“Những người có hàm lượng cao chất acid béo omega 3 trong máu, khi về già có thể có khối não to tương đương với việc bảo tồn sức khỏe trí tuệ trong một hai năm. Teo não là biểu hiệu thường thấy ở bệnh lú lẫn Alzheimer’s, cũng như trong giai đoạn lão hóa bình thường.”
(Khảo cứu đã được đăng tải trong tạp chí Neurology, the medical
American of Neurology Jan 22, 2014)
Can
fish oil help preserve brain cells?
http://www.sciencedaily.com/releases/2014/01/140122170541.htm
People with higher levels of the omega-3 fatty acids found in fish oil may also have larger brain volumes in old age equivalent to preserving one to two years of brain health, according to a study published. Shrinking brain volume is a sign of Alzheimer’s disease as well as normal aging.
Từ lâu các nhà khoa học nhận thấy rằng người
Nhật bản cũng như các dân tộc thiểu số Inuits và Esquimaux ở về phía Bắc Canada
có tỉ lệ bệnh tim mạch rất thấp so với các dân tộc khác. Phải chăng nhờ tập
quán ăn cá đã giúp họ tránh khỏi được một phần nào bệnh lý nói trên? Từ nhận
xét nầy, người ta mới tìm ra được chất Omega-3 trong mỡ cá. Rất nhiều công
trình khảo cứu khoa học đã nói lên sự lợi ích của Omega-3 đối với sức khỏe chúng ta.
Omega-3 là gì?
Đây là những chất acid béo thiết yếu (essential fatty acids) nằm trong nhóm chất béo không bão hòa đa thể. Thiết yếu vì cơ thể không thể tự tổng hợp được mà cần phải nhờ thực phẩm mang vào.
Có 3 loại Omega-3:
1- Alpha linolenic acid (ALA): có nhiều nhất trong hạt lanh (linseed, flaxseed, graines de lin), trong đậu nành, trong hạt dẻ (walnuts), trong các loại dầu ăn làm từ các thực vật vừa kể và trong dầu Canola (colza). Riêng hai loại dầu đậu nành (soybean oil) và dầu hạt dẻ, ngoài chất béo Omega-3 ra, chúng cũng còn có chứa một tỉ lệ khá cao chất béo Omega-6 nữa .
2- Eicosapentaenoic acid (EPA): Một phần nhỏ, lối 15 % được cơ thể tổng hợp từ chất acid béo ALA, phần lớn còn lại được tìm thấy trong cá tôm sò, mà đặc biệt là trong mỡ cá sống ở vùng nước lạnh như: salmon, mackerel, herring, trout, sardine, halibut vv…
Bệnh tiểu đường, tình trạng stress cũng như sự lạm dụng rượu và thuốc lá đều gây trở ngại trong việc chuyển hóa ALA ra EPA.
Theo nhiều tài liệu cho biết cá tra, ba sa chứa một tỉ lệ chất béo omega 3 ít hơn so với các loại cá vùng nước lạnh.
“The fatty acid composition of farmed Tra
catfish (Pangasius hypophthalmus) was determined
and compared to farmed Atlantic
salmon (Salmo solar) and to wild-caught Asian seabass (Lates calcarifer).
Saturated fatty acids (SFA) were
most abundant in catfish (42.6%) while salmon (37.2%) and seabass (39.0%) were
rich in polyunsaturated fatty acids (PUFA). Tra catfish contains Docosahexaenoic
acid (DHA), but its percentage was lower
(4.7%) than salmon (20.2%) and seabass (18.7%). It is interesting that the
absolute content of DHA and eicosapentaenoic acid (EPA) in Tra catfish by
fillet wet weight did not differ from Asian seabass. Among the three fish, Tra
catfish and seabass had lowest fat content. Regarding to nutritional aspect, Tra
catfish fillet is a potential source of omega-3 fatty acids and low-fat food” (Ho, B. T. and Paul, D. R.- Fatty
acid profile of Tra Catfish (Pangasius hypophthalmus) compared to Atlantic
Salmon (Salmo solar) and Asian Seabass (Lates calcarifer).
Cá ba sa đông lạnh nhập từ Việt Nam ít omega 3 DHA hơn cá salmon Canada (photo NTC 2014)
3- Docosahexaenoic acid (DHA): Được thấy nhiều trong các loài thủy sản và trong sữa mẹ.
Cơ chế nhờ đó mà Omega-3 có ảnh hưởng tới bệnh tim mạch là do tính kháng viêm, làm giảm áp huyết, làm giảm nồng độ triglycerides, kích thích nitric oxide xuất xứ từ nội mạc, giảm sự kết tụ tiểu cầu và giảm những eicosanoids gây viêm. Ngoài ra còn có bằng chứng rằng Omega-3 fatty acids ngừa được chứng tim đập sai nhịp và làm cho cơ tim được quân bình (Trịnh Cường & Giang Nguyễn Trịnh). Tóm lại Omega-3 có ích trong việc làm hạ cholesterol và triglyceride trong máu, ngừa hiện tượng máu bị đóng cục (antithrombotic), ngừa nghẽn mạch vành và giúp điều hòa nhịp tim (antiarrythmic), nhờ đó tránh được nguy cơ chết bất đắc kỳ tử.
Cá nuôi chứa ít chất acid béo EPA và DHA hơn cá được đánh bắt ngoài biển. Có người còn nói Omega-3 cũng có khả năng làm tăng sức miễn dịch, làm giãn nở mạch, ngừa bệnh viêm khớp tự miễn rheumatoid arthritis, ngừa hiện tượng trầm cảm depression và luôn cả bệnh lú lẫn Alhzeimer nữa.
Omega-6 là gì?
Đây là một loại acid béo nằm trong nhóm chất béo không bão hòa đa thể. Trong nhóm nầy, quan trọng nhất là:
-Linoleic acid (LA): là một acid béo thiết yếu hiện diện trong hầu hết các loại dầu thực vật mà chúng ta thường dùng hằng ngày.
-Gamma linolenic acid (GLA): một
phần được cơ thể tổng hợp từ chất LA, một phần khác hiện diện trong một số dầu
thực vật như primrose oil, borage oil và trong sữa mẹ.Trong cơ thể,
GLA chuyển thành chất prostaglandins.
Chất nầy có tính chống viêm sưng, rất hữu hiệu để làm giảm thiểu triệu chứng bệnh
viêm đa khớp tự miễn. (polyarthrite
rhumatoide autoimmune)
-Dihomo-gamma linolenic acid (DGLA): là
một chuyển hóa chất của GLA… DGLA chuyển thành eicosanoids serie1 giúp bảo vệ tim mạch, kích thích miễn dịch, và đồng
thời có tính chống viêm sưng (antiinflammatory)
.
-Arachidonic acid (AA): là một chuyển hóa chất của DGLA…AA chuyển ra thành eicosanoids serie 2 giúp vào việc làm lành các vết thương, cũng như dự phần vào cơ chế của phản ứng dị ứng. Tuy vậy, một sự thặng dư chất AA rất có hại cho sức khỏe như nó có thể kéo theo bệnh viêm khớp, bệnh ngoài da và một số bệnh tự miễn (autoimmune) khác.
Eicosanoids serie 2 và eicosanoids serie 4 biến thể từ Arachidonic acid (AA) có thể gây viêm sưng, làm co các mạch máu, kích thích sự kết tụ tiểu cầu và là những hóa chất độc tùy theo nơi nào trong cơ thể mà eicosanoids được tăng hoạt.
Omega 6 hiện diện trong các loại dầu thực vật như: dầu bắp (corn oil), dầu hạt bông vải (cottonseed oil), dầu hạt nho (grapeseed oil, huile de pepins de raisin), primrose oil (huile d’onagre), safflower oil (huile de carthame), borage oil (huile de bourrache), hemp oil (huile de chanvre), dầu mè (sesame oil), dầu đậu nành (soybean oil), dầu hoa hướng dương (sunflower oil, huile de tournesol), trong trứng gà, trong mỡ và trong beurre.
Cũng như Omega-3, Omega-6 rất có ích trong việc ngăn ngừa các bệnh tim mạch bằng cách làm giảm cholesterol và triglyceride trong máu xuống.
Tuy vậy, ăn quá nhiều Omega-6 cũng không tốt cho sức khỏe, như nó có thể làm gia tăng sự giữ nước trong cơ thể, kéo theo việc tăng áp suất máu, và tăng nguy cơ hiện tượng máu bị đóng cục trong mạch.
Bởi lý do vừa kể, tỉ lệ giữa Omega-6 và Omega-3 tiêu thụ rất ư là quan trọng. Một tỉ lệ Omega-6 quá cao và Omega-3 quá thấp sẽ có ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe.
Trong biến dưỡng, hai chất Omega-6 và Omega-3 đều sử dụng chung một số enzymes, vitamins (B3, B6, C, E) và các chất khoáng magnesium và zinc. Nếu Omega -6 quá nhiều, nó sẽ chiếm lấy hết các enzymes và vitamins cần thiết khiến Omega-3 không thể hoạt động một cách hoàn hảo được, nhất là trong việc bảo vệ tim mạch, và còn có thể gây nên cơn đau nhức viêm sưng chẳng hạn như viêm khớp và suyễn.
Ngoài
Omega-3 và Omega 6 ra cũng còn có Omega-9
nữa. Chất sau nầy được gọi là oleic acid. Đây
là loại chất béo không bão hòa đơn thể. Các nhà khoa học cho biết rằng chất béo
Omega-9 cũng rất tốt để phòng ngừa các bệnh về tim mạch và có lẽ cả cancer vú ở
phụ nữ nữa. Dầu olive có chứa một tỉ lệ rất cao chất acid béo Omega-9. Khác với omega -3 và omega-6, omega-9 không
phải là một chất acid béo thiết yếu.
Có chứa oméga 3
Cần phải có sự quân bình giữa omega-6 và omega-3
Omega-3 rất ít ổn định, dễ bị hủy bởi ánh sáng, và nhiệt độ cao (như lúc chiên deep fried trong chảo nóng chẳng hạn). Dưới tác dụng của oxy, Omega-3 dễ bị hôi (rancid).
Bởi những lý do nầy, cho nên kỹ nghệ thực phẩm thường chọn những loại dầu nào dễ ổn định hơn để pha trộn trong thực phẩm sản xuất theo lối công nghiệp.
Các loại dầu nầy thường chứa rất ít chất Omega-3, nhưng ngược lại nó lại rất giàu về omega-6. Tại các quốc gia Tây phương, và Bắc Mỹ, thức ăn công nghiệp bán trong các chợ thường có chứa từ 10 đến 30 Omega-6 cho 1 Omega-3. Tỉ lệ quá chênh lệch giữa Omega-6 / Omega-3 rất có hại cho sức khỏe.
Tỉ lệ
lý tưởng phải ở mức từ 1 tới 4 Omega-6 cho 1 Omega-3.
Nhìn chung,
trong các bữa ăn hằng ngày, dân Bắc Mỹ ít chiụ dùng cá nên thiếu Omega-3, nhưng
ngược lại quá thừa Omega-6 vì họ thường sử dụng fast foods và
các sản phẩm biến chế công nghiệp chứa rất nhiều dầu thực vật đầy ấp
Omega-6..
Nhu cầu của
chúng ta
Theo Hoa Kỳ và
Canada, một người có nhu cầu 2000 Calories (kcal) / ngày, thì cần phải có một
số Omega-3 như sau: ALA phải cung cấp 0.5% nguồn năng lượng, tương đương với
1,1g Omega-3 ở đàn bà và 1,6g ở đàn ông và phải có tối thiểu 500mg chất
EPA+DHA. Họ cũng thiên về Omega-3 từ nguồn thủy sản nhiều hơn là Omega-3 từ
nguồn gốc thực vật.
Để có được 1,3g Omega-3, thì cần:
Omega-3 nguồn gốc thực vật (ALA)
- 2 muỗng café hạt lanh xay - ½ muỗng café (2ml) dầu hạt lanh
- 1 ¼ tách noix de Grenoble
- 13 gr hạt Graines de chanvre (hemp)
- 1 muỗng canh dầu canola (colza)
- 22 ml dầu đậu nành
Omega-3 nguồn gốc thủy sản (EPA+ DHA)
- 70 g cá salmon Atlantic (cá nuôi
- 90 g cá pink salmon (trong lon
- 90 g cá sardin
- 70 g cá herring (hareng
- 120 g cá white tuna (thon) loại trong lon.
Năm 1999, một số nhà chuyên môn trên thế giới đã họp lại và đưa ra nhận xét cho rằng số liệu về nhu cầu Omega-3 mà Hoa Kỳ và Canada đưa ra vẫn còn quá thấp, trong khi số liệu về Omega-6 thì lại quá cao, không hữu hiệu để có thể làm giảm thiểu các bệnh lý nghẽn mạch vành được.
Theo họ, nhu
cầu về Omega-3 cần phải là 2,22g/ngày, và EPA+DHA: 0,65g/ngày. Đối
với Omega-6, phải là 4,44g/ngày, tối đa 6,67g/ngày.
Tổ Chức Y Tế
Thế Giới (WHO) thì khuyến cáo nhu cầu về Omega-3 như sau: ALA từ 0,8g đến
1,1g/ngày và EPA+DHA từ 0,3g đến 0,5g/ngày.
Có nên ăn cá
hay không?
Omega-3 EPA và
DHA trong cá và trong dầu cá là những acid béo rất tốt cho tim.
The American Heart
Association khuyến cáo chúng ta nên dùng cá 2-3 lần một tuần, đồng
thời cũng nên ăn những loại thực vật giàu chất béo Omega-3 ALA như hạt lanh,
hạt dẻ, và dầu canola.
Mấy năm trước
đây có khảo cứu cho biết chúng nên cẩn thận với loại cá rô Phi (Tilapia) nuôi
vì chúng có thể chứa rất nhiều chất Omega 6 nhưng rất ít chất omega 3.
Science News
Popular Fish, Tilapia, Contains Potentially
Dangerous Fatty Acid Combination
ScienceDaily
(July 10, 2008) — Farm-raised tilapia, one of the most highly consumed fish in
America, has very low levels of beneficial omega-3 fatty acids and, perhaps
worse, very high levels of omega-6 fatty acids, according to new research from
Wake Forest University School of Medicine
Tránh đừng nên
ăn những lát cá có áo bột sẵn bán ngoài chợ vì nó thường chứa nhiều chất
béo Trans rất xấu. Sự ích lợi của việc ăn cá để ngừa bệnh tim mạch vẫn
trội hơn việc cữ dùng cá vì sợ cá bị nhiễm thủy ngân và dioxin.
Tuy nói vậy,
nhưng đối với phụ nữ đang mang thai, hoặc đang cho con bú cũng cần nên cẩn
thận. Các chất nầy ảnh hưởng không tốt cho bào thai. Đối với bà con đang sinh
sống tại các quốc gia Tây phương, thì nên hạn chế việc dùng các loại
cá như cá mập (shark), cá tuna, cá lưỡi kiếm (swordfish),
và cá trout là những loại cá có chứa nhiều thủy ngân nhất.
Sau đây là một
vài thí dụ về Omega-3 ở một số loài thủy sản (100g): Cá salmon 1.8
g, sardine 1.4, herring 1.2, mackerel 1.0, trout 1.0, swordfish 0.7, tuna 0.7, haddock 0.2, cod 0.2,
tôm tép 0.3, sò 0.5-0.7g (USDA Nutrient database for standard reference).
Cá chứa ít chất
béo bão hòa hơn thịt, cho nên ăn cá vẫn tốt hơn ăn thịt.
Ăn cá vẫn
là giải pháp tốt hơn là uống những viên dầu cá. Mỡ cá ngoài chất Omega-3 ra, nó
cũng còn có chứa những chất dinh dưỡng khác nữa, chẳng hạn như chất Selenium mà
dầu cá không có. Trường hợp ai không thích ăn cá thì họ nên uống
thêm các viên supplement dầu cá .
Dầu cá thì
sao?
Dầu cá là nguồn
cung cấp trực tiếp 2 loại Omega-3 EPA và DHA. Dầu cá bán ở trên thị trường
thường có pha thêm vitamin E, là chất chống oxy hóa để giúp cho dầu khỏi trở
nên hôi.Vitamin E có khuynh hướng làm loãng máu và có thể gây xuất huyết nếu
lạm dụng dầu cá.
Tại Canada hiện
nay có vài chục hiệu dầu cá được bày bán trên thị trường. Các viên dầu cá nầy
thường chứa vào khoảng 1000mg dầu, nhưng không có nghĩa là nó có đủ 1000mg
Omega-3 đâu. Tùy theo loại dầu cá mà nồng độ Omega-3 có thể thay đổi từ 100mg
đến 700mg chất Omega-3 EPA+DHA.
Cũng có sản
phẩm vừa chứa dầu cá mà đồng thời cũng có chứa các loại dầu khác, như dầu bourrache
(borage oil), dầu onagre (primrose oil), dầu carthame
(safflower oil) vv…
Được biết nhu
cầu trung bình hằng ngày của chúng ta ở vào khoảng 500 mg EPA+DHA. Dầu cá khác
với dầu gan cá. Dầu gan cá được sử dụng để cung cấp vitamin A và vitamin D.
Muốn có đủ nhu
cầu Omega-3 cần thiết chúng ta cần phải uống một số lượng lớn dầu gan cá, vì
vậy có thể có nguy cơ bị ngộ độc do thặng dư vitamin A và vitamin D. Những ai
có vấn đề máu huyết, hoặc đang sử dụng thuốc kháng đông (warfarin, heparin)
thì cần phải thận trọng khi dùng dầu cá. Dùng quá nhiều dầu cá có thể bị nôn
mửa và đi tiêu lỏng.
Vì tính chất
gây loãng máu của dầu cá, cho nên nếu uống trên 3g Omega-3 trong một ngày có
thể bị chảy máu cam. Hiện nay, tại Bắc Mỹ, dầu cá vẫn còn được xếp trong nhóm
thực phẩm bổ sung (dietary supplement), vì vậy luật lệ kiểm soát chất
lượng các loại dầu cá vẫn còn lỏng lẻo chớ chưa được chặt chẽ như phía bên dược
phẩm.
Các liều
lượng Omega ghi trên nhãn hiệu đôi khi cũng không chắc gì đúng với chất lượng
của sản phẩm chứa đựng trong chai.
Cơ hội
bằng vàng của kỹ nghệ ăn uống
Tại Canada,
Công ty sữa Natrel cho trộn dầu hạt lanh vào sữa để tăng cường thêm Omega-3.
Cty Neilson Dairy Oh thì sản xuất ra một loại sữa giàu chất Omega-3 DHA bằng
cách cho trộn thêm chất DHA của cá vào thức ăn hỗn hợp dùng nuôi bò sữa.
Cty Kraft tung
ra thị trường loại sauce mayonnaise có tăng cường chất Omega-3
bằng cách cho trộn thêm dầu đậu nành trong sauce, nhưng cách nầy cũng có cái
bất lợi là đồng thời nó cũng làm tăng chất Omega-6 lên. Trên thị trường, rất
nhiều sản phẩm có tăng cường thêm Omega-3.
Chẳng hạn
fromage có Omega-3 làm từ sữa vắt từ những con bò được cho ăn khẩu phần có chứa
hạt lanh và chất DHA của cá.
Tương tợ như
sữa bò có Omega-3, người ta cũng sản xuất ra một loại thịt heo dặc biệt có
nhiều Omega-3 bằng cách nuôi heo với khẩu phần có chứa nhiều hạt
lanh (linseed).
Hiệu
fromage Black Diamond có chứa 0.1g Omega-3 cho mỗi 30g, trong số nầy 20mg là
DHA. Ngoài ra trứng gà đặc biệt có chứa Oméga -3 được sản xuất từ gà mái được
nuôi dưỡng bằng một loại thức ăn hỗn hộp có chứa 20% hạt lanh (linseed).
Tại Hoa Kỳ Cty
Tropicana tung ra loại nước cam có tăng cường thêm Omega-3. Cty Kellog cũng cho
thêm Omega-3 trong sản phẩm Kashi cereal. Unilever nối gót theo với mặt hàng I
Can’t Believe It’s Not Butter được tăng cường thêm chất Omega-3.
Hoa kỳ
cũng đang nghiên cứu dùng heo chuyển thể (transgenic) để sản xuất ra những loại
thịt heo có chứa 1 tỉ lệ khá cao chất Omega-3.
Chưa hết, thức
ăn chó cũng được các nhà kinh doanh khai thác triệt để bằng cách cho tăng cường
thêm Omega-3 với mục đích là để giúp cho não chó con phát triển tốt?
Đúng là
sướng như chó Tây chó Mỹ.
Kỹ
nghệ thực phẩm và kỹ nghệ thuốc thiên nhiên nhảy vô ăn có
Bệnh tim mạch
là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu tại các quốc gia công nghiệp.
Chất acid béo
Omega-3 đã xuất hiện thật đúng lúc, và đã được nhiều người xem như một vị cứu
tinh đối với họ. Đúng vậy, rất nhiều nhà khoa học đã nhìn nhận tính chất tốt
đẹp của Omega-3 trong việc phòng ngừa phần nào các bệnh
về tim mạch.
Kỹ nghệ thực
phẩm và kỹ nghệ thuốc thiên nhiên đã không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng để khai thác
các mặt hàng có chứa chất Omega-3 nhằm mong hốt bạc một cách nhanh chóng.
Quảng cáo của
họ rất hấp dẫn và rất tinh vi để mê hoặc người tiêu thụ.
Vấn dề Oméga 3
và Oméga 6 cũng còn rất phức tạp
Dù sao đi nữa,
chúng ta nên nhớ rằng Omega-3 cũng chỉ là một chất béo mà thôi, hiệu quả của nó
cũng còn phải tùy thuộc vào một số yếu tố khác nữa mà quan trọng hơn hết
là tỉ lệ giữa Omega-6 và Omega-3 tiêu thụ.
Nguồn
Omega-3 từ thực vật, tốt nhất vẫn là dầu lanh, hạt lanh, kế đó là nguồn Omega-3
động vật mà điển hình là hai chất EPA và DHA từ cá.
Cái phức tạp là
một loại dầu thực vật nào đó nếu có chứa Omega-3 thì đồng thời cũng thường có
chứa Omega-6 với tỉ lệ khác nhau.
Muốn ngừa bệnh
tim mạch
Nói chung,
để ngừa các bệnh tim mạch không gì tốt hơn ngoài việc phải
giảm thiểu dầu mỡ, ăn ít thịt đỏ (thịt bò, thịt heo, thịt dê cừu), tránh các
loại chất béo xấu như chất béo bão hòa và chất béo Trans,và nên thế
vào bằng các loại chất béo tốt, như chất béo không bão hòa đơn thể (monounsaturated)
có nhiều trong dầu olive, và chất béo không bão hòa đa thể (polyunsaturated)
hiện diện trong hầu hết các loại dầu thực vật như dầu canola, dầu
đậu nành …
Nên dùng cá 2-3
lần trong tuần, ăn nhiều rau đậu, hạt dẻ và trái cây tươi.
Ngoài ra cần
phải bớt rượu, bỏ thuốc, và nhớ nên vận động, tập thể dục đều đặn và thường
xuyên.
The American
Heart Association có
đưa ra khuyến cáo sau đây : Tổng số chất béo (tốt lẫn xấu) ăn vào
trong một ngày không được vượt quá giới hạn 30% của nhu cầu năng lượng (2000
Calories). Một nửa số chất béo trên phải là chất béo không bão hoà đơn thể, ¼
là chất béo không bão hòa đa thể (Omega-3 và Omega-6) và ¼ còn lại là chất béo
bão hòa (saturated).
Kết luận
Cho tới ngày
nay, những cuộc tìm tòi về Omega-3 fatty acids chỉ cho thấy những kết quả trái
ngược nhau, phần lớn là vì cách nghiên cứu không được rõ rệt (nhận xét thay vì
can thiệp). (Trịnh Cường, Giang Nguyễn Trịnh).
Tạp chí nổi
tiếng về y khoa JAMA của Hoa kỳ đã đưa ra nhận xét là quả thật Omega-3 có ích
lợi phần nào đối với các bệnh về tim mạch, nhưng còn đối với các bệnh cancer
người ta chưa có thể rút ra một kết luận nào chắc chắn cả. Omega-3 vẫn còn
trong vòng nghiên cứu và tranh luận giữa các giới khoa học với nhau…
In
2006, researchers reviewed 38 studies conducted over the past 40 years on the
effects of omega-3 fatty acids. Researchers looked at studies that showed
positive effects, no effects, and negative effects of omega-3 fatty acids on
the development of cancer. In the final analysis, it appeared that there was no
effect overall. Researchers concluded that omega-3 supplements are unlikely to
prevent cancer.(American Cancer Society)
Tuy vấn đề
Omega-3 còn rất nhiều điểm mơ hồ chưa được sáng tỏ lắm nhưng các nhà tư bản Hoa
Kỳ với sự hậu thuẩn của cơ quan FDA và cơ quan The American Heart Association
đã nhạy bén chụp lấy thời cơ khai thác triệt để món hàng quá béo bở nầy./.
Tài liệu tham khảo :
- Hu FB et al. Optimal diet for prevention of coronary heart disease. JAMA Nov. 2002
http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/12444864
- Maggie B. Covington MD. Omega-3 fatty acids. American Family Physician Jul.
2004
- CatherineH. MacLean, MD, PhD. Effects of Omega-3 Fatty Acids on Cancer
risk, a Systemic Rewiew, JAMA.
2006;403-415.
http://jama.ama-assn.org/cgi/content/short/295/4/403
- Lucas M, Ruby F. Acides gras essentiels. Reseauproteus net
- Trịnh Cường, M.D.& Giang Nguyễn Trịnh, R.Ph., D.PH. Vai Trò Của
Omega-3 Fatty Acids Trong Việc Điều Trị Và Phòng Ngừa Bệnh. Hội Dược Sĩ VN tại Hoa Kỳ, Dec. 2005
http://s1.downloadmienphi.net/file/downloadfile1/293/31949.pdf
Montreal,
Nguyễn Thượng Chánh
No comments:
Post a Comment