Trước khi làm bản tự khai, tên Quản Giáo ngồi một chân để thõng, một chân chỏi trên mặt ghế. Hắn ngồi bật ngửa hút thuốc. Vài đám du kích mặt non choẹt mang vũ khí đủ loại đứng vòng ngoài phòng họp của trường Trung Học. Hắn từ từ đứng lên nói: “Tất cả hồ sơ các anh chúng tôi đã nấm. Tội các anh theo Mỹ Ngụy đánh phá Cách Mạng là tội chết, nhưng nhờ lượng khoan hồng của Nhà Nước cách mạng các anh được tha và cho tập trung về đây để học tập chánh sách của Nhà Nước một thời gian ngắn rồi cho về với gia đình, làm công dân tốt của một nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa và đảng Việt Nam quang vinh….”. Hắn nói tràng giang đại hải như con vẹt, cuối cùng hắn gằn giọng: “Các anh phải thật thà khai báo, các không qua mặt được chúng tôi, nhớ đó…” Mọi người được cấp hai mảnh giấy trắng làm tờ khai lý lịch.
Trong bản tự khai gã ghi sơ sài tên họ cấp bực, công vụ và địa
chỉ tận miền Trung. Tư Cần trong Ban Quản Giáo Trại Tù đọc tờ khai của gã và bắt
gã làm lại có hơn ba lần, lần nào gã cũng khai y như cũ. Tư Cần gọi gã lên la lối:
- Anh chưa thành khẩn khai báo. Các anh khác khai đầy đủ còn
riêng anh cứ còn dấu giếm. Tội không khai báo thành khẩn là tôi nặng anh biết
không? Gã thản nhiên trả lời:
- Thưa anh, tôi đã khai đủ.
- Anh không có thân nhân họ hàng?
- Dạ đúng.
- Ai sinh anh ra anh, anh không biết nữa hả!
- Tôi không biết, hồi nhỏ tôi sống trong cô nhi viện nên không
biết cha mẹ là ai. Tư Cần ngó anh luờm lườm và hỏi gằn:
- Còn hoạt động đánh phá Cách Mạng anh ghi có bao nhiêu, đâu đủ!
Gã nhỏ nhẹ:
- Dạ đủ lắm rồi Cán Bộ. Cán Bộ không tin cứ coi lại hồ sơ mà Cán
Bộ có….
Tư Cần bực tức, nhưng không biết phải làm gì với gã. Tư Cần đưa
gã miếng giấy trắng khác và nói: “Anh về khai lại cho đủ hơn, chưa thành khẩn…anh
hiểu chưa???”. Gã mang giấy về và vẫn khai y như cũ. Tư Cần ra lệnh nhốt gã vào
phòng tối hai tuần. Hôm tên du kích mở cửa phòng giam đặc biệt, tống anh về lại
phòng, người anh xanh xao và hôi thúi. Mọi người dìu anh về chỗ nằm. Anh em
trong phòng bịt mũi vì chịu không nổi mùi hôi thúi bốc ra từ cơ thể của anh. Suốt
hai tuần ở trong phòng tối, gã ăn, ỉa tại chỗ. Với mỗi ngày một lon nước trong
phòng tối om làm gì để có cái sạch sẽ. Hồi ở ngoài phòng anh cũng là chúa nhát
tắm gội rồi. Thế là vài ba anh đề nghị góp nước và lót miếng nylon ra giữa
phòng, mời kéo gã ngồi vào để lau chùi, kỳ cọ cho gã hết mùi hôi. Gần ba tháng
trong phòng giam ai ai cũng có người thân gởi đồ ăn vào bằng cách nầy hay cách
khác, riêng gã thì không thấy ai gởi. Anh em hỏi gã thì gã cười mỉm nói: “Tôi
con bà phước làm gì có ai gởi”. Gã ít khi quan tâm đến sinh hoạt trong phòng,
ai kêu làm gì thì làm không thì nằm phì phà hút thuốc một mình, không tâm sự với
ai, ai hỏi gã điều gì thì gã nói cái kiểu trớt quớt không đâu vào đâu. Ngày
tháng bị giam tù không biết rồi sẽ ra sao? Mọi người buồn bã ra mặt, riêng gã
thì không ai đoán được gã có buồn hay không. Gã sống lè phè với cơm phát, nước
đong. Anh em thấy vậy nên chia sẻ với gã khi có đồ ăn gởi vào. Gã không bao giờ
từ chối món gì cả. Ai cho cái gì thì ăn cái đó, ăn không hết thì dồn hết vào
lon Guigoz để dành ăn từ từ. Anh em thương gã vì biết gã chẳng có ai thăm nuôi,
nhưng tin vào lời khai của gã thì chắc không ai tin, hoặc có tin cũng ở một giới
hạn nào đó. Riêng về Ban Quản Giáo thì thôi hạch hỏi gã từ khi gã từ hầm tối
ra. Chắc họ có điều tra, nhưng không moi được gì thêm. Hồ sơ quân bạ ở tỉnh
Chương Thiện bị đốt hết. Họ cứ dằn mặt: “Các anh phải khai thật thà, hồ sơ của
các anh chúng tôi nắm hết cả, đừng hòng khai gian!”. Thế nhưng cho đến khi chuyển
trại lên Cần Thơ, mặc dù cũng qua nhiều lần làm lại tờ tự khai, gã cũng chỉ viết
có bấy nhiêu mà chẳng thấy họ hạch hỏi gì thêm.
Cũng như còn ở trại giam tỉnh, ở đây gã cũng lè phè, lếch thếch.
Mọi người được vợ con tiếp tế thăm nuôi, còn gã thì vẫn mồ côi như cũ. Gã tự đi
“Cải hoạt” với cái bẫy chuột tự sáng chế. Đó là chiếc cần bằng tre với sợi dây
nhợ. Gã đánh bắt chuột cống trong trại, vì là chuột chui nhủi trong các hang dơ
dáy nên lông lá bị rụng, da trầy trụi lỡ lói. Khi bắt được con nào gã cắt đầu,
lột da, bỏ bộ ruột, đem nướng hoặc kho mặn. Anh em thấy gã ăn mà thương hại và
thường có ý ngăn cản vì sợ gã bị bệnh. Mọi người chia phần ăn cho gã và khuyên
gã nên ngưng ăn chuột, nhưng gã vẫn tiếp tục bẫy chuột. Nhiều đêm cái bẫy sập
đưa cần không? Gã tức lắm và cho là có người nào đó ăn chận, bắt lén. Để phát
giác khi bẫy sập. Gã cột thêm mấy miếng nhôm để khi bẫy được chuột, chuột giẩy
dụa sẽ kêu leng keng. Có hôm vừa mổ bụng chuột xong, gã cười khà khà: “Ê bắt được
chuột có chửa, ăn chuột hà nàm bổ lắm”. Gã lôi ra từng con chuột con trong bọc
bỏ vào miệng ăn ngon lành, mấy anh bạn trong phòng bụm miệng, nôn ói. Chẳng ai
cản được gã nên cứ để gã tùy tiện. Anh em đồn đại: “Tay nầy đúng là một tên khật
khùng…!” Cán bộ trại gọi gã lên hỏi:
- Chúng tôi lo cho các anh thức ăn đầy đủ, sao anh lại ăn
chuột dơ bẩn như thế?
Gã cười cười trả lời:
- Thưa cán bộ thêm thịt…
- Thế chúng tôi cung cấp không có thịt cho anh à?
- Dạ không có.
- Cá nục…rau cải, nước mắm đấy.
- Dạ thịt cá đâu phải thịt heo.
- Anh còn muốn ăn thịt heo… tư sản nhỉ?
- Dạ ăn để sống mà cán bộ.
- Thế chúng tôi có để cho các anh chết à….?
Gã cúi đầu ngưng nói. Tên cán bộ tức khí:
- Thôi anh về đi…cấm không cho anh bắt chuột. Gã làm thinh
quay đầu đi ra khỏi phòng.
Gã cùng đoàn quân xuôi Nam vào tuốt tận vùng sâu rừng U Minh,
nơi mật khu cũ của mặt trận trá hình “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” dựng trại,
phát hoang làm ruộng. Gã lè phè như bè trôi sông. Hồi mới tới U Minh mỗi tốp 10
người ngủ trong lều nylon, có đêm gió tốc mạnh mọi người thức dậy lo tu sửa
căng lều lại. Gã vẫn nằm yên ngủ ngáy kho kho. Anh em cằn nhằn quá. Gã phân trần:
- Ngủ quên mà, sao không kêu tui.
Ít lâu sau gã xin được một miếng nylon nhỏ che đủ một bên gần kế
lều chung, để khi mưa gió, khỏi lo anh em càu nhàu. Có hôm mọi người thấy gã ngủ
với nửa người ướt nhem vì miếng vải che bị tróc một phần. Mặc kệ! Gã ngủ với
cơn ngáy đều đều!!!
Trong lao động hằng ngày hễ gã đi chung với nhóm nào là các bạn
trong nhóm nhăn mặt cười. Thế nào cũng phải gánh thêm để cho xong việc. Gã làm
từ từ, đôi lúc nửa chừng than mệt, lên bờ ngồi vấn thuốc rê hút thở phì phèo.
Anh em biết gã như vậy nên riết rồi cũng để mặc gã làm gì thì làm. Ai phàn nàn,
nặng nhẹ, gã cười trừ: “Làm gì mà dữ vậy ông?”. Gã luôn từ tốn, hề hà không giận
ai cho dù có bị nặng nhẹ, nên chẳng ai ghét gã được…?
Công việc đi vào rừng sâu chặt cây và bè về để dựng trại thì được
phân theo đầu người. Mỗi người mang về ba cây đước hoặc cây vẹt. Mỗi nhóm 10
người của ai nấy lo. Cây đốn xong, dùng giây chạy cột lại và thả xuống lạch nước
kéo về. Anh em đốn cây theo tiêu chuẩn, cây to, dài suông thõng, còn gã thì chả
cần miễn có ba cây là được. Gã thả rề rề dưới nước và luôn luôn là người về rất
trễ. Có hôm anh em trong nhóm phải quay lại kéo phụ với gã về chỗ tập trung. Có
một lần vì không bó chặt, lúc kéo về bó cây bị sút ra, gã rị mọ cột lại, nhưng vì
nước lớn cây trôi theo dòng chảy. Gã giữ cây nầy thì cây khác bị trôi đi, phần
vì không biết lội nên cứ loay quay mãi mà không gom được cây để cột lại. Một chị
bơi chiếc ghe tam bản ghé lại và giúp gã thu gom. Chị kêu gã lên xuồng ngồi, be
bó cây vào xuồng, chèo về hướng trại. Bàn tay gã bị xước, máu chảy ướt đẫm, gã
xé một bên áo cột rịt vết thương. Khi xuồng vào đến khúc kinh nhỏ gần khu vực
trại. Chị bơi tấp xuồng vào bờ ra hiệu cho gã xuống xuồng. Chị nói: “Em giúp
anh tới đây thôi, em không được phép vào khu vực trại”. Chị bảo: “chờ em một
chút, em đem đồ ra băng bó vết thương cho anh”. Chị chống sào giữ xuồng, lên bờ
đi vào cái chòi lá mang ra một nhúm gòn, chai thuốc sát trùng và miếng băng vải.
Chị kêu gã đưa bàn tay bị thương ra. Chị dùng bông gòn thấm thuốc sát trùng chỗ
bị trầy, bôi vào một chút thuốc đỏ và băng bó vết thương cho gã. Chị làm công
việc rất thuần thạo. Gã đoán chắc bà nầy làm y tá. Gã muốn hỏi nhưng thôi. Gã lại
lí nhí nói cám ơn và lội xuống nước kéo bè gỗ về điểm tập trung. Hôm nay gã là
người về sớm hơn mấy người bạn, ai cũng hỏi: “Sao hôm nay tài quá vậy?”. Gã cười
mỉm không trả lời.
Thời gian cứ trôi qua với những ngày những tháng tù đày nơi rừng
U Minh. Lao động cực nhọc với mưa nắng, muỗi, vắt, tuy nhiên ăn uống ở đây được
tạm đủ nhờ rau hoang và bầy cá bạc ngàn đổ ra từ phía rừng sâu khi mùa mưa tràn
đồng lênh láng. Hồi mới xuống đây vào đầu tháng tư, cơn mưa mới rỉ rả. Bây giờ
cơn mưa đã tạnh, các láng trại được thành hình, mùa lúa gặt đã xong. Nông trường
30 tháng Tư được thành lập.Tin tức chuyển trai đi nơi khác được anh em rỉ tay
nhau…đi đâu…về đâu…??? Lại có tin đồn lần nầy trại sẽ thả một số người…Ai
đây…???.Mọi đồn đại rồi cũng đi qua. Một hôm gã được gọi lên C với vài anh bạn
khác. C trưởng cho hay toán nầy được cho về đoàn tụ với gia đình. Anh em trong
nhóm ai cũng vui mừng, còn gã thì tỉnh bơ và nói với C trưởng:
- Cho tôi ở lại được không cán bộ…?
- Không được, có lệnh là phải rời trại.
Gã làm thinh với mặt buồn buồn lầm lũi về láng. Anh em trong
nhóm ngạc nhiên hỏi:
- Ai cũng muốn về…còn mầy…điên hả!!! Gã cười méo mó và im
lặng vấn thuốc hút…
Đó là cuối năm 1980.
Ngày được thả về, tất cả nhóm hơn 12 người lên phòng họp của trại
để làm lễ và lãnh giấy lệnh rời trại. Tất cả mọi người ai cũng được thông báo
cho thân nhân vợ con vào ký vào giấy bảo lãnh nhận chồng về. Chỉ trừ anh chẳng
có ai. Ban Chỉ Huy Trại hỏi anh, anh nói: “Xin cho tôi ở lại nông trường, tôi
không còn ai là thân nhân”. Cuối cùng Ban Chỉ Huy Trại cấp cho gã một công rừng
ngoài nông trường gần phía trạm xá. Khi được Cán Bộ Trại chỉ cho gã miếng đất
được cấp, gã nhìn cái chòi lá mà trước đây chị Y Tá băng vết thương ở tay, chỉ
cách độ một vuông đất. Chuyện gã xin ở lại lan truyền khắp nông trường. Mọi người
cho gã là thằng khật khùng mới chọn ở lại cái nơi cùng khốn nầy. Nhưng người
vui nhất khi nghe tin gã ở lại là Lượm.
Buổi sáng Lượm đứng trước cửa trạm xá nhìn mấy chiếc võ lãi chở
mấy gia đình được cho về chạy ngang trước con rạch. Nàng nghĩ nếu gã mà có
trong chuyến về nầy thì chắc nàng buồn lắm. Một cảm giác nôn nao truyền khắp cơ
thể khiến Lượm mơ màng một điều gì đó không rõ…. Lượm nghĩ trong những ngày sắp
tới nàng sẽ còn được gặp gã.
Cuộc đời nàng rất hẩm hiu đau buồn, từ nhỏ tới giờ có khi nào
nàng được cái cảm giác như bây giờ đâu. Mới 10 tuổi nàng đã mồ côi mồ cút vì ba
má chết trong trận chiến Mậu Thân. Mười lăm tuổi đã vào đội giao liên. Nàng được
nhào nặn hận thù Mỹ, Ngụy, học tập chiến đấu hy sinh theo các gương anh hùng mà
nàng chỉ nghe thôi chớ chưa thấy tận mặt. Từ ngày vào đội giao liên tới giờ cứ
luồn lách, chốn trui chốn nhủi khi lính đi càn. Nàng chỉ nghe báo cáo thành
tích diệt địch, nhưng chưa bao giờ tham gia trận đánh nào. Trình độ thì chỉ nhá
nhem đủ để có thể đọc được các chỉ thị công tác. Một hôm trên đường đi công tác
với một anh bạn. Lính càn nhiều quá, hai đứa chém vè ở một cái hầm chìm dưới
đám dứa gai. Cái hầm chật ních hai đứa phải áp sát nhau suốt buổi. Hơi nóng hai
cơ thể cứ như ran ran truyền vào nhau. Có lúc hình như thằng bạn để tay vào ngực
áo đang bật khuy gần hết. Lượm vờ như không biết nhưng thấy rộn rã một thứ gì
đó rất mơ hồ, cổ họng nàng như khô, nước miếng chực chờ chảy ra. Nàng nuốt một
cái ực vào. Thằng bạn thấy nàng để yên nên làm tới. Nó đưa tay luồn xuống thấp
và thấp hơn. Không biết tại sao nàng vẫn để yên cho nó làm gì thì làm. Buổi tối
hôm đó khi vừa ra khỏi miệng hầm thì nó đè bật Lượm ra trên miệng hầm…Nàng nằm
im, một lúc Lượm nghe gió thổi lạnh khắp người, nàng ôm riết nó sát hơn…Nàng tê
dại và cảm thấy đau nhói như có một cây gai nhọn vừa đâm vào phía dưới…Tối hôm
đó du kích xã phải đốt rọi đi tìm. Hai đứa rón rén về chòi canh. Mỗi đứa nằm một
góc ngủ say.
Vài tháng sau, cũng trong chuyến công tác giao liên. Khi lính bố
ráp. Lượm nhanh chân trốn được dưới hầm trú, nhưng thằng bạn bị bắn phơi thân
ngoài đám dứa gai. Thấy cái xác bị bắn lòi ruột Lượm trừng trừng nhìn nó rồi bật
khóc. Những ngày tháng sau đó Lượm ăn nằm hết với chủ tịch xã, tới xã đội trưởng.
Hình như họ biết Lượm ăn nằm với thằng bạn du kích hôm đó. Họ tạo điều kiện đề
gần nàng. Hình như nàng cũng hực nóng khi nghĩ tới chuyện làm tình. Nàng sẵn
sàng nằm ra khi có cơ hội. Thật ra mấy anh ở trên cứ tạo cơ hội để được ngủ với
Lượm. Các anh nói: “Ủng hộ sinh lý cho các anh cũng là một công tác”. Lượm tin
như vậy, cho nên chuyện ăn nằm với mọi người là chuyện giống như thi hành nhiệm
vụ. Sự ăn nằm quen dần cho đến nỗi Lượm không biết cái thai chình ình càng nở
to ra của nàng tác giả là ai. Lượm có bầu thì bị lôi ra xử lý. Chính anh Tư Hồng
chủ tịch xã đã ngủ với Lượm không biết bao lần. Anh gay gắt phê phán trước buổi
họp kiểm điểm nàng: “Đồng chí đã làm mất tư cách một cán bộ Cách Mạng”. Anh nhấn
mạnh: “Phụ nữ Cách Mạng luôn trong sạch để làm gương cho chị em trong đoàn ngũ,
chưa có gia đình mà để có bầu là vi phạm điều lệ…”. Vợ của Tư Hồng là Chủ Tịch
Hội Phụ Nữ Cách Mạng, sau khi kiểm điểm gay gắt chuyện nàng có bầu và cuối cùng
chị đề nghị thuyên chuyển Lượm sang cơ quan Y Tế khi sinh nở xong. Sau nầy Lượm
biết được là bà vợ của Tư Hồng nghe phong phanh chuyện anh có ăn nằm với Lượm
nên nhân cơ hội nầy đẩy Lượm đi xa. Còn Tư Hồng thì thở ra nhẹ nhõm.
Lượm bị sẩy thai trong một chuyến đi công tác. Nàng được nằm
tại bệnh xá huyện và chuyển đi học Y Tá vài tháng thì ngày 30 tháng Tư đến.
Chuyện gần đàn ông của Lượm như một đòi hỏi của cơ thể chứ không
có một chút tình cảm gì ở trong đó. Ăn nằm xong thì nàng lồm cồm ngồi dậy mặc
quần áo và mạnh ai nấy đi. Cho tới khi gặp được gã. Một người tù cải tạo làm
lì, hiền hậu, ăn nói từ tốn. Khi gặp nàng gã dửng dưng chẳng nhìn nàng như mấy
lão ở trong nầy, khiến nàng cứ muốn lấn tới với gã trong nỗi xuyến xao kỳ lạ.
Lượm thường đứng nhìn gã kéo gỗ dưới lạch nước trước trạm xá với cái vẻ cô độc
kham khổ thấy mà thương. Nàng tìm hiểu và biết gã chẳng có ai thăm nuôi. Nàng
đoán chắc gã chưa vợ con nên đâm lòng yêu thầm.
Khi cái chòi lá của gã khởi công thì mọi người trong trại phụ dựng
nhà cho gã, chỉ trong hai ngày là xong. Miếng đất được nông trường cấp cho gã một
công gần khu trạm xá cho nên Lượm có nhiều cơ hội đến giúp gã nhiều việc. Ngày
tháng trôi qua, khi thì nàng mang cho gã một vài món ăn, vá cho gã manh áo
rách…nhưng chưa bao giờ nàng nói được cái đều nàng nghĩ trong đầu. Lượm nói thầm:
“Đàn ông gì mà kỳ lạ…mình muốn ảnh mà ảnh ...cứ lơ lơ chẳng để ý gì hết ráo…”
Một buổi tối, Lượm nhìn qua kẽ hở của chòi tắm, thấy phía nhà gã
chưa thắp đèn. Nàng quơ bộ quần áo mặc vào và thắc mắc: “Cái anh nầy đi đâu, tối
mò mà chưa zdìa để nhà tối om?”. Trạm xá cách nhà gã một vuông ruộng nhỏ cho
nên nàng hay chăm chú theo dõi sinh hoạt đi đứng của gã hằng ngày. Có hôm thấy
gã ở trần trùng trục phơi cái lưng vạm vỡ với màu da trắng muốt. Nàng thấy nôn
nao một ham muốn dâng tràn, toàn thân nàng nóng ran. Luợm ước gì được nằm sát với
gã. Khi ấy nàng nhắm mắt mơ màng nghĩ đến một dòng ái ân tràn ngập trong đầu…
Lượm quyết định sang nhà gã xem gã có ở nhà không? Trời mới nhá nhem tối nhưng
Lượm cũng cầm theo cây đèn pin. Bước ra khỏi trạm xá, cơn gió chiều hôm thổi
lùa, nàng nghe lành lạnh ở vùng ngực. Lượm chợt nhớ ra mình quên mặc áo lót.
Nàng đưa đôi tay bắt chéo trước ngực khi đứng trước cửa nhà gã. Nhà tróng trơn
không có cửa trước. Nàng nhìn suốt vào nhưng chẳng thấy ai bên trong. Lượm đi
vòng ra phía sau, thì bất chợt nhìn thấy gã vừa mới ở dưới mương nước bước
lên.Toàn thân trần truồng. Một bóng trắng chập chờn trước mắt. Nàng vội trở ra
phía trước gọi: “Anh ơi có nhà không, sao nhà tối om zdậy?”. Gã nghe nàng gọi
thì vội đi ngay vào nhà lấy bộ đồ bà ba đen mặc vào và nói vói ra: “Có tôi…chờ
chút nha ?”. Vừa nói gã vừa mò tìm cái ống quẹt mồi cây đèn. Căn nhà sáng
lên. Lượm đứng ngay khung cửa. Ánh sáng làm lộ thân hình người con gái với bộ đồ
bông hường nhô cao đôi vòng ngực. Gã tằn hắn:
- Có gì hông cô Lượm?
- Thấy nhà tối em tưởng anh không có nhà nên đi qua coi thử anh
zdìa chưa?
- Tôi tắm ở dưới mương nước phía sau nhà.
Nàng vờ như không biết gì và nói: “Dzậy mà em tưởng anh đi
đâu?”. Nàng bước hẳn vào bên trong. Nhà trống trơn chưa có bàn ghế gì ráo. Gã
nói: “Cô ngồi lên giường đỡ”. Lượm ngồi lên mép giường nhìn quanh quất căn nhà
rồi nói: “Mai em đi chợ mua đồ cho trạm, chắc em mua cho anh một ít đồ xài, anh
cần món gì cho em biết”. Gã đứng xớ rớ một góc nhà nói: “Chưa biết cần gì nữa
cô ơi?”. Lượm dượm người đứng lên bước vài bước, rồi nhìn trước, ngó sau xem có
gì mua được cho gã đây? Nàng chột dạ nói trong lòng: “Nhà thiếu đàn bà có khác”
và cảm thương cho gã một cách chân thành. Lượm hỏi:
- Anh ở như vầy…hỏng ai lo cho anh hết.
- Tui quen rồi cô.
- Em muốn lo cho anh...lo hoài hoài được hôn?
Gã xua tay:
- Không được đâu. Cô là Cán Bộ, tôi là tên tù mới được thả
ra...nếu người ta biết cô lui tới như thế nầy có hại cho tui. Tui cám ơn sự lo
lắng và sự giúp đỡ của của cô.
Lượm trân trân nhìn gã và nói:
- Anh...! em thương anh mà. Không ai có quyền cản ngăn em hết á!
Em là một người con gái...không là cán bộ gì ráo, em chán cái luận điệu của mấy
ông trong bưng nầy lắm rồi. Thời gian qua nhìn các anh sinh hoạt mọi người ở
vùng nầy đều biết các anh là ai...là những người tử tế chứ không như những điều
bôi xấu mà em và các người ở đây nghe về các anh... Dường như có một cơn sục
sôi bùng cháy trong lòng. Lượm bước tới ôm chầm lấy gã và nói: “Em thương
anh!”. Mùi thơm bồ kết từ mái tóc mới gội của nàng cộng lại với sự cọ sát vòng
ngực nóng ran làm gã boàng hoàng lo sợ hơn là cảm xúc... gã vội tỉnh trí đưa
hai tay lên hai vai nàng đẩy nhẹ ra và nói: “Không được đâu...cô về đi...!
Không được đâu....!”. Bỏ Lượm đứng khóc trong nhà, gã chạy ra phía sau ... Cánh
đồng mênh mông loáng nước trước mặt gã đã tối sầm. Gã khom lưng vóc một bụm nước
úp vào mặt.
Vào một buổi trưa ngày.. tháng ...năm 1984 một chiếc
võ lãi chở một thiếu phụ sang trọng và hai người con tấp vô trạm xá. Người tài
công bước lên hỏi Lượm nhà của anh T.... ở đâu? Lượm nhìn xuống chiếc võ lãi,
lòng tự hỏi: Ai dzậy kìa???
Khi chiếc võ lãi tấp vô nhà của gã. Lượm ra đứng ngoài sân bệnh
xá nhìn sang đấy, thấy gã chạy ra ôm chầm lấy người thiếu phụ, còn hai đứa nhỏ
thì kêu ba ơi ba...! Gã quay sang ôm hai đứa nhỏ hôn lấy hôn để... Tất cả gia
đình gã di tản sang sống ở Mỹ. Sau khi liên lạc được với những người bạn còn ở
Sài Gòn có chồng bị tù ở vùng U Minh. Vợ gã biết gã còn ở Năm Căn. Chị xuống Cà
Mau dò la tin tức và biết gã đang ở nông trường Thống Nhất. Hôm nay chị mướn
chiếc võ lãi vào rước gã về. Lượm đứng như trời trồng và ôm mặt khóc: “Trời
ơi! vợ con của ảnh!!!”
Chiều đó chiếc võ lãi quay mũi chạy ra khỏi nông trường, đi
ngang trạm xá. Gã nhìn vào một lúc rồi vội quay mặt về phía vợ nói: “Anh có nhiều
kỷ niệm với cái trạm xá nầy”. Người thiếu phụ nói: “Vậy hả...?” Chiếc võ lãi chạy
khuất ra vàm kinh lớn. Tiếng bành bạch của chiếc máy đuôi tôm dội trong Lượm nỗi
đau xót tận cùng buồn bã. “Anh đi thật rồi! Em mất anh thật rồi...!”.
Nàng đứng khóc một mình trong buổi chiều U Minh lặng lẽ.
Bẵng đi một thời gian rất lâu. Lúc nầy Lượm làm Y Tá cho một bệnh
xá ở huyện...Một hôm nàng nhận được một món quà từ Bưu Điện. Đó là một sợi dây
chuyền bằng vàng với hai trái tim kề nhau, kèm thêm có bức thư của gã bất cần
năm nào gởi từ Mỹ về.
Cali..ngày... tháng....năm.....
Lượm thương mến,
Tôi hiểu rõ tấm lòng của em dành cho tôi và luôn ghi nhớ những sự
giúp đỡ của em trong những ngày tháng ở rừng. Chiếc võ lãi chở vợ con của tôi
vào ngày hôm đó cũng là một bất ngờ cho tôi. Trong cơn biến động trước ngày 30
tháng tư năm 1975. Gia đình tôi lo di tản trước đó vài ngày.Vợ tôi từ Sài
Gòn xuống Chương Thiện ngày 28 tháng tư để đón tôi về cùng di tản ra hạm đội Mỹ,
nhưng không gặp được tôi. Mọi người trong gia đình tôi đã ra đi trong lúc chúng
tôi được lệnh tử thủ của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Chúng tôi đã anh dũng chiến đấu đến
viên đạn cuối cùng...và rồi những gì em biết sau đó. Chúng tôi đành thua trận.
Người anh đầu đàn của chúng tôi hiên ngang gục chết trước pháp trường. Tôi mất
liên lạc với gia đình và không biết họ về đâu trong cơn biến động đau đớn đó.
Tôi đành chịu số phận chung cuộc của những người bại trận. Chúng tôi hèn nhát
hơn vị Đại Tá của chúng tôi! Chúng tôi buông súng, nạp mình cho kẻ chiến thắng
là phía của em. Tôi phó đời trong bất cần số phận...và cuối cùng tôi gặp lại vợ
con trong bất ngờ như chiêm bao. Tôi cám ơn ơn trên đã cho tôi hồi sinh được cuộc
sống và xin cám ơn em đã tận tụy giúp tôi trong cơn khốn cùng đã qua. Tôi nhận
biết rằng: Từ trong trái tim yêu thương chân thành thì không có lòng thù hận.
Xin gởi em món quà từ đất Mỹ. Mong em vui lòng nhận cho, trong đó có tấm lòng của
tôi.
Thương mến,
Lê văn T...
Riêng Lượm từ hôm nhận được quà và thư của gã nàng khóc thật nhiều.
Sau đó nàng rời bỏ bệnh xá. Người ta không biết nàng đi đâu...?