Lặn lội thân cò khi quãng vắng. Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Hình minh họa.
Cuộc đời tình ái của hắn rẽ sang một
khúc ngoặt mới kể từ ngày nàng rước hắn về dinh ở một thành phố miền Tây
Bắc, tiểu bang Washington, theo diện hôn nhân mà hắn vẫn luôn tự hào và
khoe khoang với mọi người ở Việt Nam và cả ở Mỹ rằng hắn đi Mỹ theo
diện “Hạ vàng có Nàng đến hỏi”. Người nghe tròn mắt hỏi- “Ủa diện gì mà
kỳ cục vậy cha nội?”. Lúc đó hắn mới từ tốn, khoan thai làm ra vẻ quan
trọng, hỏi người nghe- “Đã đọc cuốn tiểu thuyết Hạ đỏ có Chàng đến hỏi
của nhà văn Viên Linh xuất bản năm 1973 chưa?”. Chờ cho người nghe thẩm
thấu được cái kiến thức văn chương bao la như trời biển của mình, hắn
cảm thấy sướng tê cả người. Bấy giờ hắn mới trả lời một cách tự hào rằng
có một nàng Việt kiều từ Mỹ “dìa bển cưới tui”.
Nàng là một Việt kiều định cư ở Mỹ lúc
tuổi đời tròm trèm 5 bó, một nách 2 đứa con tóc vàng mắt xanh đang
trong tuổi nổi loạn, khi nước Mỹ có chương trình nhân đạo Home-coming
Act dành cho trẻ em mang hai giòng máu Mỹ-Việt vào đầu thập niên 90.
Sống ở vùng đất lạnh lẽo và cô đơn, hơn 10 năm cắm đầu đi cày nuôi con
trong một hãng làm bánh kẹo nhỏ, nàng bây giờ già trước tuổi với bước đi
nặng nề, thấp bé, phục phịch và vài mối tình chắp vá mà cũng chẳng đi
đến đâu.
Một lần về thăm quê cũ cho nở mặt với
bà con láng giềng, nàng gặp lại hắn, người tình cũ một đêm, trong một
tiệc cưới miệt vườn. Tình cũ không rủ cũng tới. Hắn vừa chết vợ vài năm,
nhưng lúc nào cũng có vài mối tình lẻ tẻ vắt vai; nàng đang cô đơn, da
diết mong mỏi một bờ vai đàn ông để dựa. Hắn nhìn nàng hơi ngán ngẩm vì
bây giờ nhan sắc nàng như cảnh một cuối thu ảm đạm, nhưng cái lôi cuốn
nhất nơi nàng, những năm tháng ấy, là Việt kiều còn có giá lắm. Với một
cặp mắt tinh đời, hắn nhận thấy đây là một dịp may không có lần thứ hai:
nàng sẽ là cây cầu cho hắn bước qua bên kia bờ thiên đường Mỹ quốc, nơi
mơ ước của hầu như mọi người dân Việt lúc bấy giờ.
Chuyện không cần nói cũng phải tới,
cung và cầu gặp nhau, nói theo lối tượng hình: Con tàu xả hết tốc độ,
xịt khói đen, lao nhanh vào con đường hầm giữa những tiếng còi tàu hú
vang lên rung chuyển cả đất trời. Nàng chìm đắm và tận hưởng những ngày
hạnh phúc nhất đời, quên đi những ngày tháng miệt mài trong xưởng bánh
kẹo. Mãi vui tình mới, nàng không ngờ một người đàn bà xóm kế bên, đã có
một đứa con trai với hắn, kéo đến đánh ghen, làm rùm beng cả xóm cũ.
Hắn và nàng bèn đem nhau ra khách sạn chợ huyện để níu kéo những ngày
thần tiên còn lại của chuyến về quê.
Một năm sau, nàng về rước hắn và cô
con gái út của người vợ quá cố qua Mỹ đúng như kế hoạch hắn đã vạch ra.
Cuộc đời hắn từ ngày còn nhỏ tới cho tới bây giờ toàn là những chuỗi
ngày làm chơi ăn thiệt, lúc nhỏ sống nhờ cha mẹ, lớn lên nhờ vợ, khi sắp
về chiều lại sống nhờ vợ, không phải một vợ mà nhiều bà vợ cùng một
lúc.
Hắn vốn sinh ra dưới một ngôi sao
“sướng”, nói theo tử vi đẩu số là sao đào hoa chiếu mệnh. Hắn đi đâu
cũng có đàn bà đeo bám, gạt ra hổng hết. Bạn bè nói hắn có số sát gái.
Hắn là con thứ sáu trong một gia đình nông dân có 10 người con, sống ven
bờ con sông ở một huyện lỵ nhỏ của một tỉnh miền Tây gạo trắng nước
trong, tôm cá đầy sông, lúa gạo đầy bồ. Tuổi thơ hắn lớn lên theo con
nước phù sa lên xuống mỗi ngày.
Tuy đông con, nhưng cha mẹ hắn không
chịu để đứa con nào không có ít chữ trong bụng. Ông bà có nhiều ruộng
vườn nên cuộc sống tuy không giàu có nhưng cũng chẳng vất vả, có thể nói
là thuộc giới trung nông trước năm 1975. Riêng hắn chỉ ham chơi, biếng
học, tối ngày hết lông nhông, lại bơi lội dưới sông, kiếm tôm cá lên
nhậu với bạn bè rồi tán dóc, bù khú, tối đi tán gái rồi về nhà lăn ra
ngủ khò. Ba hắn đã từng cầm đòn dông rượt hắn chạy có cờ, đến nỗi hắn
phải nhảy xuống sông, bơi qua bên kia bờ mới thoát cơn thịnh nộ của ông.
Nhỏ không học lớn làm Thượng Sĩ. Thi
tú tài I nhiều lần mà lần nào cũng trượt vỏ chuối, cũng không thể nào
trốn lính được mãi, hắn bỏ làng ra đi đăng lính trong binh chủng thiết
giáp. Đóng quân ở Sóc Trăng, hắn làm quen và cưới được một cô gái hiền
lành, chân thật, dễ coi trong một gia đình đông con mà ông bố cũng là
một quân nhân. Mới 17 tuổi, chưa xong trung học, cô bị lôi cuốn bởi lối
ăn nói đao to búa lớn, cộng với vóc dáng cao to 1,75 mét, hào hoa trong
bộ quân phục, đầy nét phong trần của hắn.
Một đám cưới ấm cúng nho nhỏ, dễ
thương, cô dâu mới về quê ra mắt nhà chồng rồi theo hắn trở lại đơn vị.
Lần lượt 3 đứa con ra đời, cô lăn lộn với đời làm vợ một lính chiến. Hắn
đi hành quân nay đây mai đó khắp quân đoàn 4, nay bồ cô này, mai cặp cô
kia trong khi cô ở lại hậu cứ, với sự chăm chỉ, cần mẫn, chịu thương
chịu khó, cô mở một câu lạc bộ ăn uống phục vụ gia đình binh sĩ. Việc
làm ăn rất phát đạt. Nhiều sĩ quan phải đến ghi sổ nợ, ăn thiếu, cuối
tháng lãnh lương ra trả. Nhờ vậy, hắn được nhiều cấp trên biết đến và
hắn từ từ cũng bò lên cấp bậc Thượng Sĩ thường vụ trong chi đoàn trước
ngày đứt phim 30 tháng 4, năm 1975.
Sau năm 1975, tất cả mọi binh lính, sĩ
quan, và công chức miền Nam đều phải trải qua những tháng năm của kiếp
người trong những “trại súc vật”, hắn may mắn chỉ đi học tập cải tạo 5
ngày, rồi đem vợ và 3 đứa con về quê nội. Cha mẹ chia cho hắn vài sào
ruộng để nuôi đàn con tuổi đang ăn đang lớn. Vốn cần cù, siêng năng, vợ
hắn tần tảo nuôi chồng nuôi con nhờ vào chiếc xuồng ba lá chất đầy cần
xé, giỏ lác với đủ thứ gà vịt, tôm cá và nông sản. Cô hằng ngày xuôi
ngược trên con sông quê bất kể nắng mưa dãi dầu.
Từ chiếc xuồng con ba lá bơi bằng dầm,
cô dành dụm mua được chiếc ghe lớn hơn với hai mái chèo đứng, cô chèo
đi trong xóm thu mua tất cả mọi thứ, đem đến chợ huyện bán. Đến trưa, cô
lại mua hàng xén, mắm muối, đường thẻ, và những thứ hàng cần thiết mà
người dân trong xóm vì xa chợ, không thể có được. Cô hì hục chất lên ghe
thật khẳm, theo con nước lên, xuôi về nhà, dưới ánh nắng vàng chói
chang, chênh chếch, mồ hôi pha lẫn nước mắt vì thỉnh thoảng cô cảm thấy
một cơn đau nhói như phá tan lồng ngực, đau đến ứa nước mắt không thể
ngăn lại được. Một thân một mình, đi sớm về trưa, cô đem hàng về nhà để
hắn và mấy đứa con bầy bán trong một cửa hàng tạp hóa mà cô đã mở trong
xóm để kiếm thêm tiền chợ. Mấy sào ruộng chỉ đủ gạo cho cả gia đình 7
miệng ăn, mà 2 đứa sau này ra đời trong những ngày gạo châu củi quế sau
năm 1975.
Nhờ sự cần cù chăm chỉ của cô, trong
thời kỳ “quá đọi” để tiến lên chủ nghĩa xã hội, cả gia đình không một
bữa nào phải ăn cơm độn khoai. Mỗi ngày khi gà chưa gáy sáng, khi vạt cỏ
bên đường còn ướt đẫm sương đêm, cô đã thức giấc, nhẹ nhàng với tay lấy
2 mái chèo và giỏ xách, chuẩn bị cho chuyến đi buôn đến Sài Gòn để kiếm
thêm thu nhập cho gia đình. Ngày đêm vất vả, đầu bù tóc rối, không ngại
một sương hai nắng, gian khổ, khéo léo, cô né tránh công an kinh tế,
nhờ vậy gia đình có thêm của ăn của để.
Kinh tế gia đình khấm khá một chút thì
hắn lại sanh tật như xưa. Hễ không nhậu nhẹt bù khú, hắn lại đi mèo mỡ
mất biệt cả tuần cho đến khi hết tiền thì về nhà nẹt tiền của mấy đứa
con đang bán hàng tạp hóa, rồi lại ra đi. Nếu không đưa, hắn đánh đập
tàn nhẫn nên con cái sợ hắn như sợ cọp. Có lần hắn đánh thằng con lớn
phải đi cấp cứu tưởng chết. Ở dưới quê, không có gì dấu được lâu, chuyện
vợ bé, gái gú cũng đến tai ba má và anh chị em của hắn. Ai cũng xót
thương cho nỗi nhọc nhằn và hoàn cảnh của cô, riêng cô vẫn cắn răng cam
chịu, nhẫn nhục vì con cái, không dám than thở cả với cha mẹ ruột mình.
Như một cỗ máy làm việc quá mức, một
buổi sáng, cô không dậy nổi để đi chợ. Cô mở mắt. Trần nhà chông chênh
xoay chuyển. Cô cảm giác như thân thể mình bồng bềnh tựa chiếc thuyền
trôi đi trên sông nước, trong sương khói mênh mông, và dật dờ đi vào một
vùng tối mịt mù. Cô cảm nhận hơi lạnh thấm vào xương tủy, một nỗi đau
đớn kinh khủng vừa vỡ ra trong lồng ngực. Trong vùng mơ ảo đó, cô nghe
thấy tiếng của chính mình - “Hãy ngủ đi, ngủ cho quên đi nỗi nhọc nhằn,
ngủ cho thật say để thoát khỏi nợ trần gian”. Cô sụp đổ xuống trong vùng
bóng tối im lặng sâu thẵm đó.
Đến sáng, mấy đứa con nhìn xuống bờ
sông, thấy chiếc ghe của má tụi nó vẫn còn cột hờ hững ở đó. Chúng vội
chạy vào buồng, má tụi nó nằm như chết, mặt trắng bệch, trên gối vết máu
còn tươi nguyên. Chúng khóc la và sợ hãi kêu cứu, nhưng ba tụi nó không
có ở nhà. Một đứa bơi xuồng qua bên ông bà nội. Chú Út lấy chiếc vỏ lải
máy đuôi tôm chở má tụi nó lên bệnh viện huyện. Họ cho biết cô bị lao
lực và chuyển sang ung thư phổi giai đoạn chót, không còn sống bao lâu,
nên đem về nhà lo hậu sự.
Vậy mà cô vẫn sống lây lất hơn 5 tháng
nữa, với thuốc men khi có khi không. Nhìn đàn con dơ bẩn, nhếch nhác,
quá đau lòng, cô gắng gượng dậy lo cơm nước cho chúng bữa đực bữa cái
trong khi chồng còn mãi chạy theo những hình bóng khác. Ba má ruột cô
cũng cố hết sức giúp đỡ tiền bạc lẫn công sức, đem mấy đứa con về bên
ngoại nuôi. Ngày trước, tình yêu chồng con đã giúp cô có sức mạnh vượt
qua những cơn đau âm ỉ ngày một ngày hai; bây giờ nỗi buồn đau người
chồng bội bạc gặm nhấm dần thân thể bệnh hoạn khiến cô liệt giường và
không bao giờ còn ngồi dậy nữa. Mấy đứa con không biết săn sóc mẹ nên
lưng cô bị lở loét vì nằm một chỗ quá lâu không có người lau sạch và
xoay trở thân mình. Cô biết mình sẽ không còn sống bao lâu nữa chỉ lo
các con rồi đây ai nuôi chúng mà hai hàng nước mắt âm thầm chảy ướt cả
gối.
Bốn câu thơ của thi sĩ Tế Xương như một lời tiên tri vận vào cuộc đời cô đúng đến từng chi tiết nhỏ:
Quanh năm buôn bán ở ven sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng,
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một hôm, hắn trở về
nhà với một người đàn bà mà hắn giới thiệu là một y sĩ cách mạng của
bệnh viện xã. Cả hai ngủ với nhau ngay trong căn nhà mà cô đã đổ mồ hôi
lẫn xương máu xây dựng lên. Hắn hỏi cô còn vàng bạc thì đưa hắn làm vốn
để đi buôn thuốc Tây với người ta. Cô thừa hiểu hắn có biết một chữ
tiếng Tây tiếng U gì đâu mà đi bán thuốc Tây. Hắn lôi cô ngồi dậy và tra
hỏi, cô nói không có. Hắn đạp cô một cái thật mạnh vào bụng, rồi cả hai
rời căn nhà trong tiếng khóc thất thanh của mấy đứa con. “Năm đó con
mới khoảng 10 tuổi”, đứa con gái út 16 tuổi vừa khóc vừa kể khi qua đến
Mỹ.
Nửa tháng sau, vào một ngày gần cuối
năm 1996, cô vĩnh viễn rời xa cõi đời khốn khổ lúc vừa tròn 44 tuổi,
mang theo nỗi buồn u uất như từ tiền kiếp nào. Cô bỏ lại 5 đứa con bơ
vơ, chúng lớn lên hoang dã như cỏ dại. Ông nội mấy đứa nhỏ, ba hắn, qua
nhà nhìn thân xác cô con dâu nằm héo hắt trong quan tài, chỉ biết lắc
đầu khóc và than thở- “Con ơi, ba xin lỗi con”. Mẹ ruột cô, từ xa đến
khóc con, chỉ nấc lên nghẹn ngào- “Mẹ chưa đi, sao con lại ra đi trước
mẹ”. Và một ngôi mộ đất nằm buồn bã cô đơn bên hàng cau xơ xác ven sông ở
quê chồng.
Xóm giềng vẫn thấy hắn biền biệt ít
khi về nhà, đàn con tan tác, đứa quê ngoại, đứa còn lại, đói thì chạy
qua nhà nội. Người ta tự hỏi không biết hắn có bao giờ hồi tâm dù chỉ
một phút giây. Thật ra hắn có động lòng và băn khoăn, nhưng chỉ một
thoáng qua rất nhanh, rồi thôi. Hắn không có đủ thời giờ cho lương tâm
vì còn mãi chạy theo những phù du cuộc đời. Nhu cầu của hắn là thỏa mãn
cái mơ ước mà từ trước hắn chưa bao giờ có là được người khác nể phục và
được sống trong cái hào quang giả tạo của chính mình.
Từ ngày còn nhỏ cho đến bây giờ, hắn
luôn bị cấp trên sai bảo nên hắn cho rằng giờ là lúc hắn sai bảo lại
người khác. Hắn vẽ ra một tương lai tươi sáng. Hắn sẽ “vinh quy bái tổ”
về làng cho hàng xóm lác mắt, sẽ không phải đắn đo khi vung tiền ra
ngồi nhậu với bạn bè. Nhìn ánh mắt ngưỡng mộ của người dân xóm cũ khi
hắn đang thao thao bất tuyệt về đời sống lạ lùng bên này, lâu lâu xen
vào một câu tiếng Mỹ mà hắn đã cố học thuộc lòng, hắn thấy mình là người
có nhiệm vụ đem ánh sáng văn minh về cái xó nhà quê lạc hậu của hắn.
“Từ ngày có anh về, nhà mình ngập ánh
trăng thề”, nàng vô cùng hạnh phúc trên vùng đất mới, giờ đây cuộc sống
trở nên có ý nghĩa hơn, nàng chăm chỉ đi dự bất cứ buổi tiệc nào được
mời. Đi đâu, nàng cũng khoe ông chồng mới, đẹp trai, cao lớn, ít ra là
cao hơn nàng rất nhiều. Nàng nhờ người quen dẫn hắn đi xin tiền bệnh và
xin trợ cấp, nên hắn không phải đi làm ngày nào. Ăn nhậu, có nàng lo.
Nhưng ngửa tay xin tiền nàng hoài cũng kỳ, hắn xin đi theo một nhóm thợ
sơn nhà cửa người Việt, làm lấy tiền mặt khỏi khai thuế và không ảnh
hưởng đến việc ăn welfare. Việc của hắn là cạo sơn, chùi sạch, và chà
giấy nhám cho người khác sơn. Được mấy ngày, hắn đau lưng nhức mỏi, toàn
thân ê ẩm, hai cánh tay mỏi nhừ. Hắn lần lượt thử qua nhiều việc khác
và nhận ra không có công việc gì thích hợp với “địa vị” bây giờ của
mình. Thế là hắn bỏ cuộc, trở về với cái kiếp sinh ra dưới 1 ngôi sao
sướng, thân cư thê, ăn nhờ vào vợ.
Trong lúc mọi người lo học hành, tiến
thân, làm việc kiếm tiền trên xứ Mỹ, hắn tìm cách tiến thân trên bàn
nhậu. Trong bất cứ buổi tiệc nào, chiến thuật của hắn là bắt đầu quan
sát mọi người và lắng nghe như một nhà hiền triết để biết coi “cơ” của
họ ra sao rồi mới từ đó mà dệt nên câu chuyện đời riêng của mình. Khi
biết chắc trong đám bợm nhậu hay khách khứa, không có ai là sĩ quan ngày
xưa, hay hầu hết cỡ tuổi con cháu, hắn mới bắt đầu bằng phun ra một câu
chửi thề, tỏ rõ phong độ đàn anh, một câu nằm lòng quen thuộc như “ĐM,
hồi đó, mấy thằng đệ tử của tui mà lạng quạng, tui quýnh thấy mẹ…” để
gợi sự tò mò nơi người nghe. Đúng như hắn dự đoán, mọi người chăm chú
nhìn hắn như chờ đợi. Thế là hắn tha hồ bốc phét một tấc tới trời, bao
nhiêu bài bản trong bụng tuôn ra như suối, nói láo quá nhiều thành quen,
hắn dần yên trí mình ngày xưa vốn là một nhân vật quan trọng thứ thiệt.
Tửu nhập thì ngôn xuất, lúc cao hứng,
hắn tự cho mình là một tinh hoa của đất nước, một bậc kinh bang tế thế,
một đàn anh rộng lượng, khoan dung, biết nhìn xa trông rộng, yêu hòa
bình, sẵn sàng đứng ra hòa giải mọi người. Một hôm trong một tiệc sinh
nhật, trong số khách mời, có hai người đàn ông vốn xích mích nhau vì một
sự hiểu lầm. Thời gian tưởng đã xóa tan sự bất hòa giữa hai người. Muốn
tỏ ra ta đây là bậc “chính nhân quân tử”, hắn gõ vào ly và tuyên bố mọi
người nên nâng ly và chúc mừng hai người đã hòa giải với nhau. Hắn
trích dẫn những câu chuyện cổ trong Tam Quốc Chí mà hắn nghe lỏm được,
khoe làm thế nào hắn đã thuyết phục được hai người ngồi lại với nhau,
suýt tí nữa là có thể kết nghĩa “anh em vườn Xoài”. Cả hai người đàn ông
chưng hửng không hiểu tại sao và nếu không được can ngăn thì họ lại sẵn
sàng lao vào nhau ăn thua đủ.
Bình thường hắn chỉ dám tự nâng mình
lên cấp bậc Thiếu Úy, hay Trung Úy, khi cao hứng lắm là Đại Úy, rồi có
lúc không kiểm soát được cái “thần khẩu hại xác phàm”, hắn “tự sướng”
lên tới Thiếu Tá. Xấp nhỏ ngồi nhậu, nghe mà tròn xoe con mắt, không ngờ
mình được cái hân hạnh ngồi đối ẩm với một “ranh nhân”, một nhân vật
quan trọng của thời trước năm 1975. Hắn thả cho cái “tôi” đáng ghét của
mình chạy rông thoải mái như con ngựa không cương. Riết rồi chính hắn
cũng tin rằng mình thật sự là một sĩ quan cao cấp, chỉ vì sinh bất phùng
thời, nên đành phải ngồi… nhậu chờ thời trên đất nước tạm dung này, chờ
một ngày trở về quang phục đất nước.
Đi đêm có ngày gặp ma, người nói láo
thường không nhớ chính xác mình đã nói gì. Có thể nhiều người trẻ không
rành về cấp bậc trong quân đội trước năm 1975, nhưng họ biết suy nghĩ và
phân tích, tuy không tin, nhưng ngại không muốn đụng chạm nên họ ngồi
yên không nói. Lại có người vốn là cựu sĩ quan cao cấp, buồn vì mất
nước, họ thường không muốn khoe khoang, nhưng đương nhiên họ rất rành về
cấp bậc trong quân đội. Chỉ cần hỏi đơn vị cũ và vài câu liên quan, họ
có thể biết hắn là ai, đến ngày tan hàng, đã có thể lên tới cấp bậc gì.
Trong bàn nhậu, vài người bắt đầu mỉa mai kêu hắn là Trung Úy, kẻ thì
gọi Đại Úy với những nụ cười ẩn ý. Khổ một điều là hắn vẫn không biết
người ta móc họng mình. Chuyện đời thường, nếu cứ nói dóc hoài cũng
thành nghiện như nghiện rượu hay nghiện thuốc phiện, cái thói quen khó
bỏ được.
Hắn lê la ăn nhậu hết chỗ này đến chỗ
khác, đến nỗi người ta khinh, không muốn mời hắn nữa vì hắn chỉ xách đít
đến ăn, không bao giờ đem đến một xách bia hay một dĩa mồi. Các đệ tử
lưu linh dần xa lánh. Hắn đành phải ngồi uống rượu một mình và thầm rủa
bọn bợm nhậu không biết quý trọng một nhân vật tầm cỡ như hắn.
Một hôm, đứa con trai riêng của vợ hắn
ghé nhà chơi, thương tình mua cho vài xách bia và đồ nhậu. Hắn cảm kích
quá mới kéo nó ngồi xuống cạnh, uống với hắn vài lon và tâm sự cho đỡ
cô đơn. Hôm nay nó phải ở nhà, không buôn bán gì được vì cảnh sát đang
mở chiến dịch ruồng bắt đường phố rất gắt gao. Nó không đi làm hãng
xưởng nhưng xài toàn tiền mặt, giấy 100, mới tinh còn thơm mùi mực. Hắn
đoán nó có dính líu đến chuyện làm ăn bất chính. Hắn ra sức thuyết phục
nó cho hắn một chân lon ton giao hàng cũng được, hy vọng kiếm chút tiền
còm. Biết tính cha dượng hay nổ, nên nó không tin mà cũng không nói cho
hắn biết công việc nó đang làm.
Chán đời và chán cả người, hắn lại
tiếp tục ngồi nhậu và chờ thời. Cuối cùng, thời cũng đến với hắn. Đúng 5
năm dư 1 tháng, hắn nộp đơn xin vào quốc tịch. Vừa trở thành công dân
Mỹ xong, hắn nộp đơn xin ly dị nàng vì tự cho rằng hắn đã trả nợ đủ khi
phải sống với một “bà già” bèo nhèo, xấu xí trong 5 năm qua là một hy
sinh vô cùng to lớn mà hắn đã phải nín thở qua cầu.
Từ giã vùng Tây Bắc Mỹ, tránh cái
lạnh, tránh luôn người vợ 5 năm chăn gối, và tránh cả những bạn nhậu đã
không nhận ra “chân tài” của mình, hắn xuống một thành phố miền Nam để
sống cùng cô con gái, giờ này cũng đã có chồng và 1 con trai. Bổn cũ
soạn lại, hắn tiếp tục kiểu sống mòn như xưa, đi ăn nhậu, nổ, và sống
nhờ vào con gái và con rể. Lần này hắn cũng không gặp may vì anh con rể
cũng thuộc loại sinh ra và lớn lên cạnh “hãng pháo Gò Vấp”, nên nổ cũng
không kém bố vợ là bao nhiêu. Người ta thường nói một nước không thể có
hai vua, nên cuối cùng không ai chịu ai, hắn lại phải trở về miền Tây
Bắc sống nhờ tiền bệnh và tiền già.
Hắn “share” phòng cùng với mấy tên độc
thân trẻ tuổi cho đỡ tiền nhà. Ai mướn gì làm nấy, lấy tiền mặt, gom đủ
cái vé máy bay là vù về Việt Nam để rong chơi, để quăng tiền đô la vào
những nơi chơi bời rẻ tiền, cố níu kéo một chút huy hoàng khi còn kịp.
Những năm Việt Nam mới mở hé cửa, biết tâm lý nhiều bà vẫn mong 1 cái vé
qua sống bên Mỹ, hắn về nước cặp kè với những bà lỡ thời, hoặc chồng
chết mà có của ăn của để. Cái mác Việt kiều làm hắn trở nên đắt giá
trong con mắt các bà “chỉ đi mưa” mà chưa đi Mỹ.
Hắn in sẵn một chồng mẫu đơn bảo lãnh,
I-130, bằng tiếng Mỹ mà các bà ở Việt Nam, kể cả hắn, có đọc cả ngày
cũng không biết nó nói cái gì. Gặp bà nào, hắn cũng cứ hào phóng điền
tên họ vô tờ đơn một cách vô tội vạ. Hắn có mất gì đâu, ngược lại còn có
tiền do các bà cung phụng, cơm no bò cưỡi, lại rủng rỉnh tiền trong túi
tha hồ đi chơi bời, ăn nhậu, và nhất là tha hồ mà nổ tanh bành với các
người ngồi cùng bàn. Cứ nhìn ánh mắt thần phục của các bợm nhậu trong
nước nhìn hắn như một tín đồ nhìn vị giáo chủ là hắn đã sướng đê mê cả
người khi men rượu thấm vào từng mạch máu.
Cái mánh này kéo dài được một thời
gian, rồi cũng bể vì các bà cứ liên tục hỏi thăm giấy bảo lãnh đến đâu
rồi mà sao chưa thấy nhúc nhích gì. Hắn luôn miệng- “Anh đã nộp rồi,
phải cần thời gian chứ”. Rồi thời gian cũng phản bội hắn, các bà tẩy
chay hắn, hắn mò về vùng quê năm xưa, nối lại nhịp cầu đã gãy với bà y
sĩ đánh ghen dạo nọ. Có nơi ăn, chốn ở tại Việt Nam, hắn bay đi bay về
mỗi năm. Hắn hứa hẹn sẽ đem bà và đứa con trai của hắn qua Mỹ. Hứa mãi
cho đến khi đứa con trai giờ này đã hơn 20 tuổi, vẫn không chịu làm ăn
gì vì chờ chực cha bảo lãnh. Cuối cùng bà vợ hắn, phải bán ruộng vườn để
mua cho đứa con một chiếc xe vận tải nhỏ để làm sinh kế trong khi chờ
đợi.
Một buổi tiệc bất ngờ và đặc biệt tại
một nhà hàng trong chuyến về Việt Nam đầu năm ngoái mà vợ và đứa con
trai muốn dành một ngạc nhiên cho hắn. Cả hai vừa ngồi xuống, thì đứa
con trai đi cùng một cô gái và một cặp vợ chồng trung niên cũng bước vào
nhà hàng. Anh ta giới thiệu họ là cha mẹ vợ tương lai và cũng là ông bà
xui gia với hắn. Hắn hơi bất ngờ vì đứa con không hề nói gì trước,
nhưng bản chất lúc nào cũng muốn tỏ ra ta đây quan trọng, và để tỏ rõ
bản lĩnh của một ông bố Việt kiều bằng cách lên lớp đứa con trai một
trận trước mặt cha mẹ vợ, làm nó mất mặt. Nó buồn rầu và giận giữ, kéo
tay cô vợ sắp cưới ra khỏi nhà hàng và cả hai lên xe lái đi đâu mất
tiêu. Buổi tiệc trở nên bẽ bàng cho cả hai bên, họ nhìn nhau bối rối,
bên nhà gái không hiểu nổi điều gì vừa xảy ra.
Sáng hôm sau, người thân báo tin họ
tìm thấy thi thể đứa con trai của hắn nằm chết ở nhà người dì ruột, bên
cạnh là chai thuốc trừ sâu. Hắn bàng hoàng và sụp đổ. Sau đám tang, hắn
đổ bệnh và quyết định cắt ngắn chuyến đi để trở lại Mỹ.
Từ đó, hắn rơi vào trầm cảm, bệnh tật
liên miên: hết mổ lấy túi mật, rồi xơ gan sau nhiều năm rượu chè, trác
táng. Hơn 70 tuổi đời, nhìn lại mình vẫn tay trắng, không một mái nhà,
không một người bạn đời chung thủy chia xẻ ngọt bùi, cùng đi với mình
quãng đời còn lại; không một người bạn thân đúng nghĩa, với một cơ thể
đang teo tóp dần vì bệnh hoạn, hắn mới chợt nhận ra từ trước đến giờ
mình chỉ chạy theo ảo ảnh và hư danh. Cuối cùng, nhìn lại mình vẫn là
một con số không to tướng, chẳng có gì, và sẽ chẳng để lại được một di
sản gì cho dù là di sản tinh thần cho con cháu.
Những ngày ra vào nhà thương, sống nhờ
vào những người bạn trẻ tuổi chung phòng nấu cho ăn, chở đi khám bệnh
khi cần thiết, hắn nằm bất động trên tấm nệm vàng ố dơ bẩn trải trên nền
nhà trong một góc phòng, nhìn cuộc đời lặng lẽ đi qua trước mắt mà ngậm
ngùi. Hắn thấy tâm hồn mình sao vẫn trống vắng quá, cho dù hắn đã cố
lấp đầy bằng những toan tính, những cuộc vui, những ái ân thay đổi trong
cuộc đời. Hắn nhớ lại hình như cuộc đời mình bắt đầu rất trễ vào một
mùa Hạ vàng nắng ấm, kết thúc vào mùa Thu ảm đạm, rồi qua một mùa Đông
tê tái, và hắn thầm ước ao mùa Xuân ơi, sao hoài vẫn không đến.
Nguyễn Văn Tới. Tháng 5/2020.
Tưởng nhớ vong linh người chị yêu dấu.