1-
Một bậc trưởng lão, thọ giới Tỳ-kheo và tu hạnh đầu đà (khổ hạnh) đã hơn 50
năm. Ngài là niền tin và là tấm gương sáng cho nhiều Phật tử. tuy đã lớn tuổi,
nhưng Ngài vẫn thường xuyên giữ chánh mạng, chưa hề bỏ quên khất thực hóa duyên,
dù chỉ một ngày.
Hôm
nọ tin dữ loan truyền khắp thành phố khiến mọi người sửng sốt: Khi đi hóa duyên
trở về, ngài đã gặp tai nạn bất ngờ, một chiếc xe gắn máy đụng phải. Ngài đã thâu
thần nhập diệt ngay tại hiện trường.
Chúng
tôi nghe rất nhiều Phật tử xì xào to nhỏ: “Ngài tu hành tinh tấn và nghiêm túc,
tại sao lại chết thảm như vậy? Chắc là nghiệp của Ngài quá nặng? Nghiệp nặng?
Một
vị Ni sư gần 60, xuất gia từ nhỏ, giới hạnh nghiêm túc, luôn phát tâm hoằng
pháp, bố thí, cúng dường. Hôm nọ ngồi sau xe gắn máy, té xuống bị xe hơi cán dập
nửa thân mình. Tuy vậy Ni sư vẫn còn tỉnh táo, chắp tay niệm Phật và căn dặn đệ
tử nên tha thứ cho ngời tài xế vừa gây án, xong mới nhẹ nhàng tắt thở.
Người
bạn tôi vô cùng rúng động, vội vã về tường thuật mọi sự và gào to: “Không thể chịu
nổi, một người tu hành như vậy sao lại nhận lấy nghiệp nặng như thế?”
Tôi
chờ anh ta hết xúc động mới nói: “anh còn nhớ không, trong kinh sách Phật dạy
rõ: ‘Chết như thế nào và chết trong hoàn cảnh nào đều là do quả báo quá khứ từ
vô lượng kiếp, chúng ta phàm phu không thể can dự được.
Không
phải chết trên giường là tốt hơn trên hiện trường tai nạn, tất cả chỉ là lý do
để ta xa rời thân xác này để đi tới kiếp sống khác’. Anh là người Phật tử có
hành trì, tất nhiên không nên đặt tâm vào chuyện được chết trong tình trạng ưng
ý, mà tốt nhất là được chết khi “nhất tâm bấn loạn”, khi tâm định tĩnh, khi làm
chủ tâm thức lúc lâm chung – phải thế chứ?
Còn
nữa, một nữ Phật tử gần như trọn đời tu tại gia, thọ giới Bồ tát, ăn chay trường,
ngoài ra luôn luôn tham gia từ thiện không bao giờ tiếc lẫn tài sản và công sức.
Thế
nhưng, khi về già, thân thì mang trọng bệnh, gia cảnh nghèo túng, mà đạo hữu
càng lúc càng thưa dần. Đã thế con cái đứa thì bị tai nạn, đứa thì làm ăn thất
bại, phải bỏ xứ mà đi, khiến bà ta chỉ còn chiếc bóng thui thủi, sớm chiều chỉ
biết vui với xâu chuỗi hột. Nhiều nguời chép miệng dè bỉu: “nghiệp nặng!”.
Trong
cuộc sống và cả trong những buổi đàm luận chuyện đạo, chúng ta thường nghe những
người xung quanh hay thốt lên hai chữ “nghiệp nặng”. Từ ngữ này
được sử dụng để kết thúc một câu chuyện đời, một mẫu tin thời sự, hoặc để phê
phán hành vi kém cỏi của một cá nhân nào đó.
Ở
đây, chúng tôi không đánh giá việc làm ấy là đúng hay sai. Mà chỉ đơn giản thảo
luận đến ý nghĩa của từ ngữ Nghiệp nặng theo quan điểm Phật giáo mà chúng tôi
được học mà thôi. Còn những ai muốn tìm hiểu sâu xa về Nghiệp thì xin kiếm tìm
trong kho tàng kinh sách Phật giáo, hoặc có thể tham vấn các bậc tôn túc.
2-
Phải chăng một thực thể gọi là “Nghiệp nặng” hay là không?
“Nghiệp”
là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ý nghĩa cơ
bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”.
Nhưng
khi được Đức Thích Ca sử dụng để trình bày giáo lý do Ngài giác ngộ dưới gốc
cây Bồ đề, thì từ ngữ này đã mang nhiều ý nghĩa khác biệt, phong phú hơn và
thâm áo hơn. Hôm nay, chúng tôi chỉ hạn chế bài viết này trong hai từ ngữ “nghiệp
nặng” mà chúng ta hay sử dụng một cách tùy tiện, dễ dãi!
“Nghiệp
nặng” cũng là một từ ngữ hết sức hàm hồ đa nghĩa, vì luôn lệ thuộc vào văn cảnh
, hoặc tùy thuộc vào hệ thống triết học, tư tưởng mà nó phải diễn giải. Thói
thường, người ta chỉ hiểu “nghiệp nặng” nghĩa là nghiệp chướng nặng nề, hoặc
là: gặp phải quả báo tệ hại, xấu xa khốn khổ.
Theo
quan điểm thế gian (của những người chưa tin Phật và học Phật) thì: kẻ nào
nghèo nàn túng thiếu, bệnh hoạn tật ách, tai nạn cấp kỳ, gia đạo bất an, nghịch
cảnh đau đớn, đời sống khó khăn, tình cảm bấn loạn, sinh hoạt đời thường không
được ổn định v.v.. thì bị thiên hạ gọi là “ kẻ có nghiệp chướng nặng nề” hoặc
là “kẻ bị nghiệp nặng”
Phật
giáo không hề nhìn nhận một cách thiển cận và thiếu sót như vậy.
3-
Nhưng Phật giáo có rất nhiều loại nhận thức tùy thuộc vào nhiều nền giáo lý; tư
tưởng khác biệt. Xin được trình bày lần lượt như sau:
Theo
quan điểm nguyên thủy, một chúng sanh được gọi là nghiệp nặng khi kẻ ấy không
có điều kiện để thực hiện một nếp sống giải thoát. Mà mục tiêu của giải thoát là chứng dắc thánh quả
A-la-hán (đạt tâm vô ngã), chấm dứt sự thọ nghiệp.
Vậy
ta có thể kết luận rằng: ngài A-la-hán ra, tất cả chúng sanh chưa giải thoát đều
là nghiệp nặng cả, vì còn sinh tồn bởi nghiệp lực chứ không bằng tâm thái vô
ngã (Ngay cả những bậc đắc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm cũng còn sống bằng
nghiệp lực nói chung và chưa đạt Vô ngã).
Trên
đây là giáo lý dành cho bậc xuất gia, còn người tại gia (những người đã được thọ
Tam quy và trì Ngũ giới) thì ngoài việc bố thí cúng dường và đặt bát cho chư
Tăng, Ni , thì phải nỗ lực thọ trì Bát quan trai để được sanh Thiên ( sanh lên
cõi Trời). Vậy ai không thường xuyên thọ trì Bát quan trai, sẽ không được “sanh
Thiên”, như vậy có thể bị gọi là nghiệp nặng.
4-
Còn quan điểm Đại thừa thì sao?
Đại
thừa Phật giáo luôn luôn đặt trọng tâm nơi việc phát khởi Vô thượng Bồ-đề-tâm để
giải thoát luân hồi sanh tử cho bản thân và để cứu độ tất cả chúng sanh khác,
giúp mọi chúng sanh thành Phật như mình.
Vậy
kẻ nào không thể liên tục phát khởi Vô-thượng Bồ-đề tâm hoặc không tạo điều kiện
để mình cùng mọi chúng sanh thành tựu trí giác Phật-đà, thì kẻ ấy vẫn là n gười
đa mang nhiều nghiệp chướng nặng nề.
Đó
là ý nghãi tạm thời của hai chữ “nghiệp nặng” được trình bày tổng quát qua giáo
lý Đại thừa.
Ngoài
ra, tùy theo pháp môn tu hành mà người ta có thể diễn giải từ ngữ Nghiệp nặng
theo nhiều ý nghĩa khác nhau, có thể sử dụng trong những văn cảnh khác nhau.
5-
Ví dụ, Thiền tông chủ trương: “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” là
tiêu chí cho tất cả môn đồ, đệ tử, không loại trừ bất cứ ai. Vậy kẻ nào chưa
“thấy tánh”, nghĩa là chưa bắt gặp “cái mặt mày của mình trước khi cha mẹ sinh
ra” (ngôn ngữ nhà Thiền gọi là: chưa nhận chân được cái bản lai diện mục của
mình), và chưa thành tựu khả năng thành Phật thì là một kẻ nghiệp nặng.
Dẫu
là hòa thượng, đại đức, thiền sư, tổ sư, nếu người nào còn lẩn quẩn bên ngoài cửa
Đốn Ngộ thì còn trầm luân sanh tử, nên gọi người ấy là kẻ có nghiệp chướng nặng
nề, đáng thương đáng trách!
Hoa
nghiêm tông lấy “Ly thế gian, nhập pháp giới”làm yếu chỉ tu hành. Người nào còn
bị vương mắc bởi dây trói ngũ dục, bị ràng buộc bởi phiền não chướng và sở tri
chướng. còn dính líu đến những lợi ích thế gian và ngay cả những hiệu quả xuất
thế gian, mà chưa nhập thế tánh siêu việt bình đẳng bất khả tư nghị của pháp giới
thì…Hoa nghiêm tông gọi kẻ ấy còn nghiệp chướng nặng nề .
Thiên
thai giáo tức Pháp Hoa tông thì lấy “Khai thị ngộ nhập Phật tri kiến” làm mục
tiêu và cơ sở tu hành cho tất cả tín đồ.
Vậy,
kẻ nào chưa ngộ nhập Phật tri kiến mà còn đang sống với quan điểm thế gian,
nhìn mọi sự vật bằng con mắt phàm tục, đầy ý thức phân biệt, tách bạch
thiện ác tốt xấu chỉ vì thiếu thốn chất liệu từ bi, chưa phát huy năng lực trí
tuệ của Phật, thì vẫn là kẻ nghiệp chướng nặng nề, chưa liễu ngộ được tông chỉ
của Thiên Thai giáo nói riêng và chưa cảm nhận diệu nghĩa của nhà Phật nói
chung.
Pháp
Tướng môn tức là Duy Thức tông thì lấy “Nhiếp vạn pháp quy về Chân Duy Thức
Tánh” ( tất cả không ngoài thức) làm cốt lõi cho sự hành trì, đồng thời làm cứu
cánh tối hậu cho cuộc sống. Người nào chưa có khả năng thực hiện Chân Duy Thức
Tánh, thì gọi kẻ ấy còn nghiệp chướng nặng nề.
Luật
Tông lấy “Nhiếp thân ngữ ý vào Thi-la-tánh” làm tông chỉ. Nghĩa là đi đứng nằm
ngồi, tất cả mọi sinh hoạt, cử động , lời nói, tư tưởng, đều an trú trong Giới
Tánh. Nếu chưa biểu hiện được như thế, thì Luật Tông gọi kẻ ấy còn nghiệp chướng
nặng nề.
Tam
Luận tông lấy “Lìa Có và Không, thẳng vào Trung đạo” làm tông chỉ, rồi tiến tới
“siêu Tử Củ, tuyệt Bách Phi” làm cứu cánh tối hậu. Ai biểu hiện trái ngược lại,
nghĩa là còn vướng víu cái Có của phàm phu, hoặc cái Không của Thánh nhân, thì
ta gọi kẻ ấy còn nghiệp chướng nặng nề.
6-
Pháp môn Tịnh độ thì sao?
Người
theo Pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực lạc thì phải lấy “Tín
Nguyện Hạnh” làm điều kiện chính yếu cho việc tu hành, và chấp nhận “ Một đời
vãng sanh, được bất thối chuyển” làm mục tiêu cuối cùng cho việc niệm Phật. Dù
là tăng, tục, nam, nữ đều không biệt lệ.
Tín
là lòng tin chuyên nhất về sự cứu độ của chư Phật.
Nguyện
là ý nguyện mong muốn được trở về sinh sống tại cõi tịnh độ.
Hạnh
là, thường xuyên xưng niệm nam mô A Di Đà Phật liên tục, không gián đoạn.
Ai
không có khả năng thực hiện được Tín Nguyện Hạnh và khi lâm chung không đuợc
vãng sanh Cực Lạc, thì tông phái này sẽ gọi kẻ ấy là nghiệp chướng nặng nề vì
“còn vướng lụy”, phải ở lại thế gian, lăn lộn trong ba cõi sáu đường.
7-
Đặc biệt ở Tịnh độ Nhật Bản, chư vị Tổ sư như Ngài Nhất Biến, Pháp Nhiên và
Thân loan, đều cực lực tuyên dương 2 phần:
I-
Danh hiệu Nam mô A Di Đà là phương tiện thù thắng, vừa là cứu cánh tối thượng,
vừa là chỗ quy túc cho mọi hành vi, tư tưởng và lời nói của hành giả.
II-
Bản nguyện A Di Đà có khả năng vĩ đại là cứu vớt tất cả kẻ “nghiệp nặng, phước
khinh, chướng sâu, huệ cạn”, Hết thảy chúng sanh không phẩm tâm linh cần thiết
cho mọi chúng sanh không phân biệt.
Do
đó chúng ta chớ quên rằng, trong Pháp môn Tịnh độ các Tổ sư vô cùng hân hoan,
thích thú khi che chở cho những kẻ thường bị thế gian miệt thị là nghiệp
chướng nặng nề, là đôn căn hạ trí, là ươn hèn yếu đuối.
Vì
Đức Phật A Di Đà luôn ưu ái những người tội lỗi, nghiệp nặng, va luôn
luôn đối xử với họ bằng lòng bi mẫn đặc biệt:
Nhưng
thật ra, ngoại trừ những bậc thánh vào ra sanh tử cốt thị hiện để cứu độ chúng
sanh thì…tất cả chúng sanh đều là kẻ nghiệp nặng hết thảy.
8-
Tóm lại, từ ngữ “nghiệp nặng”không có chỗ đứng trong lòng người Phật tử (vì ai
cũng là kẻ nghiệp nặng, dưới những hình thức khác nhau, trong những lốt vỏ khác
nhau, trong những vị thế khác nhau-thì cần chi phải luận bàn vô ích đến một sự
kiện rất ư là hiền thiện như vậy?) hoặc nói cách khác:
Đạo
Phật không có sự phân biệt “nghiệp nặng” hay là “nghiệp nhẹ”. Vì trái lại, kẻ
nào nghiệp càng nặng, càng được Phật cứu độ một cách khẩn trương, càng được ưu
ái bởi Bản Nguyện A Di Đà một cách triệt để, hoàn mãn.
Hòa
thượng Quảng Khâm, một cao tăng trong thiền môn thời nay, đã dạy rằng:
“Danh
hiệu Nam Mô A Di Đà Phật chứa đựng vô biên năng lực bất khả tư nghì, há
không thể tẩy rửa mọi nghiệp chướng của chúng sanh dẫu sâu nặng tới đâu chăng nữa
hay sao?
Vậy
mà chúng ta chớ e sợ mình nghiệp chướng nặng nề, mà hãy tự hỏi: chúng ta hành
trì sáu chữ hồng danh đã thực thà, chân thật hay chưa?
Lại
nữa, Đức Phật A Di Đà tựa như Bà Mẹ tràn đầy yêu thương, thế nên đứa
con nào gặp phải nguy nan, khốn cùng, tai họa thê thảm mà lớn tiếng kêu cứu thì
Bà mẹ ấy đương nhiên phải quan tâm ngay lập tức, phải bày tỏ lòng xót xa và cứu
trợ cấp kỳ. Và điều này cũng không phải khó hiểu!
Cho
nên chúng ta đừng ngại rằng mình nghiệp nặng, mà cũng đứng miệt thị kẻ khác là
“nghiệp nặng”, vì nếu chủ trương như vậy, e rằng chúng ta dường như chưa hiểu
và chưa tin vào Bản Nguyện A Di Đà! Ngài Thân Loan lại bảo:
May
mắn thay cho những kẻ chất chứa nhiều ác nghiệp, bởi vì họ sẽ được Đức Phật cứu
độ khẩn cấp!
Bởi
vì tôi là một chúng sanh không chồng nghiệp nặng, tôi còn biết ơn sâu xa hơn đối
với Bản Nguyện, nó đích thực được thiết lập ra để cứu độ tôi.
(Trích
Sông Lửa Sông Nước của Taitetsu Unno, bản dịch An Cư)
Vâng,
phài một danh hiệu thù thắng nhiệm màu như vậy, mới thừa khả năng cải biến tâm
linh chún ta, chuyển hóa cái tâm dơ bẩn xấu ác này trở thành Niết-bàn vi diệu,
bằng cách vận chuyển những kẻ u mê ám chướng tội lỗi nghiệp nặng sang định
cư tại cõi Cực lạc chứ?
9-
Chúng ta cần khẳng định rằng đạo Phật không những chỉ dành cho những người
thông minh, đạo đức (hạng này rất ít, không mấy người), mà là đặc biệt dành cho
những con người yếu đuối trước cám dỗ của tội lỗi, cưu mang lắm nghiệp nặng,
hành vi xấu ác, tâm lý mê đắm. Nhờ vậy, mới làm sáng tỏ đức từ bi vô hạn của
chư Phật, chư Bồ Tát.
Như
Angulimala từng giết 999 người, còn âm mưu sát hại Đức Phật Thích Ca, thế mà
còn được Phật khai ngộ và dạy dỗ cho đến khi chứng đạo.
Như
Yasa, một công tử giàu có đam mê dục lạc, vẫn được Ngài thâu nhận làm đệ
tử, rồi chẳng bao lâu đã chứng quả. Như Châu-lợi Bàn-đà-già là người u mê, si độn
, vẫn được Phật đưa vào giáo đoàn. Sau này trở thành người có tài biện luận sắc
sảo, nổi tiếng là bậc Nhớ Nghĩa Hay đệ nhất.
Cho nên chúng ta nên lạc quan, không cần biết nghiệp
mình nhẹ hay nặng, hãy hành trì chắc thật và luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự cứu
độ không giới hạn của chư Phật.
Nguyễn Xuân Chiến