Mùi tanh thường được hiểu
theo nghĩa
tiêu cực
(tanh hôi, tanh tưởi…),
thậm chí theo nghĩa bóng. Hiểu như thế,
thì cũng
hơi oan cho mùi tanh.
Có lần tôi ghé vào quán bún cá ngoại ô Phan Rang, dọc quốc
lộ. Quán nhà lá lụp xụp, bàn bên cạnh là vài ngư dân đang nhậu đầu
cá ngừ
hấp. Hơi cá bay ra, trời mưa
tầm tã… Lần đầu
tiên trong đời,
tôi cảm
nhận mùi cá ngừ thật dễ
chịu, ấm áp… Chữ
“tanh” trong đầu
tôi đã được
hiểu theo nghĩa khác. Đó là câu chuyện của hơn
20 năm
về trước.
Chỉ dân vùng biển mới
có được
cá biển
tươi, và mùi tanh của cá đã trở thành nghệ thuật ẩm
thực dân dã. Kho cá biển cũng phải
để nước xâm xấp,
hơi cá bay ra mới thưởng thức
được mùi tanh của cá biển. Đó là chưa kể
mùi tanh còn thấm
vào từng
thớ thịt của
cá.
Dân đồng bằng,
vùng núi làm gì có được
cá biển
tươi. Phương tiện
vận chuyển, bảo
quản hồi xưa
đâu như bây giờ. Hồi
nhỏ, tôi thường thấy những
ngư dân Phan Thiết nướng cá nục,
cá thu kẹp
vào hai thanh tre, quẩy
đi bán dạo
ở Sài Gòn. Bảo quản thô sơ
như vậy đó; đá cục
đá vảy
thuộc hàng xa xí phẩm với ngư
dân. Xài urê, dân quê chưa
nghĩ tới. Mùi tanh của cá lúc về
tới phố đã khác, nên phải được
khử bằng cách kho cạn, cho trà, thêm giấm, thêm chanh…
Như vậy,
mùi tanh cá biển
là một
chuỗi dài. Mùi tanh lúc cá còn tươi khác, lúc kém tươi khác.
Mùi tanh tinh tế của cá biển
Cá biển vừa
đánh bắt
có mùi vị
của biển, chưa
có mùi tanh. Một
thời gian ngắn sau, cá mới bắt đầu
tanh, một
mùi tanh dễ
chịu, và dễ ghiền.
Chỉ có dân sành điệu mới biết
thưởng thức mùi tanh của cá biển.
Cá để lâu hơn
nữa, mùi tanh chuyển dần sang mùi ươn do quá trình phân hủy. Tới
cỡ này, mùi vị cá coi như thua.
Về mặt
khoa học,
mùi tanh của
cá từ
lúc chưa
thành hình cho đến
khi thành mùi ươn
thối được giải
thích như
sau:
Nước biển
có nồng
độ muối khoảng
3%, nhưng
nồng độ tốt
nhất của các khoáng hòa tan bên trong tế bào không được quá 1%. Do đó, để tạo
cân bằng
dịch bên trong và ngoài tế bào, các loại tôm cua sò mực bạch tuộc…
chứ chẳng riêng gì cá phải thu hút các acid amin và amin vào bên trong tế bào để chống
đỡ với độ
mặn của nước
biển.
Một trong các amin đi vào bên trong tế bào có tên là trimethylamine oxide (TMAO).
Chất TMAO không có mùi vị gì cả. Đó là lý do vì sao cá vừa đánh bắt
chỉ có mùi vị của biển,
chưa có mùi tanh.
Tuy nhiên, theo thời gian từ khi cá “tử vong”, chất TMAO chuyển dần thành chất
trimethylamine (TMA) do tác động của
enzyme và vi khuẩn
trên bề
mặt cá. Chính chất TMA tạo ra mùi tanh của cá. Vậy
đó, hai chất
TMAO và TMA chỉ
khác nhau có chữ
“oxide” thôi mà đã sanh mùi “khó ngửi”.
Cá chết càng lâu, TMA tạo ra càng nhiều, mùi tanh càng nồng. Dân vùng biển, ăn toàn cá tươi nên thưởng
thức được mùi tanh thoang thoảng của
cá và hương
vị rong rêu của biển.
Vi khuẩn trên bề mặt cá là thủ phạm gây
chuyển hóa chất TMAO thành TMA, nên chính lớp da cá,
mang cá, đầu cá là nơi có mùi tanh nhất nếu cá để lâu.
Tiếng Anh gọi
mùi tanh của
cá là fishy odor. Đó là nói về thực
phẩm, các bạn ngành Y không nên liên tưởng “fishy odor” sang bệnh lý đấy nhé.
Còn khi cá đã chuyển qua giai đoạn ươn thối,
cộng thêm mùi tanh tưởi thì gọi là stale, stinking odor, dân dã hơn là ill-smelling.
Khi ươn thối
xảy ra là đã có sự can thiệp tích cực của vi khuẩn
gây hư
(spoling
bacteria) rồi.
Đó là quá trình phân hủy
(decomposition). Lúc đó, cơ thịt
của cá bị phân rã dần,
nước rỉ ra nhiều,
dinh dưỡng
chẳng còn, mà lại phát sanh nhiều hợp chất
bốc mùi ươn thối.
Khoa học
đã chỉ
ra những
chất gây thối có gốc amin như
skatole, putrescine, có gốc
lưu huỳnh như
cadaverine, hydrogen sulfide, và còn các hợp chất
ammoniac nữa…
Những thứ này mới
là chánh phạm,
còn mùi tanh do mức
TMA quá cao chỉ
góp phần
vào cái mùi khó ngửi
này thôi.
Giai đoạn cuối
của sự ươn
thối là thế, chứ
giai đoạn
đầu phân hủy thì chưa đến nỗi. Ở
thời gian đầu, mức dinh dưỡng
vẫn còn tạm xài được,
cơ thịt cá mới
chỉ lỏng lẻo
đôi chút, mùi đôi chút Dân làm nước mắm
ở những vùng có thời tiết
không thuận
lợi thường ủ
chượp cá với muối
ở giai đoạn này để cá dễ
lên men, phân giải
đạm, chứ còn đã ươn
thối ở giai đoạn
giữa hay cuối thì protein còn được bao nhiêu nữa đâu mà lên men phân giải đạm. Cá ươn
thối như thế
làm mắm
còn không được,
nói gì đến
làm nước
mắm. Người đời
miệt thị nước
mắm truyền thống
dơ dáy, mất vệ
sinh… vì làm từ
cá ươn thối. Nói thế
thì oan ức
cho dân làm mắm.
Tình không có, mà lý cũng
chẳng thông.
Thế còn cá nước ngọt thì sao?
Cá nước ngọt
sống trong vùng nước… “ngọt”, không mặn, nên không cần huy động
TMAO hay các acid amin vào trong tế bào để
cân bằng
áp lực
muối.
Thật ra thì cá nước ngọt
cũng có TMAO, và cũng bị chuyển
hóa thành chất
gây mùi tanh là TMA, nhưng
số lượng rất
ít, nên mùi tanh không nhiều. Nhưng
một khi để cá đến
giai đoạn
cuối của sự ươn thối, thì cá sông hay cá biển đều
có mùi khó ngửi
ngang ngửa
nhau.
Cá nước ngọt
sống ở kênh hẹp,
sông cạn
hay nuôi trong ao hồ,
nước ít lưu thông, nên thịt cá có hương
vị ngai ngái của mùi bùn. Mùi bùn là do hai chất geosmin và methylisoborneol có trong
khuẩn lam (blue-green algae) mà cá ăn. Những chất này tập
trung ở
da và phần
thịt sẫm của
cá.
Dân Tây, dân Mỹ không mặn mà lắm với
cá nước
ngọt, mà thích ăn cá biển hơn. Họ
thích mùi tanh hơn
mùi bùn chăng? Không ưa
mùi bùn chỉ
là phần
nhỏ thôi. Phần lớn họ
thích là do vị
của thịt cá biển
đậm đà hơn. Sao vậy?
Thì cũng do cá biển huy động
các acid amin và amin vào tế bào để
tránh áp lực
độ mặn của
nước biển. Chính các acid amin như glycine, glutamate… đã tạo ra vị
ngọt thịt cho cá.
Sau này dân Mỹ mới tập
tành ăn cá nước
ngọt vì giá rẻ. Đó chính là catfish.
Loại cá này được nuôi nhiều ở bốn
tiểu bang nông nghiệp phía Nam. Nuôi trong ao hồ thì không thể tránh được ít nhiều mùi bùn. Thế là đụng hàng với
cá tra của
Việt Nam.
Tôi gọi thẳng
là cá tra, chứ
hồi đó cá basa xuất qua Mỹ chiếm
tỉ lệ rất
thấp, chỉ khoảng
vài phần
trăm. Mấy
ông bà xuất
cảng cá sang Mỹ nhập nhằng
gọi cá tra là cá basa, thành thử vụ kiện
được gọi là “Basa antidumping” (Chống phá giá cá basa). Em làm, chị lãnh đủ.
Cá tra nuôi bè trên sông, nước chảy xiết
nên cơ
thịt trắng, không vướng mùi bùn. Sau này cải tiến,
nuôi đăng quầng,
nghĩa là nuôi ao, gần sông lớn, dẫn nước
ra vào giữa
sông và ao, thành thử
chất lượng ngang ngửa với
cá tra nuôi bè, giá thành lại rẻ
hơn. Hồng nhan còn bạc mệnh,
huống chi cá ngon mà lại rẻ, nên cá tra dính “chưởng” chống
phá giá của
Mỹ cũng là chuyện…
đời.
Thuế chống
phá giá không rẻ
đâu, có khi lên cỡ
45 %, tùy lượng
xuất và bán phá giá nhiều hay ít. Và đến nay fillet cá tra xuất vào Mỹ vẫn
còn ăn “chưởng”
này. Ít người
biết, một phần
tiền thuế “chống
phá giá” được
trả người cho người
nuôi catfish. Cần
câu cá biến
thành cần
câu chống
phá giá. Nông dân Mỹ
sướng chỗ đó.
Vụ kiện cá tra
coi vậy chứ một thời nổi đình đám lắm, cũng hai mươi năm trôi qua rồi. Thế giới hiếu kỳ theo dõi vụ kiện con nhà giàu bắt nạt con nhà nghèo, rồi mua
fillet cá tra ăn thử chơi cho biết. Đồng bằng Mekong trở thành vương quốc cá tra từ đó. Giới khoa học quốc tế cũng nhập cuộc, yêu cầu phải ghi nhãn
phụ chú cá tra theo danh pháp khoa học:
Pangasius hypophthalmus. Chơi nhập nhằng tên gọi với thế giới không được, thì nhập nhằng với anh em trong nhà. Các siêu thị trong nước bán cá
tra nhưng vẫn ghi nhãn là fillet cá basa, đậu hũ ba sa,
cá viên basa… Dân bị xí gạt ngọt xớt, mà cơ quan hữu trách vẫn vô tư. Dễ tính thiệt!
Vương vấn mùi tanh của cá
Cá không mùi tanh, còn gì là cá. Mùi
tanh là thuộc
tính của
mọi sinh vật dưới nước:
cá, tôm, cua, mực,
ghẹ… đều có mùi tanh, ngay cả rong biển
cũng thế, chỉ
là ít hay nhiều.
Rồi mùi tanh này quyện với mùi “nền”
(body)
của sinh vật đó, tạo ra mùi đặc
trưng riêng. Cá có mùi tanh của cá, tôm có mùi tanh của tôm… Mà vị cá biển cũng
đậm đà hơn
cá sông.
Cá biển về
tới đồng bằng,
mùi tanh đã nồng.
Dân miệt
này khử
mùi tanh bằng
chất chát của trà, chất chua từ chanh, giấm, sấu, me… Chất
chát trong trà là tannin có thể “còng” (tạo
phức) với chất
tanh TMA của
cá. Chất
chua của
chanh giấm
có tính acid sẽ
vô hiệu
hóa tính kiềm
của chất tanh TMA để nó khỏi
bay hơi,
không ngửi
thấy mùi tanh.
Dân đồng bằng,
từ đời này qua đời nọ
khử mùi tanh riết, rồi thành thói quen ẩm thực,
không chịu
được mùi tanh cá biển. Vậy mà lại
khoái ăn cua ghẹ.
Mùi tanh từ
cua ghẹ
luộc đâu kém gì mùi tanh cá biển. Vất vả
ăn xong được
con cua, lại
phải rửa tay bằng
nước trà. Chất chát chưa đủ, còn phải đưa thêm vài lát chanh acid vào trà nữa. Xài hết cách mà cả vài giờ sau mùi tanh cua ghẹ ở
tay mới
chịu bay đi. Có người mách, dùng giá sống chà tay, khử mùi sẽ hiệu
quả hơn. Tôi ít ăn cua ghẹ, nên chưa
thử, không rõ đúng sai. Ai không tin, thử cái chơi cho biết.
Thưởng thức
được mùi tanh của cá biển phải
là những
người điệu nghệ
về ẩm thực.
Dân đồng
bằng nấu canh chua cá lóc, cá bông lau, chứ dân vùng biển đâu chịu nấu canh chua cá thu, cá ngừ… Họ
trân trọng
gìn giữ
mùi tanh của
cá.
Những đứa
con của
biển cả, dù tha phương cầu
thực nơi nào vẫn
tơ tưởng đến
hương vị của
nồi cá kho xâm xấp nước, phải
thế không?
Vũ Thế Thành
No comments:
Post a Comment