sợ có rắc rối...

Tôi hoang mang, buồn nản. Sau nhà, có bà bói bài Tây hồi xưa coi nổi tiếng, lâu lâu tôi lén chui vô coi, hỏi có thấy gì thay đổi mới lạ không. Bà ta nói,” Không, tôi chỉ thấy trên đầu anh toàn là chư Phật ngồi” , rồi lấy tay chỉ một hàng 5 sáu lá bài “ddầm, già,và rô” màu sắc vàng đỏ sặc sỡ nằm trên lá bài bản mệnh mang số 7 do tôi bốc. Tôi ngẫm nghĩ ,”bà này nói vớ vẩn”, nhưng rồi sau đó, sực nhớ lại mấy tháng nay tối nào cũng kính cẩn lạy sám hối mấy trăm vị Phật và tụng kinh Pháp hoa trường kỳ, nên chắc là chuyện Ơn Trên che chở ứng hiện vô bài, tự nhiên thấy rùng mình, ớn lạnh,vừa mừng vừa sợ.

Chương trình kêu gọi ngụy quân ngụy quyền đi “Kinh tế mới” phường xã ra rã thúc hối hàng tuần hàng tháng bên đít mà chưa thấy hy vọng ra đi nào le lói cả, tôi quay ra coi tử vi 2 đứa con, đứa nào cũng rõ ràng có số bỏ quê cha đất tổ, tha hương lập nghiệp vinh hoa phú quí . Số bà xã cũng có Hữu bật đơn thủ cư Mệnh, là số chắc chắn ly hương. Nếu tôi không đi được, làm sao vợ con sống tha hương được. Trừ phi có phép mầu. Cung con cái tôi có Đại tiểu hao và Cô Quả, sách giải chỉ có 2 con và sau này con cái phiêu bạt ly tán. Tôi đã chết 1 đứa con trai đầu mới 13 tháng tuổi vì bệnh rồi (vì có Đại tiểu hao và 3 Sát tinh Kình, Linh, Hoả chiếu vào cung Tử tức), chỉ còn lại 1 trai 1 gái. Đi vượt biên kỳ này cũng định bụng chỉ đem theo đứa con trai mà thôi. Đi cả gia đình lỡ bị bắt hết thì mất nhà, ở tù, lên kinh tế mới chết cả lũ. Chuyện ấy mà xảy ra thì tiêu hủy cả tương lai con cái, thà chết còn hơn. Lỗi ấy chắc chắn tôi sẽ ân hận suốt đời không bao giờ nguôi. Nhưng cung con cái có nhiều sao phú quí,phúc đức,may mắn, tại sao không thử một chuyến. Vượt biên ngày càng khó khăn nguy hiểm, thương đứa con gái 5 tuổi mềm mại, hiền lành bé bỏng, không nỡ đày nó vào cảnh sóng gió, súng đạn, thập tử nhất sinh ngoài biển khơi. Mỗi lần đạp xe chở 2 con xuống biển tắm, bé Quỳnh thường ngồi chùn lại trên cát không dám xuống nước, khâm phục nhìn thằng anh 10 tuổi can đảm vùng vẫy dưới sóng, cười đùa ầm ỹ. Cu Mẫn tuổi Quí Sửu, Mệnh đóng cung Sửu , có Hóa Quyền, Kình dương, Khôi Việt, có Tứ Linh, mắt sáng, phương phi, thông minh, khỏe mạnh, chuyên môn chỉ huy bắt nạt con nít hàng xóm. Một đứa như vậy mà khom lưng sống trong chế độ Cọng sản kỳ thị lý lịch thì còn gì là tương lai.. Bởi vậy vợ tôi đồng ý cho 2 cha con đi trước rồi tìm cách đưa 2 mẹ con sang sau. Năm đó là năm 83, tình cờ một hôm cùng tôi đi tắm biển và kiếm mấy người bạn đánh cá trong làng gần đó, Đông buột miệng bảo:

- Năm nay tiểu hạn anh có Nhựt Nguyệt sáng, lại thêm Đào Hồng Hỉ chiếu gia tăng sức sáng, rất may mắn. Đại hạn lại có Song Hao, chủ về đi xa, dời đổi, anh có nhiều hy vọng đi lọt. Em đã từng chấm cho mấy người có Nhựt Nguyệt sáng và họ đều đi lọt hết. Anh nên thử thời vận 1 chuyến. Tin em đi.

Tôi không bao giờ quên ơn Đông vì câu nói đó. Nó thúc đẩy tôi hơn bao giờ hết phải cương quyết ra đi, vì càng lớn tuổi càng khó xoay sở mưu sinh ở xứ người. Tôi coi lại tiểu hạn ở cung Sửu, có Âm Dương Xương khúc,Tả hữu,Khôi Việt. Trong sách nói, “Âm Dương Xương khúc nhi đắc lực”. Tự nhiên, tháng ba năm đó, một người anh họ của bà xã tôi, cựu đại úy Chiến tranh chính trị đi tù cải tạo 8 năm ngoài Bắc được thả về, tìm gặp vợ chồng tôi rủ đi vượt biên do anh móc nối và tổ chức ngoài Nhatrang. Người anh gầy gò, nhỏ thó, nhưng 2 con mắt sáng quắc và nét mặt cương quyết. Theo tướng pháp Trung hoa, người có cặp mắt sáng không bao giờ chết yểu. Tôi tin anh có thể làm được việc, vì Nhatrang là quê hương thơ ấu của anh, và bà chị vợ tôi , có sạp vải lớn ở Chợ Đầm, rộng rãi chi tiền cho anh lo.

Cứ vài tuần tôi lại đi xe đò ra Nhatrang hỏi thăm tin tức rồi về lại trong ngày để láng giềng khỏi nghi ngờ. Thỉnh thoảng anh hay chị vợ cũng vào Phanrang ghé chơi, báo cáo tiến trình tổ chức. Trước đó hơn 1 năm, 2 em gái tôi vượt biên lọt qua Thụy sĩ, nên công an, tổ trưởng, láng giềng hay để ý dò la theo dõi, đoán thế nào cũng có ngày tôi sẽ đi. Tôi phải mua xi măng, mướn thợ hồ đổ 1 đống cát trước nhà để xây cầu tiêu buồng tắm mới trong nhà, đánh lạc mọi sự nghi ngờ.

Trong 3 tháng, 2 lần tôi dẫn con ra theo tin nhắn của anh, 2 lần phải quay về cùng ngày vì tổ chức bể. Thời gian đó, bác sĩ Khương (cũng tính đi vượt biên) rủ tôi xuống làng Hộ diêm coi 1 thày chỉ tay nổi tiềng, ông nói tôi không có đi kinh tế mới, mà lại có 80% hy vọng đi xuất ngoại. Ông nói ở trong đám đông, tôi thường hay nắm chức vụ chỉ huy. Lên Đà lạt tìm gặp thày Hoàng Chiêm cầu xin một quẻ, thày coi rất kỹ, xác định có Quan thế Âm bồ tát che chở, cam đoan đi lọt. Thời còn đi lính năm 69, tình cờ gặp thày ở đảo Cam ranh có mươi phút, nhìn qua mà thày đã nói “ anh sắp mặc áo trắng về lại dân sự”. Quả nhiên, sau đó được biệt phái về đi dạy lại. Một cô bói bài nổi tiếng gần nhà cũng cho hay, từ năm 84 về sau, cuộc đời tôi bắt đầu lên hương. Cô chỉ cái đường “Voyage” trên bàn tay trái tôi mà nheo mắt cười nói: “Tương lai anh ở trong cái đường này, tin tôi đi”.

Lần thứ ba, tôi nhận được giấy báo của ông anh họ, dặn kéo thêm anh bạn trung úy Hải quân ở chung tù cải tạo để lái ghe cho chắc ăn. Không hiểu sao lần này tự dưng tôi buồn não ruột, linh tính chắc phải xa vĩnh viễn vợ con, có lúc suy tính tới lui căng thẳng đầu óc, đổi ý muốn ở lại cho xong. Nhưng có một sức mạnh thiêng liêng nào đó, của lý trí, hay của Ngiệp lực (?) bắt buộc tôi phải dấn thân. Giờ ra đi, nhìn đứa con gái ngây thơ ngồi chơi với mẹ trên bộ ván mà 2 chân như muốn khuỵu xuống, xót xa không nỡ bước ra khỏi nhà. Y như thái tử Tất đạt Đa nhìn vợ con lấn cuối trước giờ bỏ nhà đi tu. Phải chi nó đòi theo thì tôi đã thuyết phục bà xã cho nó đi luôn, nhưng nó chỉ hỏi; “Má, ba với anh Mẫn đi đâu vậy má?”. Lý trí và tình cảm dằng co rất mãnh liệt trong đầu óc tôi lúc bấy giờ, nhưng câu châm ngôn “Lòng mẹ là nơi trú ẩn chắc chắn nhứt trên đời” ngày xưa tôi đọc, hiện ra an ủi tôi , làm tôi nghẹn ngào, âm thầm gạt lệ ra đi.

Lần đó, chúng tôi xuống ghe, đi lọt tại bãi Lương Sơn, gần đèo Rù Rì. Ghe có 1 “bloc”, mà trai trẻ trong làng nghe tin kéo theo đi hôi, đông tới 84 người vừa già vưa trẻ chen chúc trên ghe, mực nước xăm xắp mạn thuyền.Trời tháng 7 âm lịch, đêm tối mưa gió sụt sùi, như có quỷ thần che mắt, công an tuần tra không thấy, mọi sự đều may mắn êm xuôi. Ngày thứ nhì, ra tới hải phận quốc tế, mưa bão ầm ầm kéo tới, nước phủ chụp đầu nhiều phen, có mấy lần ngọn sóng cao như nóc nhà lấu hai tầng, từ xa ào ào kéo tới ai nấy nhắm mắt chờ chết. Rồi hải bàn hư, mất hết phương hướng, con thuyền đi lạc lõng như người mù. Ngày thứ ba, ghe tắt máy, mấy chàng con ông già chủ ghe loay hoay sửa máy, tháo bù lon, con ốc ra bỏ một đống, ghe lềnh bềnh trên sóng, ai nấy xanh mặt , lo sợ thì thầm cầu nguyện. Ông anh họ hô hào mọi người xé áo quần ra cột lại làm thuyền buồm, theo gió mà đi. May sao mấy tiếng đồng hồ sau máy xình xịch nổ lại. Ôi chao là mừng. Nói sao cho hết nỗi sung sướng, sống đi chết lại, lúc đó.Từ đó ghe cứ rề rề nương theo phía Bắc mà đi. Sáng ra thấy mặt trời mọc bên tay mặt, chiều thấy lặn bên tay trái, cứ thế mà đi.

Tới đảo Hải nam sau 10 ngày, chức sắc Trung quốc và dân chúng kéo nhau ra đón, chụp hình, cho ăn, cho ngủ lại 1 đêm, mua dầu và gạo nước đi tiếp 3 ngày nữa tới HongKong thì mưa như trút nước. Cha con ôm nhau quấn tấm nylon nằm chịu trận trong thuyền dưới cơn mưa lạnh. Còn nhớ mãi đêm ấy là đúng rằm tháng 7, nằm êm ấm trong ngôi nhà lầu do cảnh sát đưa vào tạm trú, nghe cơn bão dữ ngoài khơi hoành hành, gió thổi ào ào ngoài cửa sổ, cây gãy răng rắc, cửa kính bể loảng xoảng, sáng ra nghe cảnh sát kể chuyện có cả mấy trăm chiếc ghe đánh cá xấu số bất hạnh bị sóng đánh chìm mất tích. Mủi lòng thương xót cho những ngư phủ thân xác vật vờ đáy biển, bỏ lại vợ con, làm mồi cho cá. Cảm ơn Trời Phật che chở cho ghe con vừa kịp đến bờ bình yên, thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Ơn này biết đến bao giờ con mới trả được.

Trên đảo Hong Kong, suốt mấy tháng trời, tôi vẫn còn ngơ ngẩn trong đầu với tiếng sóng vỗ mạn thuyền róc rách và câu nói tiên tri định mệnh văng vẳng của Đông: ”Năm nay tiểu hạn anh có Nhật Nguyệt sáng, Đào hồng Hỉ, anh đi lọt.”… Vĩnh biệt Đông, vĩnh biệt,,…với những tháng ngày êm đềm đàm luận tử vi , đã đưa đến kết quả thành công ngày hôm nay, biết bao giờ mới được gặp lại nhau… .

Suốt 8 tháng ở trại cấm Chimawan, tôi tiếp tục xem tử vi cho nhiều người, và có 1 lần giảng pháp cho các em Gia đình Phật tử rất thành công nên các anh em huynh trưởng mời tôi mỗi tuần 1 đêm tới giảng giáo lý, đa số là người Huế. Mồng 6 Tết năm Tý, tiểu hạn tôi bắt đầu chuyển qua cung Mệnh ở Dần, Lưu Lộc, Lưu Mã chạy vào nhập với Lộc Mã cố định. Lộc tồn chủ cho tiền bạc, nên tôi nhận được mấy trăm “ddô” Mỹ em gái ở Thụy sĩ gửi cho. Lại có Quyền Lộc,Tướng Ấn , Mã khốc Khách tập trung, làm vận hội tôi bốc lên như diều, đang buồn bã thương nhớ vợ con nơi quê nhà mà bị ép đứng ra nắm chức lãnh đạo đoàn thể ngoài ý muốn . Dân tỵ nạn lúc đó từ trại Heilingchau chuyển qua nhập với Chimawan làm một, anh em Huynh trưởng GDPT 2 trại mở 1 phiên họp khoáng đại, bầu tôi lên làm Chánh Đại diện giáo hội Phật giáo trại tỵ nạn Hongkong. Tôi từ chối vì có 1 thầy đại đức ở trại, xứng đáng hơn tôi. Tôi nói tôi không nắm vững hạ tấng bên dưới, anh em cứ nài ép, nói, “thày chỉ làm cố vấn, còn anh hồi ở Việt Nam có tham gia GDPT, rành giáo lý, lại trình độ giáo sư, sĩ quan VNCH, biết tiếng Pháp tiếng Anh, đủ uy tín và tư cách làm Đại diện hơn”. May mà toàn thể các anh trưởng ban trong Hội quí mến và hết lòng giúp đỡ tôi hoàn thành nhiệm vụ nên phong trào Phật giáo ở trại lên áo áo, mặt chìm có lễ tụng kinh cúng Phật hàng tuần, mặt nổi có sinh hoạt gia đình Phật tử ngoài sân, lôi cuốn dân tỵ nạn Việt Hoa tham gia đông đảo, ban giám đốc Trại rất nể mặt.

Chúng tôi đều đặn hàng tháng tổ chức tổng lao động vệ sinh trại một lần, hay giúp đỡ nhân lực cho ban giám đốc trại trong nhiều công tác phục vụ đồng bào tỵ nạn. Một hòa thượng người Anh đến thăm trại, thuyết pháp trước gần ngàn người tham dự, được các anh em kính cẩn dàn chào tiếp đón, tổ chức chu đáo trang nghiêm. Khắp trại đêm đêm chỗ nào cũng nghe tiếng tụng kinh niệm Phật, khói nhang nghi ngút, tạo nên một môi trường đạo đức tốt cho cộng đồng tỵ nạn, không còn cảnh trộm cướp, đánh lộn, chửi mắng nhau hỗn loạn như trước. Phong trào càng lên cao với sự chuẩn bị tổ chức Lễ Phật đản rằm tháng tư, vô số Phật tử (có thân nhân tỵ nạn làm việc ngoài trại gửi tiền cho) tiếp tế tiền bạc, cúng tiền rộng rãi. Anh em dự định tổ chức 1 đêm văn nghệ thật lớn và dựng Lễ đài thật cao. Tôi vô cùng bận rộn trong trách nhiệm, quyền hạn, hội họp , thuyết pháp, viết kịch, tập kịch, và liên lạc Ban giám đốc trại. Gia đình nào có cúng giỗ cũng mởi “chánh đại diện” tới dự cho kỳ được.

Một tuần trước ngày Phật đản, đột ngột tôi được chuyển ra Trại 3 khám sức khỏe đi Mỹ, không kịp thấy cái kết quả rực rỡ của buổi văn nghệ và lễ đài mà nhiều người sau này ra gặp tôi kể lại. Ngày Phật đản ở trại 3 tôi cũng cùng 1 số anh em lên xin phép Trại trưởng cho tổ chức Lễ Phật đản cấp tốc cho đồng bào tại đây. Sau đó, vì saoThiên mã cố định và Lưu thiên mã đồng cung mà tôi di chuyển liên miên, bay từ Hongkong ghé Tokyo, qua Manila ở Phi, từ Phi qua Mỹ, từ phi trường Los Angeles xuống San Diego, và từ San Diego lên Santa Ana chơi nhiều lần bằng xe hơi. Vi có Lộc Mã và Lưu Lộc Mã đồng cung, thêm Hóa lộc chiếu mà tôi mang 2 túi xách tay đầy nhóc hàng T-shirt Trung quốc từ Hongkong qua Phi bán, vốn một lời hai mươi, sống thong thả suốt mấy tháng trời ở Phi. Chưa hết, qua Mỹ ở nhà cô em họ bảo trợ ăn ở free, còn được trợ cấp xã hội AFDC hơn 500 “ddô” và 250$ food stamps 1 tháng, lúc đó là một số tiền rất lớn đối với những người lìa bỏ quê hương tay trắng qua Mỹ tỵ nạn như tôi.

Sự bộc phát danh tài hưng vượng năm Tý, với những sao phú quí tốt đẹp hội tụ, làm tôi bắt đầu chú ý tới tầm quan trọng của tiểu hạn mỗi năm trong Tử vi, cũng như sức mạnh của tiền định , bởi vì từ đây, tứ cố vô thân, mất hết nhà cửa tiệm buôn, rơi khỏi vòng tay thương yêu che chở của đại gia đình ở Việt nam, phải nuôi một đứa con với hai bàn tay trắng bơ vơ và một kiến thức lam nham trên xứ người xa lạ, tôi cần biết trước vận hạn từng năm một để TIẾN hay THOÁI cho đúng lúc.

Là Phật tử, tin vào số mạng, tôi vẫn quan niệm không phải cứ ỳ ra mặc cho số mạng lôi kéo, mà phải dùng trí tuệ (TRÍ), đạo đức ( BI), và nghị lực (DŨNG) của chính mình để hành động đúng đắn trong cuộc mưu sinh, nương theo những chuyển động, phối hợp mầu nhiệm của các sao trong Tử vi trong từng tiểu hạn một năm và từng đại hạn 10 năm… Tử vi như kim chỉ nam, người bạn thân, giáo sư cố vấn, hướng dẫn tôi xoay sở trong những năm đầu ở Mỹ, và nhiều năm về sau... Trời đã cho tôi một cái khiếu đặc biệt, tại sao tôi lại không biết khai thác nó, để tự lái đời mình, giúp mình, gia đình mình, và giúp những người xung quanh tiến bước an toàn trên con đường đời gai góc bí mật .. Ở Việt nam, tuy gò bó như trong một cái nhà tù lớn, nhưng tôi còn nhà cửa ,tiền bạc , buôn bán thoải mái, đâu phải lâm vào con đường cùng mà liều mạng vượt biên ra đi vào mùa biển động không tính toán cân nhắc lợi hại. Tôi cũng biết quí mạng sống, cũng biết sợ chết như mọi người. Bỏ nước ra đi là một quyết định sống chết, một mất một còn, phải nghiên cứu tính toán kỹ lưỡng. Máy móc tốt, xăng nhớt lương thực đủ, bãi tốt, ngưởi chỉ huy giỏi là một chuyện, mà may mắn hay không là một chuyện khác. “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Nếu chẳng may thất bại, nhà cửa sẽ bị tịch thu, tôi vào tù ngồi lại,vợ con sẽ mất hộ khẩu, ra đường ở, hay đi kinh tế mới.Tôi yêu Tự do, nhưng nếu không có Ơn Trời che chở,không có Tử vi bảo đảm một chuyến đi an toàn, một tương lai sáng sủa hơn, thì giờ này ngồi đây, nghĩ lại, …có lẽ chưa chắc ngày đó tôi đã đủ can đảm liều lĩnh ra đi, nông nỗi đánh đổi tánh mạng 2 cha con lấy 2 chữ Tự do ở phương trời góc biển ngàn dậm xa xôi .

Tử vi ơi,Tử vi …xin cám ơn!

Phạm Hồng Chương

No comments:

Post a Comment