Saturday, April 12, 2025

Những Vòng Xe Thương - Trầm Vân

Người Dũng Cảm

 

Tại xóm nọ có cặp vợ chồng trẻ mới cưới. Thời gian trôi qua, người vợ mang thai sinh được một trai.

Đưa vợ từ nhà hộ sinh về, anh chồng bị vợ mắng một hơi, không hiểu tại sao vợ mình lại nổi giận đến thế.

Vợ anh giải thích:

 - Anh nghĩ coi mỗi lần sinh đẻ tôi phải cực khổ như thế này. Tôi thề từ nay đến già tôi mà còn gần gũi với anh nữa thì súng đạn sẽ ăn tôi ! 

Sáu tháng sau, anh chồng vẫn không dám đụng chạm đến vợ vì sợ vợ mình phải chết do súng đạn. 

Bỗng một đêm, trong lúc ngủ say, anh chồng giật mình vì có người chui vào mùng mình.  

Anh nạt lớn:

- Ai đó ?  

Cô vợ trả lời:

- Em !

- Em là ai ?

- Em là người ... không sợ súng đạn 


From Kim Hoa Bà Bà 

Tôi Đi Lính - CSVSQ Vũ Ngọc Linh

 

Cái thuở mà quốc lộ 1 được gọi văn hoa là “con đường cái quan” hay còn gọi là quan lộ. Tính từ sông Bến Hải (vùng phi quân sự) ta có thể đi dọc suốt 1 lèo qua các đèo Hải Vân, đèo Cả, tỉnh Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng... vào tới miền Nam VNCH. Rồi từ thủ đô Sài Gòn ta cứ phom phom đổ xuống miền đồng bằng ruộng lúa phì nhiêu cò bay thẳng cánh tôm cá đầu đồng. Ấy là ta đi xe đò, còn nếu ta đi xe lửa thì vẫn theo thiết lộ Bắc -Nam, tới Sài Gòn, ta đi về Mỹ Tho hay tới Phan Rang ta đi xe lửa có răng cưa lên Đà Lạt. Thậm chí ta còn dùng quốc lộ 1 bon bon tới Nam Vang, thủ đô của nước Cao Miên láng giềng của chúng ta. Thoải mái ung dung tự tại, của một “non nước hữu tình.” Cuộc sống êm đềm, trong cảnh đất nước thanh bình, chính phủ vì dân mà lo cho dân sao cho có một cuốc sống sung túc, phát triển về mọi mặt. Cho đến một hôm:

“Vài hàng gởi anh trìu mến, vừa rồi làng có truyền tin,

nói rằng nước non đang mong, đi quân dịch là thương nòi giống....”

Cho tới bây giờ thú thật, tôi cũng quên mất tên tác giả lẫn nhan đề bài hát nhưng mục đích của bài hát là có ý khuyến khích tuyên truyền cho tầng lớp thanh niên đang sống trong một quốc gia pháp trị tới tuổi hiến định (21 tuổi) thì tự nguyện thi hành quân dịch, nghĩa là... đi lính. Đi lính mà tươi cười, vui vẻ lại lâu lâu có các em gái hậu phương chờ đợi. Nuôi tằm dệt vải hay nương rẫy vườn tược ngày ngày chờ đợi anh trai tiền tuyến sau một vài năm đi quân dịch trở về mái nhà xưa sum họp trong cuộc sống thanh bình êm ả. Lãng mạn, thơ mộng quá đi chứ các bạn??

Tuy nhiên, đất bằng dậy sóng. “Tạo hóa gây chi cuộc hí trường.” Hàng ngày từ các phương tiện truyền thông của chính phủ VNCH đã bắt đầu đưa tin chiến sự đó đây tuy không lớn và sôi động lắm. Chẳng hạn như lâu lâu có tin Việt cộng đắp mô chỗ này chỗ nọ,chặn đường đặt mìn, phá thiết lộ, giật sập cầu... Các đài phát thanh trổi những điệu nhạc quân hành, ca khúc chiến đấu...

Dầu vậy, tôi vẫn ngày hai buổi tới trường, yên ổn sống trong một ngôi làng nửa quê nửa tỉnh ven đô thành Sài Gòn. Thỉnh thoảng anh em bạn bè họp nhau bàn qua tính lại bèn khăn gói đồ đạc balô đeo vai leo lên con ngựa sắt đạp xe vô rừng cao su cách nhà chừng hơn chục cây số để cắm trại với nhau, ca hát nô đùa trong vài ngày cuối tuần. Hồn nhiên vô tư lự, thoải mái vô cùng. Tưởng chừng như chung quanh mình chỉ còn ta với chim muông cây cối. Thiên nhiên hào sảng cho ta sự trong lành, tươi mát. Ôi cuộc sống sao mà thần tiên thế ru. 

Cách nhà tôi khoảng vài cây số, có một trại lính thành lập lúc nào tôi không rõ, lính gì tôi cũng không hay nhưng cứ đến đêm khi lũ trẻ con chúng tôi lên leo giường ngủ thì từng đoàn quân tập trận di chuyển qua nhà chúng tôi. Họ vừa đi, súng ống chạm nhau lạch cạch, vừa hát. Nay tôi còn nhớ được bài hát có lời như sau: “Tiến quân lên đoàn cọp biển oai hùng, lính mũ xanh đây người trai anh dũng...” Sau này tôi được biết là trại lính đó là trại huấn luyện của Thủy Quân Lục Chiến được bàn giao lại cho 1 đơn vị Biệt Động Quân và họ dời lên căn cứ Sóng Thần. Chả thế mà tôi chứng kiến các lớp đàn anh trong xóm tôi lớn lên hầu hết đều tình nguyện đi lính Thủy Quân Lục Chiến.

Tình cờ một hôm có ông chú ở tuốt trên Bảo Lộc ghé qua nhà tôi chơi, trong bữa ăn, tôi nghe loáng thoáng đâu như là chú tôi tạt qua để chào từ giã anh chị và các cháu để đi... quân dịch. Chú có vẻ lo lo, anh em tôi bàn tán xôn xao còn bố tôi bình thản “phán” 1 câu xanh rờn:

– Chú cứ yên tâm, đừng lo gì cả, vào lính người ta lo cho chú hết mọi sự, sống tập thể cho nó quen đi. 

Số là bố tôi gốc từ quân đội sang, ông kể là đã từng làm đại đội phó khi ông Nguyễn Bảo Trị là trung úy đại đội trưởng (sau này ông Nguyễn Bảo Trị lên tới trung tướng). Bố tôi giải ngũ rất sớm, trở về dân sự làm công chức của Bộ Y Tế. Nhưng vì gốc quân đội nên ông lại biệt phái cho Cục Quân Y, làm việc ở một quân y viện gần nhà. Bố tôi nói tiếp:

– Bất quá chú đi lính vài năm rồi giải ngũ, về nhà lấy vợ (chú tôi còn độc thân). Còn lũ Việt Minh (ông quen gọi bọn VC là Việt Minh), chẳng qua chúng nó chỉ như bọn chó cắn trộm, có vài ba cây súng mút cơ tông, cắc bọp vài ba tiếng vu vơ rồi trốn chui trốn nhủi như lũ chuột nhắt ấy mà!....

Thế là chú tôi lên đường nhập ngũ, ông đi lính như thế nào sống ra sao, đóng quân ở đâu anh em chúng tôi chẳng ai hay. Chỉ một lần bưu điện mang tới nhà tôi một phong bì của chú trong đó có hình chú tôi chụp đang đội nón sắt, vai mang balô lại còn cây súng đeo trên vai. Trông oai ra phết. Với vài hàng ghi chú là chú sắp tới ngày giải ngũ rồi. Tôi tính ra là từ ngày chú từ giã gia đình tôi ra đi tới nay mới có gần 2 năm chứ mấy. Hỏi bố tôi thì ông bảo là đi quân dịch có 2 năm thôi là giải ngũ, về làm dân tha hồ làm ăn chẳng ai phiền hà mình chi cả. Nhưng sao hơn 2 năm rồi mà chú tôi vẫn chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Rồi chẳng ai quan tâm tới việc chú tôi có còn ở quân ngũ hay không thì bỗng nhiên chú tôi như ở đâu hiện ra có vẻ như bí hiểm và có vẻ gì hơi là lạ không bình thường. Trong bữa cơm, chú tôi cho bố mẹ tôi biết là:

– Sau khi tình nguyện đi lính gọi là đăng lính đi quân dịch 2 năm theo như luật định, em ở trong quân đội tới gần 3 năm, thấy chẳng nói năng gì, người ta bắt em phải tái đăng. Em không chịu, cho là chính phủ không giữ lời hứa, bất tín. Mà chính phủ bất tín thì em tự quyết định lấy cuộc đời mình. Có nghĩa là em tự ý bỏ về ra khỏi lính luôn.

Bố tôi bảo:

– Như thế là chú đào ngũ rồi đó chú có biết không?

Chú trả lời:

– Em chẳng cần.

Bố tôi là người luôn luôn tôn trong luật pháp nên ông khuyên chú tôi nên ra đầu thú chớ không thì phiền hà lắm. Chú tôi ừ hử cho qua rồi ngày ngày ở nhà tôi bày cho anh em chúng tôi nhiều trò chơi mới lạ, kể cho anh em chúng tôi những sinh hoạt của chú trong quân ngũ. Một hôm, bố tôi đi làm về với 1 xe jeep chung với mấy ông lính khác, mọi người vào nhà tôi thì thào to nhỏ gì với nhau một lúc thấy chú tôi ra xe rồi một làn bụi đỏ cuốn theo xe mang theo chú tôi.

Vẫn theo bố tôi thì chính bố tôi gọi quân cảnh tới điệu chú tôi đi... ra tòa vào quân lao. Vài tuần sau anh em tôi lại thấy ông xuất hiện thoải mái vui vẻ cười nói huyên thuyên cho biết là khi xe quân cảnh chở chú tôi tạm giam vài bữa trong quân lao rồi ông ra tòa được tha bổng. Trở về dân sự, ông quay về Bảo Lộc lập gia đình có con và làm ăn coi bộ khấm khá. Nhưng, vẫn là nhưng, có lẽ do lòng nhiệt thành với non sông đất nước, ông tình nguyện nhận chức phó xã trưởng đặc trách an ninh. Vào ngày bầu cử Quốc Hội Lập Hiến 1966, trong khi đi tuần giữ an ninh cho các phòng phiếu, ông bị bọn Việt Cộng phục kích bắn chết. Nghe tin chú tử trận, bố tôi buồn một thời gian khá lâu vì ông rất thương chú tôi, có lẽ vì tánh chú tôi rất vui vẻ hòa nhã, thắng thắn bộc trực.

Các biến động và xáo trộn chính trị ở miền Nam VNCH kéo theo giấc mộng xâm lăng nhằm xích hóa (nhuộm đỏ) cả nước nhất là miền Nam của bọnCSBV khiến cho đất nước ngày càng phân hóa, bất ổn, lòng dân ly tán.

Trên trang nhất của các nhật báo ở miền Nam thì tin chiến sự đó đây từ vùng phi quân sự, cao nguyên trung phần cho đến vùng đồng bằng sông Cửu Long bao giờ cũng chiếm hàng đầu, tin trận đánh lớn, trận đánh nhỏ. Sự xâm lăng mở rộng chiến tranh ở miền Nam của bọn CSBV được hệ thống CSQT đỡ đầu khiến Hoa Kỳ và các nước đồng minh như Đại Hàn, Úc, Tân Tây Lan, Thái Lan... gởi quân đội sang tham chiến bên cạnh các đơn vị QLVNCH.

Gia đình chúng tôi tuy sống ở ven đô nhưng hàng ngày vẫn chứng kiến đủ loại máy bay quân sự bay nườm nượp trên trời. Cho nên anh em chúng tôi bèn có cái trò sưu tập các loại máy bay quân sự. Cho nên khi chiếc nào bay ngang qua, hầu như chúng tôi có thể nói vanh vách ra tên nó là loại nào (từ trực thăng, phản lực, vận tải...). Đêm đêm tiếng súng lớn nhỏ từ xa vọng về làm người thành phố giật thót mình chợt bàng hoàng khi nghĩ tới những người thân của mình ở tuyến đầu xa xôi nơi chiến trường kia đang phải đối đầu với cái chết trong từng gang tấc. Không biết làm gì hơn mà cũng không dám nghĩ xa hơn. Có những lúc nhà cửa trong thành phố nhất là những nhà nào có cửa bằng kính chợt rung lên từng chập từng hồi bởi những đợt oanh kích của các pháo đài bay B52 tại các mật khu.

Riêng anh em chúng tôi vẫn an tâm ngày hai buổi đến trường mài đũng quần. Tuy nhiên từ các phương tiên truyền thông như đài phát thanh, truyền hình, loa phóng thanh... phát đi những bản nhạc chiến đấu, nhạc hùng nhiều hơn. Đài truyền hình chiếu các phim thời sự (chiến trường), phim chiến tranh nhiều hơn khiến bọn học sinh sinh viên chúng tôi cảm thấy không khí chiến tranh đến gần, đe dọa chết chóc quanh quẩn đâu đây. Góp phần vào những xáo trộn sẵn có, lâu lâu lại nghe tin bọn VC hay khủng bố pháo kích vào thành phố vào trường học làm người thành phố bắt đầu phải đào hầm chống pháo kích, làm hầm trú ẩn trong nhà khi có bom rơi đạn lạc. Bọn khủng bố cũng đã đặt chất nổ phá hoại một số building, công sở. Lũ phản chiến xách động biểu tình, đòi đình công bãi thị. Rồi phong trào này, tổ chức nọ ra tuyên cáo tuyên bố lung tung beng, yêu sách này yêu sách nọ. Phải chăng sống trong một đất nước có dân chủ, nhân bản được tôn trọng người ta mới dám có những hành động công khai như thế chăng? Trong không khí xáo trộn rối ren như thế, thử hỏi làm sao đất nước phát triển cho nổi, anh chị em SVHS chúng tôi có yên tâm học hành được chăng?

Dầu vậy, tuổi hoa niên bao giờ cũng vẫn đầy nhiệt tâm. Thấy đó lại quên đó, nên lâu lâu chúng tôi vẫn lại balô gậy gộc cuốc xẻng nồi niêu xoong chảo... cùng với con ngựa sắt và vài chục anh em đồng trang lứa rời thành phố ồn ào bụi bặm, đạp xe tới khu rừng nào đó còn yên tĩnh chưa bị không khí chiến tranh đe dọa. Họp nhau cắm trại, ca hát, múa may vài ngày. Khi con em binh sĩ trong các trại gia binh được đoàn ngũ hóa, tổ chức sinh hoạt theo phương pháp giáodục của phong trào Hướng Đạo thì chúng tôi lại được mời vào giúp các em sinh hoạt tập thể: ca hát, nhảy múa, học hỏi kỹ năng chuyên môn, sống ngoài thiên nhiên trong độ tuổi của các em.

Trong lúc bạn bè cùng trang lứa ngày đêm miệt mài gạo bài, ưu tư vì sợ thi rớt phải đi lính theo lệnh tổng động viên của chính phủ và Bộ Quốc Phòng, thậm chí còn có 1 Tổng Nha Động Viên được thành lập để thông tin, cổ võ, vận động cho việc đi lính hay các điều kiện được hoãn dịch vì lý do học vấn, gia cảnh, tu sĩ... kể cả các điều kiện gọi nhập ngũ theo học các khóa hạ sĩ quan hay sĩ quan. Thấy tôi hay khoác bộ đồng phục Hướng Đạo để đi sinh hoạt hay đi cắm trại, tụi nó hay hỏi:

– Ê! Vậy chứ mày đi HĐ có được hoãn dịch không?

Tôi hơi sững người một chút rồi cười cười đáp lại:

– Chẳng những không được hoãn dịch mà nếu được gọi động viên thì còn mau mau đi cho... lẹ.

Tụi nó chẳng hiểu cái mô tê gì ráo trọi còn nói là vậy thì đi HD làm gì cho mất thời gian, tốn tiền, không có giờ học bài... mà tôi nghĩ cũng chẳng rỗi hơi đâu mà giải thích dài dòng khi người ta coi đi lính như một sự đày ải, đe dọa, chết chóc... mà quên hoặc cố tình không biết rằng bổn phận người trai thời loạn nó cao cả thiêng liêng vô cùng. Dĩ nhiên gian khổ, thiếu thốn là chuyện phải có.

Nói thì “ngon” vậy đó nhưng thú thật tôi vẫn chưa biết đời lính nó như thế nào mặc dầu sách báo, âm nhạc tiểu thuyết, các phương tiện truyền thông nói tới hà rầm. Cả các lớp đàn anh, bạn bè trong xóm đã đi lính trước một thời gian, gặp nhau kể đủ thứ chuyện đời lính, chuyện chiến trường. Nhưng tôi nghe tai này lọt sang tai kia rồi quên tuốt luốt. Có lẽ “đoạn trường ai có qua cầu mới hay.” Vào lúc các kỳ thi, lo cắm đầu cắm cổ học miệt mài, chui vào thư viện quên giờ quên giấc quên ăn quên ngủ. Đến nỗi quên cả giờ hẹn hò với mấy cô bạn gái. Song song với sinh hoạt diễn ra hàng ngày tôi thấy các lớp đàn anh, bạn bè trong xóm thưa dần. Lâu lâu thấy có người xuất hiện mặc bộ quân phục rằn ri hay màu xanh kaki có cả quân phục Hải Quân, Không Quân nữa. Họ đội nhiều loại mũ nón khác nhau: nâu, đen, xanh lá cây, đỏ, mũ lưỡi trai, casquette...Có cả một loại nón rộng vành mà người ta gọi là nón vải đi rừng hay còn có người còn gọi là nón bo. Tôi cũng chẳng để ý làm gì. Chỉ lo miệt mài đục nhau với mấy cuốn sách.

Đùng một cái, bọn CSBV lại vượt sông Bến Hải xâm lăng miền Nam VN, chúng mở các mặt trận lan rộng như Quảng Trị, Kontum, Bình Long vào mùa hè đỏ lửa 1972...Thế là chính phủ (cả Quốc Hội lẫn hành pháp) ra lệnh đôn quân. Bọn tôi trong hạn tuổi luật định: đậu rớt gì thì cũng đi lính; trong giới SVHS chúng tôi hay nói với nhau như vậy. Tuy nhiên vẫn có những luật trừ theo những thông tư thông báo, nghị định của chính phủ để được hoãn dịch như hoãn gia cảnh, tôn giáo, học vấn... Sau này tôi mới khám phá ra nhiều cơ sở tôn giáo lợi dụng kẽ hở của luật pháp mà chứa chấp khá nhiều thanh niên trốn quân dịch, từ sống bất hợp pháp mà trở thành sống hợp pháp trong đó không loại trừ nhiều thành phần bất hảo trà trộn vào. Đó là chuyện về sau.

Theo lệnh gọi của Nha Tổng Động Viên và Bộ Quốc Phòng thì tôi phải trình diện nhập ngũ vào tháng Tám, 1972. Khi chiến cuộc lan rộng, bố tôi còn bảo là tới khi thằng Linh mà phải đi lính thì chắc hết thanh niên rồi. Tôi hiểu chẳng qua cũng chỉ vì ông ưu tư và lo lắng cho tương lai vận mệnh của con cái mà thôi. Còn mẹ tôi thì hàng ngày bà cứ cầu nguyện với Đấng Tối Cao, với ơn trên ban cho đất nước được thanh bình,con cái bà sống trong yên ổn. Có điều thỉnh thoảng thấy có vài chiếc xe nhà binh (GMC) chở chiếc quan tài phủ lá cờ quốc gia trên đó chạy vòng vòng. Trong xóm có vài anh đi lính tử trận được mang xác về mai táng, thấy lính tráng tới kèn trống, làm lễ truy điệu rất là trang trọng uy nghi. Các điệu nhạc nghe thấy nổi cả gai ốc nhưng rất cảm động.

Đồng thời với những hoàn cảnh trên, tôi thấy có nhiều gia đình bạn bè cùng trang lứa mà thân nhân của họ có địa vị, chức quyền, tiền bạc thế lực. Họ lo cho con cái họ thoát khỏi đi lính bằng cách sắp xếp cho chúng nó xuất ngoại, đi du học, mặc dầu nhiều đứa dốt như con lừa. Mà sau này chính một số không nhỏ những thành phần đó có khuynh hướng thiên Cộng, chúng nó đã có những hành động đâm sau lưng chiến sĩ. Lịch sử đã cho thấy rõ bộ mặt đểu cáng của chúng nó.

Sắp tới ngày trình diện, tôi tới từ giã cô bạn gái để đi... lính. Nàng hỏi một câu rất là con gái:

– Thế anh đi lính mấy tuần rồi về hả?

Tôi chẳng biết trả lời ra sao cho ổn thỏa, chỉ nói trớ:

– Theo như luật định thì anh được gọi và xếp vào tài khóa sĩ quan, có lẽ sẽ học ở Thủ Đức. (Lúc này tôi còn chưa biết là có khá nhiều khóa đào tạo sĩ quan QLVNCH học ở trường Đồng Đế, Nha Trang).

Nàng nhận xét rất là ngây thơ:

– Ơ, nếu anh là sĩ quan thì có xe díp, có tài xế riêng lái xe cho mình. Thế nào em cũng được đi theo anh nhiều nơi. Mà học có cực lắm không anh? Em nghe nói sĩ quan các anh nhiều đào lắm phải không? Hết cô nọ tới cô kia phải không? Nhớ đừng có lôi thôi à nghen!

Tôi ú ớ với một lô một lốc câu hỏi của nàng, chỉ ậm à ậm ừ cho qua truông vì trường đời mình có biết cái quái gì đâu, quanh năm suốt tháng chỉ biết lo học và đi cắm trại. Tôi chỉ nói ít lời từ giã, chẳng nhắn nhủ gì chỉ nhắc là cứ nhớ tới nhau, nếu có địa chỉ thì viết cho nhau vài lá thư. Có vậy mà nàng thút thít sụt sùi một thôi một hồi làm tôi cứ đực mặt ra như... trời trồng.

Với các em Sói con và HĐS tôi đang sinh hoạt thì một buổi lễ tiễn biệt chia tay khá là thân mật và cảm động. Có em chạy lại ôm cứng lấy tôi làm như tôi sắp biến mất trên cõi đời này không bằng.

Rồi ngày đi cũng phải tới. Hôm trước khi đi tôi còn nghe nói đâu như là vì gọi nhập ngũ nhiều quá, các quân trường sĩ quan không đủ chỗ huấn luyện, chỉ đi trình diện rồi lấy phép về nhà chơi 45 ngày, sau đó chưa có tài khóa lại tiếp tục 45 ngày phép nữa. Mà lại có lương nữa chứ. Ơ hay, sao “đã” quá thế? Thôi thì tới đâu hay tới đó. Tôi ngồi nói chuyện lai rai tâm sự với các em, lấy cái giỏ, bỏ vào đó vào cuốn sách, một cuốn sổ tay, bàn chải và kem đánh răng. Mẹ tôi lo lắng đi ra đi vào, lấy hết cái này cái nọ. Nào là quần áo, chai dầu gió, cái lược... Bà cứ tất tưởi mà buồn rười rượi. Bố tôi luôn luôn ngắn gọn: “Đưa cho nó ít tiền tiêu vặt, vào quân đội nó trang bị cho mọi thứ, không phải lo.” Mà y như rằng, không sai một ly ông cụ nào. Có một vật bất ly thân của mấy anh con trai đó là cái lược, khi vào lính, nhất là ở quân trường tóc hớt có hai phân thì cái lược nó thất nghiệp.

Vì cư ngụ ở tỉnh Gia Định, tôi đi xe lam tới Phòng Tuyển Mộ và Nhập Ngũ Gia Định để trình diện, tưởng sẽ bị hạch hỏi điều tra này nọ. Nhưng không, chỉ đưa cái thẻ căn cước, bản sao văn bằng cao nhất (tú tài hay các chứng chỉ đại học) thẻ lược giải cá nhân. Thế là xong, nghĩa là đã trình diện nhập ngũ, người ta lấy giấy tờ của tôi, hí hoáy, đánh máy một lúc rồi trả lại tôi cái thẻ căn cước. Sau đó tôi thơ thẩn trong khu vực của Phòng Tuyển Mộ. Đồng thời cũng thấy có vài anh trạc tuổi ngơ ngác vào làm những việc y như mình. Thì ra họ cũng đi trình diện nhập ngũ với tài khóa sĩ quan như tôi. Để làm quen và cũng đỡ bỡ ngỡ, hỏi thăm nhau, chẳng thằng nào biết hơn thằng nào. Cho tới bây giờ, tôi chỉ còn nhớ 2 thằng, một là Đỗ Đình Nguyên sau này nó là thủ kỳ của ĐĐ 81 A ở Tiểu Đoàn Gia Long và cũng là thủ kỳ ĐĐ 31 ở Thủ Đức vì anh chàng này vừa to con vừa cao lớn. Một trự nữa là Phạm văn Chinh sau này nó đi diễn hành ngày quân lực ngay bên cạnh tôi. Lúc này mới có 10 giờ sáng. Thỉnh thoảng tôi thấy có chiếc xe díp của cảnh sát đậu xịch lại, bước xuống có một thầy đội áp giải một thanh niên 2 tay bị còng trước mặt, mở còng. Họ vào văn phòng làm thủ tục gì đó rồi có người dẫn độ anh chàng kia vào một cái phòng nhốt trong đó, khóa kín cửa lại. Thấy trong đó lố nhố dăm ba người. Hỏi ra đó là những thanh niên trốn quân dịch hay bất phục tùng bị cảnh sát bắt giao cho quân đội để đi lính.

Tới trưa, anh em chúng tôi được mời vào phòng, được dọn cho mỗi người 1 bữa ăn trưa gồm đĩa cơm trắng, trứng vịt chiên, vài lát cà chua, vài cọng rau xà lách và một trái chuối tráng miệng. Phải chăng đây là bữa cơm đầu tiên trong đời lính? (Sau này ở ngoài trận địa, nơi giữa cái sống cái chết cận kề nhau, được như vậy là thần tiên). Quanh quẩn một hồi, tới xế chiều có một cái xe GMC trờ tới trước cái phòng có nhốt người. Những người ở bên trong được gọi ra trước, ngồi bệt xuống sàn xe. Tôi đếm được 14 mạng. Còn bọn tôi, được gọi là tài nguyên sĩ quan có 7 mạng cũng được gọi từng tên nhưng leo lên xe ngồi chễm chệ trên ghế (đúng là quân đội có giai cấp), 2 anh lính áp tải ôm súng ngồi sau cùng. Xe chạy lòng vòng qua những phố xá nhộn nhịp, đầy ắp xe cộ như mắc cửi. Tự nhủ trong lòng, thôi nhé từ nay hết bay nhảy, thư viện, giảng đường, hẹn hò, dung dăng dung dẻ... Một hồi thấy cái bảng Trung Tâm 3 Tuyển Mộ và Nhập Ngũ, chuyến xe định mệnh lăn bánh vào bên trong. Không biết thiên hạ làm cái trò trống gì trong văn phòng, bọn tôi được gọi xuống trước, nhìn xung quanh, thấy lố nhố những người là người. Ở đâu ra mà nhiều thế? Mà cái trại tôi được đưa vào chỉ toàn là thành phần tài nguyên Sĩ Quan không thôi. Chúng tôi được phát cho mỗi đứa một cái túi vải gọi là sac-marin, một cái muỗng, một cái khay có chia dăm ba cái ô nhỏ để đựng cơm và đồ ăn. Đi đâu cũng kè kè tha theo vì sợ... mất cắp. Mọi cái đều lạ lẫm, ơ hơ thế ra cuộc đời lính của mình bắt đầu như thế này ru? Buổi tối, vì không biết cơm lính như thế nào? Ăn ở đâu? Có ai dọn ra cho mình ăn không? Lớ ngớ như mán về thành, đành nhịn đói. May có ít tiền trước khi đi mẹ tôi dúi cho, hỏi thăm xuống câu lạc bộ mua đại ổ bánh mì nuốt cho đỡ đói, kiếm nước ở robinet, nước chảy như mèo đái lại có mùi rỉ sét thấy mà lợm giọng. Tìm đại chỗ ngủ qua đêm. Do đi cắm trại nhiều năm quen rồi nên đi đâu tôi cũng thủ sẵn cho mình một cái võng, tiện đâu mắc lên đó, kiếm chỗ cột lại là... có chỗ ngủ rồi một giấc ngủ chập chờn không dám mơ thấy nàng.

Vì lạ chỗ, trằn trọc hoài trên võng ngủ không được thì kẻng báo thức vang lên từng hồi. Lồm cồm ngồi dậy, dọn dẹp sơ sơ rồi đi kiếm chỗ giải quyết vệ sinh.Ôi thôi! Trong đời tôi gặp nhiều thứ nhà cầu, đi giúp các trại tỵ nạn cũng nhiều nhưng chưa có chỗ nào mà vừa thấy là tôi liền... đánh bài tẩu mã, nín tất cả mọi sự. Rồi lại tập họp, ông thượng sĩ già gom lại một khối, gọi đi làm vệ sinh nhà cầu. Đứa thì đi, đứa thì lảng ra. Ông ta la:

– Các anh làm vệ sinh cho các anh chứ có đem các anh ta xử bắn đâu mà trốn với tránh!?

Ở gần khu vệ sinh có mấy cái hồ nước dù nước chảy như... đái, nhưng lâu dần thì cũng đủ để dội những thứ cặn bã tống khứ chúng nó đi, bọn tôi gọi nôm na là... thụt dầu hay lái phi thuyền. Chẳng hiểu những từ ngữ lóng liếc này ở đâu ra, có từ hồi nào!

Lại tập họp, lần này là tập họp khám sức khỏe. Thú thật là tôi chưa bao giờ thấy phe ta khám sức khỏe cho tân binh (thanh niên) vừa nhanh vừa hiệu quả vừa đắc dụng như ở TT3 TM & NN. Cái hàng rồng rắn đi từ phòng chụp hình (làm thẻ căn cước quân nhân) đến chụp hình phổi rồi khám tổng quát... Chỉ đi không thôi cũng đủ hoàn tất. Tôi cũng không kịp coi người ta chụp hình ra thế nào, cái số quân mình có nó được thiết lập ra sao!! Vậy mà xài cho suốt đời lính, sau này nữa, không lầm lẫn với ai. Đang chờ tới phiên chụp phổi thì thấy có người gọi tên: “Linh, Linh,” quay lại thì ra thằng bạn trong xóm nó thi rớt Tú Tài 1 mấy năm trước. Nay khoác áo quân y, nó nói là nếu tôi muốn hoãn dịch vì lý do sức khỏe, đưa cho nó ($) nó sửa hình phổi cho. Tưởng gì, thì ra một trò tham nhũng hối lộ, nhìn cái bản mặt câng câng của nó, chỉ muốn đấm vào mặt nó mấy cái cho bõ ghét. Xung quanh cái nhà chụp hình phổi, người ta phơi phim phổi như phơi quần áo đợi cho khô.


Trong khi đứng xếp hàng, vì là tài nguyên sĩ quan được xếp đứng chung với nhau, bọn tôi nghe đồn với nhau là Thủ Đức thì không còn chỗ, Đồng Đế thì cũng chật luôn. Chắc người ta cho mình về 45 ngày phép chờ tài khóa hay là xuất ngũ... Chưa biết số phận bọn tôi đang ở đây được định đoạt ra sao. Tới lúc khám tổng quát, thấy mấy hàng trước cứ tồng ngồng như ông A-Dong, ngượng và mắc cỡ chín người. Ông bác sĩ còn nạt:

– Các anh đã vào đây còn bày đặt mắc cỡ.

Mấy cô nữ trợ tá ngồi ở mấy cái bàn gần đó mặt tỉnh bơ, có lẽ họ quen quá rồi. Cứ ngồi ôm mớ quần áo sau khi đã thoát y, đi ngang qua ông bác sĩ (không còn nhớ vị nào) ổng lấy cái ống nghe (stéthoscope) chấm chấm vào ngực từng thằng có lẽ không tới 5 giây đồng hồ một trự. Có anh thắc mắc nói là bác sĩ chưa đeo ống vào tai, ổng trừng mắt rồi nạt:

– Anh biết gì mà thắc mắc?

Thế là nín khe. Sau đó là một màn chim bay cò bay. Giơ chân giơ tay, lão đốc còn lấy cái que bật vào “bộ tư lệnh” đã làm vài đứa ôm hạ bộ nhăn nhó. Tuy nhiên anh nào khiếu nại về sức khỏe (thiếu ngón chân ngón tay hay gì gì đó...) thì đứng riêng ra một bên chờ tái khám. Sau màn khám tổng quát hầu hết hồ sơ chúng tôi được đóng con mộc đỏ chói: ĐSK (Đủ sức khỏe). Bọn tôi chân biếm là ĐỜI SẼ KHỔ, mà y như rằng.


Coi như xong màn nhập môn, giải tán chờ ăn cơm trưa. Xuống nhà bàn (nhà ăn), nhìn xung quanh là thấy “no” luôn. Nuốt gì nổi khi cá mối có mùi thum thủm, mùi đồ ăn lưu cữu từ bao nhiêu lâu, v.v... Bèn ra câu lạc bộ cho xong. Lại đồn thổi là sẽ có phép 45 ngày, chờ lãnh phép về vì bây giờ mình là lính rồi mà... Tới xế xế, khoảng 3 giờ chiều còi tập họp nhận giấy phép. Giấy phép đâu không thấy, đồ đạc khiêng ra, quân phục, giày vớ nón vải balô khăn mặt..những thứ cần thiết cá nhân của một người lính được đem ra cấp cho chúng tôi.Cả mấy trăm mạng xúng xính trong mớ quần áo rộng thùng thình. Lập tức có ngay những ông quân nhân cơ hữu tốt bụng đã sẵn sàng đổi một số quần áo cho bạn vừa vặn với cơ thể bạn, mà bạn chỉ phải trả một số tiền túi cũng không gì là quá đáng. Bao giờ xung quanh xác chết cũng có bầy kên kên và hyana. Được biết vào giờ phút chót giấy phép bị hủy bỏ, mà chúng tôi sẽ được cấp phát quân phục sang TTHL Quang Trung học giai đoạn 1 tài khóa Sĩ Quan khóa 8/72.


Nghe thì biết vậy thôi chứ bây giờ ai bảo sao, lệnh phán như thế nào thì cứ răm rắp đố có đứa nào dám có ý kiến. Một đoàn xe GMC (sau này mới biết là thiên hạ goi là Gái Muốn Chồng) tiến vào, leo lên. Đoàn xe trực chỉ trại Nguyễn Tri Phương. Là trại chuyển tiếp trước khi chính thức trở thành anh tân binh hay được gọi là Dự Bị Sĩ Quan.

Những anh đã từng học qua khóa huấn luyện Sinh Viên Học Đường thì họ có kinh nghiệm hơn bọn lính mới tò te chúng tôi. Tuy nhiên rồi đâu cũng vào đấy cả.

 

CSVSQ Vũ Ngọc Linh

Nguồn FB

Áo Dài Ba Miền Việt Nam Và Thơ - Nguyễn Duy Phước

Quốc Thể Cho Ai? - Nguyễn Tiến Tường


1. Thi thoảng nhìn tấm khăn len trên vai người con gái Việt ở miền Nga giá buốt, nghe một điệu hát quê hương bên ánh lửa xứ Lào, lòng tôi rức lên một cảm xúc hỗn mang.

Tôi vui vì đồng bào tôi tìm được một nơi cho họ một cuộc sống khác. Tôi cũng buồn, trong mắt của những người viễn xứ luôn có điều gì đó buồn bã, tiếc nuối.

Bạn tôi ở Úc, lấy vợ Việt. Vợ 17 tuổi làm lễ rồi đợi đủ tuổi làm đăng ký. Đợi thêm vài năm để vượt qua các cuộc sát hạch của xứ bạn. Họ kiểm tra cả những tấm hình trước kết hôn để chắc rằng họ không đính hôn giả.

Anh tôi sang Úc tìm đường cho các con mai này. Anh làm công việc cắt thịt, làm cả hai ca, là một điều cấm. Ngày làm đêm ngủ, bàn tay bấy máu. Anh live stream về cho chị, hai người tươm nước mắt…

Những người quen tôi những tháng đi về để giữ điều kiện nhập tịch. Họ bảo cô đơn và lạnh lẽo, buồn lắm nhưng vì con.


2. Úc, Mỹ Canada… với những chính sách nhập cư hà khắc, không còn là “thiên đường” của người Việt. Nó chỉ còn rộng cửa với người giàu. Mỗi năm tầm 9 tỷ đô ra nước ngoài, theo các chuyên gia. Và trong số những người giàu đó, chắc rằng không ít quan chức.

Thiên đường thứ hai của người Việt hiện tại hầu hết là Đông Âu, để lưu lại được vào Nhật, Hàn cực khó. Mẹ bạn tôi ở Nga bao nhiêu năm, đến khi xế bóng muốn về quê nhưng hai bàn tay trắng. May mắn sao bạn tôi có chút công danh như ý, đón mẹ về.

Nước Lào đang là lựa chọn mới nổi. Người miền Trung sang bên đó làm gỗ, làm ve chai. Mấy lúc nhàn rỗi lại về. Họ dắt díu nhau đi tìm đất sống. Nước Lào hiền dịu cưu mang rất nhiều người con quê tôi.

Ly hương là lựa chọn nghiệt ngã. Càng nghiệt ngã hơn cho những con người “sống chui” nơi đất khách. Nép mình trong phòng sợ hãi. Chờ siêu thị hết giờ để lấy thịt hết hạn, ăn nội tạng mà người ta không ăn…


3. Tôi không cổ suý đồng bào tôi ra đi. Nhưng tôi lấy gì để níu họ ở lại? Tôi nhìn vào thực tế đắng cay: Ai cũng muốn ra đi. Tài năng chất xám ra đi, người giàu có ra đi, tôi chưa bao giờ trách họ.

Tôi trách quốc gia. Một quốc gia để công dân của mình không có đất sống, phải ngậm đắng ra đi lựa chọn cuối cùng. Quốc gia mà đến y tế và giáo dục người ta cũng tìm đường tị nạn. Đến cả việc dồn dân đô thị cũng không còn đất cho người nữa rồi.

Tôi trách quan chức. Họ cũng là những kẻ ra đi. Nhưng là đi trong nhung gấm. Tài sản ở nước ngoài, con cái ở nước ngoài. Tiền đó ở đâu? Chắc chắn là góp lại từ những mảnh đời của nhân dân tôi lam lũ.

Nhân dân đánh bạc với cuộc đời cũng chỉ để mong chắt mót một chút của cải từ viễn xứ mang về quê hương, cho mình và cho người xung quanh mình. Họ có thể sai nhưng có gì đáng tội?

So với quan chức vơ vét quê hương để mang đi vương giả đầm ấm ở thiên đường, ai mới là tội phạm?

Quốc gia rừng vàng biển bạc đã không nuôi nổi những công dân lương thiện. Để họ phải vượt sóng xé trời tìm nơi khác. Quốc gia ấy lấy tư cách gì đòi hỏi nhân dân giữ gìn quốc thể?

Quan chức ăn là mặc lượt đu bám những chuyến xuất ngoại. Quan chức mang cả vợ con bằng tiền của nhân dân đi du lịch shopping có nghĩ đến quốc thể hay không?

Đừng nói về quốc thể. Khi quốc thể của các người là miếng bít tết vào mỗi buổi sáng, còn quốc thể của nhân dân là tô cơm hẩm cuối chiều!”

 

Nguyễn Tiến Tường

Mẹ Tôi, Người Vợ Lính Miền Nam - Trang Diệp


Mẹ tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có, ông bà ngoại là điền chủ ruộng cò bay thẳng cánh ở miệt Phú Xuân Nhà Bè. Mẹ được ăn học ở thành phố, sau thời trung học ở trường Gia Long rồi đến Đại học Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt.

Ba tôi lại sinh trưởng trong gia đình nông dân nghèo khó, gia đình lại đông anh em, nhưng được cái Ba tôi học giỏi, hiền lành và rất có hiếu. Cũng vì gia đình bên ngoại ngăn cản nên Ba tôi "thất tình", đăng lính dù cổng trường Đại học Văn Khoa, Sư Phạm đang rộng mở. Bà Ngoại làm mối cho Mẹ nhiều người nhưng Mẹ đều lắc đầu. Khi Ba tôi học xong khóa sĩ quan Thủ Đức 16 và được thăng cấp bậc Đại Úy, và Mẹ tôi thì cũng "chưa có ai" khi tuổi gần ba mươi. Có thể vì vậy mà bà ngoại tôi xiêu lòng và đồng ý cho Ba Mẹ tôi lấy nhau vào những ngày cuối năm 1969.

Dù bị ngăn cản từ đầu và phải qua nhiều khó khăn, thử thách, Ba Mẹ tôi mới đến được với nhau, nhưng sau đó, Ba tôi lại là người con rể được bà Ngoại yêu quý nhất.

Cưới xong là Ba tôi ra mặt trận, đi khắp các chiến trường miền Nam từ Quảng Trị, Khe Sanh đến Long Giao, Long Khánh, Bình Long, Phước Long. Ngày tôi chào đời, Ba tôi còn chiến đấu tận bên Lào, bên Cam Bốt. Ôi! Những người vợ lính thời chiến!

Chiến tranh leo thang trong giai đoạn 70-74 thật khốc liệt. Mùa hè đỏ lửa 72, những trận đánh dữ dội ở Khe Sanh, Bình Giã, Đồng Xoài..., tin tử trận dồn dập về từng giờ, từng ngày. Mẹ như ngồi trên đống lửa. Mẹ vừa đi làm ở Tòa Đô Chánh vừa nuôi dạy chúng tôi và trông ngóng tin tức của Ba ngoài mặt trận, đứng ngồi không yên.

Ngày mất miền Nam, Ba tôi đi tù. Mẹ bụng mang dạ chửa, một mình sinh nở. Thằng em tôi ra đời vào tháng Sáu năm đó, đúng lúc gia đình đau thương và túng quẫn nhất. Mẹ một thân một mình, mấy đứa con còn nhỏ xíu, không tiền bạc. Với cái lý lịch "ngụy quyền" và có chồng đi "học tập cải tạo" không còn nơi nào dám nhận Mẹ vào làm. Mẹ xoay sở mọi cách để chúng tôi có cái ăn hàng ngày, đồ đạc trong nhà lần lượt ra đi đến khi không còn gì có thể bán được, Mẹ phải đi bán hàng rong cực nhọc đủ điều, nhưng Mẹ không có nửa lời than van.

Tôi còn nhớ, mỗi lần tết đến, vì không có tiền mua quần áo mới cho chúng tôi, Mẹ ngồi cắt từng chiếc áo dài của Mẹ khi xưa để may cho chúng tôi những bộ đồ mới đi chúc Tết họ hàng. Mẹ không muốn chúng tôi buồn và tủi thân, một mình Mẹ cam chịu.

Sau vài năm bặt tin của Ba, gia đình nhận được tin về người ở tận trại tù vùng Hoàng Liên Sơn Yên Bái, mẹ tôi lại lo khăn gói lên đường thăm Ba. Thời đó, từ Nam ra Bắc quả là "gian khổ chập chùng", phải đổi bao nhiêu chuyến tàu, chuyến xe, băng rừng lội suối mới tới chỗ Ba tôi bị giam giữ. Thân trong lao tù, nhưng Ba luôn an ủi khích lệ gia đình, cứ mỗi độ xuân về Ba lại gởi cho chúng tôi những bài thơ Ba làm, khuyên nhủ dạy bảo chúng tôi.

Suốt tám năm ròng, Mẹ tôi tảo tần nuôi con, nuôi chồng không quản thân mình. Có thời ngăn sông cấm chợ, Mẹ phải gởi chúng tôi cho bà Nội, đi buôn chuyến Sài Gòn Phan Thiết. Sau mấy lần bị tịch thu hàng, Mẹ tôi không còn vốn liếng đi buôn nữa nên tiếp tục việc chạy hàng rong ngoài chợ. Tôi cũng ôm thùng cà-rem ngồi bán ở góc đường đầu ngõ cùng mấy thứ bánh kẹo lặt vặt bán cho mấy đứa con nít trong xóm để kiếm thêm ít tiền phụ mẹ phần nào.

Khi tới mùa lúa, Mẹ tôi về Nhà Bè làm ruộng với gia đình cô tôi để được chia chút gạo trắng cho chúng tôi có những bữa cơm không độn khoai mì, bo bo. Từng là tiểu thư thành phố, có ăn có học, nhưng công việc nặng nhọc đã cướp đi vẻ quý phái của Mẹ tự khi nào. Nhìn mái tóc điểm sương, đôi tay thô ráp, gương mặt hằn nỗi nhọc nhằn sớm tối của Mẹ, chúng tôi thấy thương Mẹ vô cùng.

Hàng đêm trước khi ngủ, mấy mẹ con trên một chiếc giường chật như nêm nhưng chúng tôi rất thích, không ai chịu đi ra chỗ khác ngủ. Chúng tôi lớn dần theo những câu chuyện cổ tích của Mẹ kể. Mẹ tôi đã bươn trong rác rưởi đọa đày mà đi, nhưng Mẹ vẫn dành cho chúng tôi những niềm vui trẻ thơ, con cái vẫn là tài sản quý giá và quan trọng nhất đối với Người. Mẹ muốn chị em chúng tôi biết yêu thương nhau, biết hy sinh chia xẻ cho nhau; có ký ức tốt đẹp về tuổi thơ của mình; có kỷ niệm về gia đình êm ấm. Mẹ nói "Con người ta nghèo nàn về vật chất không sao, nhưng ai nghèo nàn về tâm hồn và tâm linh thì đáng tiếc lắm các con ạ. Mẹ muốn các con dù trong hoàn cảnh hiện tại khó khăn đói nghèo, nhưng tâm hồn mình không nghèo nàn". Mẹ là người đi góp nhặt từng niềm vui, tiếng cười cho chúng tôi trong những hoàn cảnh bi thương nhất của cuộc đời.

Cuối cùng, sau bao nhiêu năm mỏi mòn trông ngóng, Ba tôi trở về từ trại tù. Nhưng gia đình chúng tôi đoàn tụ chẳng bao lâu thì Ba tôi từ trần, khi Mẹ mới vào cái tuổi bốn mươi hai. Nhiều tai nạn dồn dập đổ xuống gia đình tôi, nhưng một lần nữa, vì chúng tôi, Mẹ không ngã gục.

Sau khi chúng tôi tới được đất Mỹ, một lần nữa, vì con cháu, Mẹ đành bỏ lại quê hương, nơi Mẹ đã sống gần bảy mươi năm; sang một đất nước xa xôi, lạ lẫm, bất đồng ngôn ngữ, văn hóa. Lòng Mẹ đau đáu nhìn về nơi chôn nhau cắt rốn, đau xót; nơi ấy Ba tôi đã nằm xuống, mồ im mả lạnh.

Cuộc đời của Mẹ tôi, cũng như của tất cả những bà Mẹ Việt Nam cùng thời, buồn nhiều hơn vui. Thời chiến thì mất chồng, mất con, sống trong cảnh đạn bom khói lửa và những cuộc di cư lánh nạn triền miên; đến “thời bình” thì bị giam cầm, nghèo khổ trong trại tù lớn là cả quê hương Việt Nam. Sang đến Mỹ, một đất nước giàu có, tự do thì lại làm những công việc chân tay cực khổ, nuôi con ăn học. Nhưng khi con khôn lớn, lập gia đình, thì cũng chỉ một mình mẹ trong căn nhà trống vắng.

Trong mùa lễ Vu Lan, tôi tự hứa với lòng mình là sẽ làm mọi thứ để giữ nụ cười và chút niềm vui còn sót lại trên gương mặt đã già nua và hằn những vết đau khổ của Mẹ.

Cầu mong cho những tháng ngày còn lại của các bà mẹ được yên bình, vui vẻ bên cháu con.


Trang Diệp

Share Lại Người Lính Già TQLC

Nửa Hồn Thương Đau - Thanh Tâm Tuyền - Ca Sĩ Thông Minh Nhân Tạo

Friday, April 11, 2025

Chuyện Người Cựu Thiếu Sinh Quân - Người Phương Nam


 
Tôi quen biết một anh cựu sĩ quan xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu khi tham gia sinh hoạt trong một Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh. Anh có nickname là "Tùa Hia" vì anh có một quá khứ "ngầu", lại vui tính thân thiện với mọi người nên rất được các bạn mến mộ, nhứt là các nàng đều coi anh như đại huynh trong nhóm cho dễ bề nhõng nhẽo. Một bữa nọ, khi tôi nhận được youtube "Hồn Nước Quốc Kỳ Quốc Ca Việt Nam" *, từ một người bạn email, thấy trong đó có đọan vinh danh trận tử thủ oai hùng trong quân sử ngày 1/5/1975 của những thiếu sinh quân 15-16 tuổi, những đứa con mồ côi của quân đội, tôi vội chuyển cho anh xem vì nghĩ rằng anh bận đi làm không có giờ lục lạo trên net.

Ai dè hôm sau tôi nhận được hồi âm của anh. Anh viết rằng:

Cám ơn muội muội đã chuyển cho huynh cùng xem.   
Muội hãy xem lại YouTube này (rất hay), ở phút khoảng 30, họ nói về trận đánh sau cùng và buổi lễ "Hạ Kỳ" cuối cùng trên toàn lãnh thổ của VNCH vào ngày 1 tháng 5 năm 1975.
Mấy đứa em TSQ đã cầm đầu trong "Trận Đánh Cuối Cùng" ở trường TSQ là "đệ tử ruột" của huynh.  Cấp chỉ huy đã "tử thủ" sau cùng... cũng là anh của huynh. 

TSQ sau khi ra trường sẽ gọi là Cựu TSQ hay AET và sẽ mang một huy hiệu nhỏ (pin) có chữ AET.  Tất cả các AET trên toàn thế giới đều mang một huy hiệu giống nhau vì đây là một tổ chức của "Liên Hiệp Pháp". AET là 3 chữ viết tắt của tiếng Pháp: Ancient Enfant de Troupe.  Về sau, tụi này dịch chạy ra là: Anh Em Ta!.   Tất cả các AET sẽ gọi nhau bằng anh em chứ không gọi theo tuổi tác hay cấp bực.

Khi ra trường TSQ, huynh được tiếp-tục học ở trường Quân Y.  Nhưng chỉ học được 9 tháng thì bị đuổi ra khỏi trường Quân Y và đày ra tác-chiến.  Phục vụ cho đơn vị Nhảy Dù trong một thời gian ngắn, Huynh lại bị bắt về để học ở trường VBQG/Đà-Lạt.  Nói là đi lính lâu năm, nhưng hầu hết tuổi lính của huynh đều nằm trong các quân trường!..  

Huynh có gặp lại vài em TSQ đã cầm đầu cho cuộc tử thủ ở trường TSQ vào ngày 30/4/75 và 1/5/75. Hai em mà huynh gặp lại được là em Lâm A Sáng ở Toronto/Canada và em Nguyễn Anh Dũng,Colorado. Hai em này có tường thuật lại cuộc tử thủ và buổi lễ "Hạ Kỳ" cuối cùng của VNCH trên các trang mạng về quân đội VNCH.     
Không những là "đệ tử ruột" ở trường TSQ, hai em S và D cùng nhiều em TSQ khác, còn là "đệ tử" của huynh khi sinh hoạt hướng đạo với hội đoàn Hướng Đạo/ Vũng-Tàu.  

Các em TSQ từ những năm 70 trở về sau đều biết huynh và xem huynh như là "thần tượng" của họ. Vì lúc đó huynh là Liên Đoàn Trưởng của Trường (có 1,400 TSQ). Huynh lại là Trưởng Ban Nhạc Nặng (quân nhạc), Trưởng Ban Nhạc Nhẹ (nhạc sân khấu) của trường. Năm 1971, huynh lại lãnh giải vô địch đai đen/Thái Cực Đạo/ cấp toàn quân. Thấy huynh "nổ" dữ chưa???...   

Cũng trong YouTube này, ở vào phút 33 - 35... có đọan phim quay lúc trường TSQ đi diễn hành ở Sài-Gòn vào năm 1971.  Người đi đầu cho toán diễn hành của trường, đang chào tay khi đi ngang qua khán đài chánh... là huynh đó!.  Vì đang "chào tay" nên muội  không thấy được mặt, chỉ thấy được dáng người.  Mà dầu có thấy được mặt, muội cũng hỏng biết là ai??.. vì lúc đó huynh còn "nhỏ xíu"!!!...   

Sau 75, Huynh chỉ đi "học tập cải tạo" 6 tháng, vì huynh "thức thời" biết người biết ta, khai mình là khóa sinh SVSQ tép riêu thôi chứ không dại gì khai thiệt để bị "cải tạo" mút mùa!.  Sau đó, Huynh lại bị "nhốt" trở lại về tội "âm mưu lật đổ nhà nước cộng sản". Lần này, huynh lại được các em TSQ giải cứu. Trong số đó, có 1 em là cháu ngoại của Tổng Thống Trần văn Hương... đã "húc tù" và đưa huynh xa lìa VN. 

Bây giờ thì muội biết thêm nhiều về cuộc đời của Huynh. Có lần, một cô em trong nhóm đã thắc mắc: 
     - Em biết đại huynh rất "võ biền", nhưng sao em thấy huynh rất Cool chứ không ồn ào hay quá khích như mấy ông quân đội mà em từng quen biết??...  
Huynh trả lời: 
      - Vì Huynh là đại huynh của tụi em, huynh phải làm gương cho tụi em biết lúc nào mình phải cần "buông xuống"... và phải biết "Tự Thắng Để Chỉ Huy"!!!...  

Quanh năm suốt tháng, Huynh ít khi nào bị bệnh nhưng mỗi năm gần tới ngày 30/4 là huynh nghe nhức nhối trong tim, đau cho tháng tư xưa rả ngũ tan hàng để giờ này phải xa lìa quê cha đất tổ, lưu lạc xứ người!

Trong đời binh nghiệp của huynh, huynh được may mắn hơn nhiều đồng đội khác, tứ chi và ngũ quan của Huynh vẫn lành lặn... mặc dầu mình mẫy cũng thẹo tích tùm lum. Chưa phải là thương phế binh!.  Cũng về Tổng Y Viện Cộng Hòa... để thăm bạn bè, chứ không hề "nằm" ở đó.   

Muội không có dính dáng gì tới mấy ông "lính Ngụy", nhưng coi bộ muội có nhiều cảm tình với mấy ông bên "phe thua cuộc"?? quá... Cám ơn muội muội. Đó là niềm an ủi lớn lao đáng quý cho những người lính già thất thế vô dụng như huynh bây giờ!.   

"Canh bạc chưa chơi, đà hết vốn;  
Cờ còn nước đánh...  đã lưu vong!."      (Thơ Thanh Nam)

AET Tùa Hia

* Tiếc rằng video này không còn hiện hữu để chúng ta có thể xem lại.

Người Phương Nam

Cám Ơn Một Người Đã Đi Qua - Lê Phùng Xuân

 

Bỏ nước ra đi

Sống đời lưu vong,

Phận mình nào có sá gì,

Thương người ở lại cu ky ôm sầu.

(Thiên ca bốn, Lê Phùng Xuân)

Khi Xuân trở về, cơn mưa đã dứt hột. Con đường trở nên lầy lội hơn. Bùn trền trệt như đám trái đười ươi bị mắc mưa. Chàng bước đi nặng nề. Hai chơn bang bang như đi hàng hai cho đỡ bị trượt té. Rút cuộc chàng cũng cà lê cà lết về tới lều. Hậu cứ tiểu đoàn nhỏ xíu. Hổng có trại gia binh. Các đại đội hông có chỗ trú quân. Họ chia nhau từng khu trong vườn cây cà phê, sầu riêng, mít của dân chúng quanh Xuân Lộc. Vành đai ấp chiến lược vẫn còn, nên đóng quân bên trong rất an toàn. Họ căn lều lụp xà lụp xụp dưới những tàng cây, che mưa che nắng. Độc thân chỉ cần một cái poncho và một cái võng là đủ. Những người lính có vợ phải che thêm những tấm ni lông cho rộng ra. Những ngày nắng ráo, hai vợ chồng nằm dưới đất. Những hôm mưa, họ treo võng kè kè sát bên nhau trong cái lều chật hẹp.


Bùn đỏ bám đầy đôi giày. Xuân lấy một khúc cây nhỏ gạt bớt đất đỏ. Chàng ngồi trên võng, chật vật tháo đôi giày ra mà hông để tay dính bùn. Cái radio ấp chiến lược màu xanh vang lên tiếng hát buồn trong lúc mưa gió như thế này. Mừng luôn luôn bắt đài Quân Đội từ 7 giờ đến 9 giờ tối. Nó mê giọng êm thủ thỉ của cô Dạ Lan. Gần sáng, là gia đình Bác Tám của đài khác. Còn lại là radio ra rả suốt ngày. Xuân nghe riết phát chán.
- Hao pin lắm. Sao hông tắt Mừng?
- Tui xin pin tép của thằng Hòa. Đâu có hao, thẩm quyền.
Mừng hông biết cách ghép. Lúc thì hai tép, lúc thì ba tép, làm cho cái radio kêu rè rè. Chắc nó bỏ đi đâu rồi.
- Cô Mận!Tắt rađio đi. Cô vừa ca mà để máy như vậy ai mà nghe được.
- Trung Úy tắt đi. Tui làm biếng đứng dậy quá hà!
Phùng Xuân đi đến chỗ Mừng. Chàng tắt radio cho bớt ồn. Nghe cổ ca ơ ơ theo cái võng lắc lư, đong đưa còn đỡ buồn hơn.
 
- Mừng! Có phải em gái của mầy thiệt hông hay là bồ bịch đó mậy?
- Dạ, em tui thiệt mà Trung Úy?
- Sao cổ hông ở nhà mà đi theo mầy làm gì?
- Gia đình có hai anh em. Mùa này ở quê hông có việc làm. Nó nhớ tui. Nó buồn nó lên thăm tui. Hổm rày, tui kêu nó đi dìa đi mà nó chưa chịu dìa. Hổng biết mắc chứng gì mà nó khoái ở đây hoài. Nó nói lúc rày ở dưới quê chưa có việc, chờ gần Tết, lúa chín. Lúc đó họ mới kêu công gặt.

Cô Mận còn trẻ, khoảng dưới đôi mươi, bới tóc đuôi gà theo kiểu con gái miệt vườn. Má bầu trắng, tròn trĩnh xinh xắn, có duyên con gái. Cổ vui tươi và nói tía lia khi kể chuyện nhà quê. Khi nào tới bữa cơm, là cổ cũng có chuyện để nói.
Hàng ngày Mừng nấu cơm cho Xuân và em nó. Ba người ăn cơm chung. Xì xà xì xụp cho qua bữa: canh rau, cá khô, rau canh, khô cá, mì gói, gói mì! Cô Mận mũm mĩm cười, hơi ló hai cái răng nanh khi nghe Xuân nói như thế. Ăn xong, việc của cổ là rửa ba cái gà mên, treo lên đầu võng. Rồi cổ nằm võng đong đưa qua lại, tiếp tục ca nữa. Mỗi lần ư, ư là gân cổ rung lên như gà giò mới biết gáy.
- Ca hoài sao cô Mận? Hổng chán à?
- Tui đâu biết ca tân nhạc. Mà Trung Úy có mê vọng cổ hôn? Tân cổ giao duyên cũng hay lắm à nghen!
- Ơ…ơ…Cũng biết thưởng thức chút chút. Tui nhớ hồi khoảng năm 1958 hay 1959 gì đó, tui có đến rạp hát một lần. Cái rạp đó ở đâu trên đường Nguyễn Trãi. Tên là Thủ Đô thì phải.
- Để làm gì ?
- Thì để xem hát chớ làm gì. Thằng bạn học có người quen trong đó. Nó dẫn vô hổng có tốn tiền. Bữa đó, tui hông nhớ gánh hát tuồng tích gì, nhưng tui hổng quên được cô đào Bích Sơn và kép Hoàng Giang. Họ diễn hay lắm. Khán giả vỗ tay muốn bể rạp luôn. Cô Bích Sơn, người Bắc, còn kẹp tóc, mà ca cải lương mùi lắm. Tiếng nói kép Hoàng Giang cũng rổn rảng.

Tụi tui ở trong cánh gà thấy đủ thứ hết trơn. Xong tuồng, hạ màn. Cô đào Bích Sơn và kép Hoàng Giang lên xe hơi về nhà. Sân khấu ngổn ngang. Họ lo dọn dẹp mọi thứ. Chừng đó, cũng đã gần hai giờ sáng rồi mà họ có ngủ đâu. Tui thấy họ tụm ba tụm năm chia nhau đánh bài. Nào cát tê, bài cào, xập xám, phé. Ối thôi, tùm lum. Tiếng cãi cọ vang rền. Đã đời, họ lăn đại ra ngủ trên sàn. Trời nóng, nam trần trùi trụi, ngáy khò khò. Nữ, quần vén lên cao, áo tốc lòi ngực ra, ngủ say như chết.
Gần trưa hôm sau họ mới dậy, rồi quây quần quanh chiếc bàn hình chữ nhựt ăn cơm với chỉ độc nhứt có món mắm chưng hột vịt và những tô rau trộn đủ thứ.

- Cái đó là Trung Úy coi cải lương. Nhưng mà trong cải lương cũng có ca vọng cổ.
- Tui đâu phân biệt được.
- Vọng cổ là một bài hát có 32 nhịp, như hổm rày tui ca cho Trung úy nghe đó.  Mùi lắm à nhen! À, mà rồi, Trung Úy có ăn hôn?
- Có. Tụi tui cũng xáp vô ăn luôn. Tui thấy đào chánh, kép chánh họ sung sướng. Chớ những người phụ coi bộ họ sống cũng chật vật lắm.
- Vậy là Trung Úy cũng mê mê vọng cổ rồi đó. Để hôm nào tui ra chợ kiếm mấy bài tân cổ giao duyên thiệt mùi, tui ca cho Trung Úy nghe chơi đỡ buồn.

Dưới võng của cô Mận có đủ thứ những cuốn tập nho nhỏ, chất cho một đống. Buổi sáng, cô đi chợ với anh cô. Hôm nào Xuân làm biếng, hoặc đường bùn lầy trơn trợt chàng hông đi, Xuân nhờ cổ mua một tờ báo. Ở đơn vị chỉ có báo Tiền Tuyến. Đi chợ về, cô lo cơm nước. Ăn rồi, cô nằm ca ít bài. Xong, bỏ võng treo tòn teng ở đó, đi tới chỗ mấy bà vợ lính, nói chuyện ba hồi ba đổi, rồi đi rủ chị Hiền ra suối tắm.
Từ ngày anh Hiền chết đi, chị Hiền hông chịu về quê, ở lại đây, sống cùng với đại đội. Chị đi chợ mua thức ăn nấu cho mấy người lính độc thân. Vì thế, chị cũng có cái ăn cái uống sống đắp đổi qua ngày. Mỗi người lính có một ca gạo (khoảng 600g)(1) mỗi ngày. Họ ăn hông hết. Hai người là dư một phần cơm cho chị. Về quê làm gì? Quê chị đâu miệt Phan Rang, nghèo lắm.


Dòng suối nhỏ, ở cuối đầu sân bay, chảy xuyên qua vườn cà phê ông Đại Tướng Lê văn Tỵ. Dòng suối nầy là nơi tắm giặt và cũng là nơi lấy nước ăn uống cho cả đại đội khi về trú quân ở Long Khánh. Hình như có giờ giấc và nơi ấn định sẵn đâu hổng biết. Đàn ông và đàn bà có khu riêng biệt. Đầu nguồn là nơi lấy nước để ăn uống. Chính giữa là nơi tắm giặt của đàn bà, trẻ con. Dưới cùng là của các ông. Vì hông có nhà tắm, các bà và các cô thường mặc nguyên quần áo khi tắm. Có người bỏ áo, kéo quần lên tận ngực. Khi họ đến đó, trời còn nắng. Một đám người đang tắm và giặt quần áo. Thêm mấy đứa con nít đùa giỡn bắn nước tung tóe…


- Ê.  Đừng vô chỗ lùm tre thay đồ nghe chị Hiền!
- Sao vậy?
- Chị hổng nghe hôm trước vợ Hạ sĩ Y Clip mang con ra suối đẻ rồi chui vào lùm tre đó. Bả vạt nang tre cắt rún cho con sao? Ý, thấy mà ghê!
- Tội nghiệp. Ông đó người Thượng, ở đâu trên miệt KonTum- PleiKu. Ổng đi lính lâu lắm rồi, trước anh Hiền của tui.
- Sao ổng hông chịu đem vợ vào nhà thương để đẻ?
- Mấy người Thượng họ theo tục lệ của họ. Họ hông đem vào nhà thương đâu. Đẻ xong họ còn đem con xuống suối tắm nữa cà.

Y Clip, hơi lớn tuổi, nói tiếng Việt lơ lớ, thật thà, ít trò chuyện với anh em trong đại đội. Ai có hỏi thì nó trả lời một vài tiếng, rồi mỉm cười. Hai vợ chồng chiếm một góc xa ở cuối bìa vườn, quây lá chuối chung quanh thành một căn lều nho nhỏ. Họ chứa đủ thứ: nồi niêu, xoong chảo, lon guigoz, thùng đạn đựng nước…Cô vợ ở trong đó, ít khi ra ngoài.  Thậm chí khi đẻ con rồi, cô hông bao giờ bồng con ra.
Anh chàng người miền núi này đi rừng rất giỏi, biết nhiều loại rau ăn được. Và đã nhiều lần đơn vị hông tìm được suối, Xuân quá khát. Y Clip đã cắt dây chìu từng đoạn để lấy từng nắp bi đông nước cho Xuân uống.


- Chị Hiền!Chị có đem nước về hôn?
- Hông. Nhờ trời mưa, tui hứng được mấy thùng và hai ba ống đạn. Chắc nấu cơm, rửa chén cũng được mấy bữa.
- Còn em phải đem hai thùng. Ba người thì cần nhiều hơn. Anh hai em ảnh xài hao nước lắm.
- À. Mà còn cho ông Trung Úy. Ổng lấy nước tắm nữa chứ gì?
- Hông. Ổng lấy nước rửa chưn hông hè.
- Sao hổng lấy nước nhiều nhiều cho ổng tắm?
- Thôi đi bà. Ổng muốn tắm thì đi ra suối tắm chứ. Tui đâu có hầu ổng. Bà muốn gì vậy?Bộ bà cũng muốn hả? Ổng chưa có vợ đó nghen!
- Ê! Đừng gắp cá bỏ cho người khác nhen! Tui thấy có bữa, trước lều của ổng có một ống nước.
- Hôm nào anh hai em siêng, ảnh vác về cho ổng tắm đó bà! Tui hổng có siêng như vậy đâu!

Hai người vừa thay đồ vừa cười như nắc nẻ. Rồi họ ngắt nhéo, la chí chóe trong lùm cây cà phê. Chị Hiền thầm nghĩ. Coi vậy chớ con nhỏ này ghê lắm. Mấy hôm nay, chị thấy nó mắc võng gần ông Trung Úy hơn. Chị hỏi. Nó nói bà chủ vườn kêu đừng cột võng vô góc cà phê. Đung đua hoài, long gốc, chết cây. Bây giờ nó xê lại gốc soài riêng càng sát ổng hơn. À, mà nó thấy diện hơn lúc trước: chảy đầu bẽ ba gọn ghẽ và mặc áo bà ba bông coi đẹp đẽ. Và nghe nó ca nhiều bài vọng cổ mùi lắm. Cái gì mà yêu anh lính chiến xa nhà…Chị tủm tỉm cười.
 
   - Bà cười cái gì đó bà? Ờ, mà Chị Hiền?Sao chị hông lên phụ với bà Tư Thiệt bán có đỡ hơn hôn?
- Thằng Lưu Anh nó ở trên đó rồi. Nó đeo con Tươi như sam.  Hơn nữa con nhỏ sắp đẻ rồi còn gì.
Lưu Anh là người Tàu Chợ Lớn, đi quân dịch đã hai năm nay. Nó hiền từ, tháo vát, cao lớn cũng khá đẹp trai. Hông hiểu sao nó chiếm được cảm tình của bà Tư Thiệt. Chồng bà này đã chết trận hơn mấy năm nay. Bả hông chịu về quê, bám theo đại đội mở cái quán nho nhỏ bán đủ thứ như gánh hàng xén. Lính đại đội làm biếng ra chợ-hơn nữa từ chỗ đóng quân cuốc bộ ra chợ cũng xa hơn hai cây số-nên thiếu chút đỉnh đến tiệm bả mua mau hơn.  Đôi khi có những món như: mì ăn liền, rượu đế, khô mực nhậu lai rai… rất tiện lợi cho mấy anh chàng lính độc thân. Bả còn cho mua chịu- ghi sổ- đến kỳ lãnh lương thì trả lại.

Bà chỉ có độc một đứa con gái. Năm nay, cô bé cũng được khoảng 15 tuổi. Cô này có nước da trắng mượt mà, cặp mắt trong sáng và có nụ cười rất tươi. Cô có da có thịt, cao ráo hơn mẹ.  Nhiều chàng lính độc thân cũng ngấm nghé. Bà mẹ, hơi lùn, ít khi cười, có lẽ vì bà hơi lé kim và một mắt bị cườm. Nhưng, bà rất lanh lợi và nói chuyện có duyên.

Từ khi về đại đội, chỉ mươi ngày sau là thằng Lưu Anh đi gánh nước, đi chợ chở nước đá, la de, rượu đế và các thứ lặt vặt…Lúc đó con bé Tươi mới có 13 tuổi. Mới đầu thằng Lưu Anh còn về võng nó ngủ. Nhưng sau đó, nó ở lì trên tiệm, hông về lều, trừ khi nào có phiên cắt gác. Lần lần nó thay bà Tư cáng đáng mọi công việc. Và cuối cùng, cô bé Tươi có bầu lúc 14 tuổi.  Trong đại đội, hông ai nói gì vì bà Tư có thưa gửi gì đâu. Thằng Lưu Anh khôn, lăn chai bám riết rồi cũng được. Còn mấy thằng Bình, thằng Thiện cứ đứng vòng ngoài đưa mắt ngó thì được cơm cháo gì! Và con Tươi thản nhiên mang cái bụng bầu chang bang cặp kè đi chợ với thằng Lưu Anh bổ đồ hàng bữa…

Chiếc GMC chở trung đội vũ khí nặng sắp sửa chuyển bánh. Lưu Anh, mang súng đứng dựa vào thành xe nhìn Tươi vừa ẵm con ra đứng trước cửa quán. Đứa con còn đỏ hỏn, chưa đầy tháng. Tiếng nói om sòm, tiếng la hét của những người lính khác vang lên gần như lấn át tiếng máy nổ của bốn xe nhà binh. Kẻ dặn vợ con, người dặn kẻ ở lại lo dùm công việc này, công việc nọ.
Đoàn xe chưa có lệnh di chuyển. Xuân và Chúc còn đứng dưới đất. Hai đứa đang nói chuyện.
- Cuối cùng rồi tao cũng gặp mầy.
- Tớ đâu có ngờ cậu ở Sư Đoàn này.
- Ờ!Cái Sư Đoàn có số 10 này làm cho ông Hoàng Tử lưng gù mới về khó chịu. Ông tin dị đoan. Số 10 là bù. Thế là đổi thành 18. Chín nút là nhứt rồi.

Hổng hiểu rồi đây chín nút có ngon lành hay hông hay là chúng nít???
Đỗ Bá Chúc hông thích đi sĩ quan. Nó hông khai bằng cấp. Để khỏi bị động viên, nó lo nhảy trước. Nghỉ dạy, nó chạy chọt làm anh binh nhì phòng hai của Tiểu khu Tây Ninh, tà tà ở văn phòng. Một ít sau, nó chán lính bàn giấy. Hơn nữa bị các sĩ quan và thượng sĩ ít học hơn nó đì nó. Nó nản. Nó đi lính biệt kích một thời gian. Cuối cùng, chàng ta bèn nộp đơn vào Thủ Đức. Ra trường với cái quai chảo, nó phân vân chưa biết chọn nơi nào.  À!Cái Sư Đoàn 18 có số tốt, lại ở gần Sài Gòn. Thế là hắn về đây. Phùng Xuân cho nó về làm Trung đội trưởng Trung đội 3.
Hai đứa gặp nhau, bá vai chửi thề. Tổ cha mày, sao lại ra tới đây! Họ kịp chưa nhậu một bi đông rượu đế nào. Có lệnh hành quân.
 
****
 
Sông La Ngà là phụ lưu của sông Đồng Nai, bắt nguồn từ Di Linh. Khi đến bán bình nguyên Gia Rai, sông chảy ngoằn ngoèo, tạo nên những cái hồ bán nguyệt rất đẹp mắt từ những khúc đoạt giang. Đồng xanh bát ngát, trù phú. Thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã có những khu trù mật Võ Xu,Võ Đắt dành cho những gia đình từ Trung Phần vào đây lập nghiệp. Nơi đây còn hoang dã. Có rất nhiều thú để săn bắn như nai, min. . . Voi đôi khi còn đi từng đàn. Cá dưới sông suối còn dẫy đầy. Gần quận Tánh Linh (tỉnh Bình Tuy), có Biển Lạc rộng khoảng 5km2, có rất nhiều loại cá …

Xuân rít một hơi dài điếu thuốc Ruby quân tiếp vụ lỏng le, rồi búng tàn ra xa. Đoàn xe bắt đầu đi về Tân Phong, qua Suối Cát.  Đến ngã ba Ông Đồn, quẹo trái. Ngọn núi Chứa Chan cao chễm chệ nằm sát đường. Bụi đỏ tung mịt trời. Xe sau hông nhìn thấy xe trước. Gia Ray kia rồi. Hậu cứ của Trung Đoàn 52 trên đồi Phượng Vĩ. Hàng năm Sư Đoàn hành quân về vùng này khoảng đầu năm, lúc mùa gặt sắp tới, để bảo vệ dân thu lúa, hông cho VC về lấy.


Đại đội đóng quân cuối xã Võ Xu, sát những cánh đồng lúa đang ngả màu vàng. Chừng hai hôm sau, gia đình binh sĩ lục đục kéo tới. Họ lại căn lều, làm thành những cái thum nho nhỏ trong những đám chuối. Xuân nhận thấy đó là điều vô cùng nguy hiểm, nhưng làm sao bây giờ. Tiền lương của họ hông đủ để san ra làm đôi cho gia đình, bắt buộc họ phải sống như vậy.
- Chà! Sao mà nhiều đồ ăn quá vậy? Lại có mấy con cá chép nướng to tổ bố nữa.
- Bữa nay 30 rồi. Tất niên mà thẩm quyền hổng nhớ sao?

Thức ăn để một dọc dài trên những tàu lá chuối. Một góc tư nước đá, ba kết lade con cọp lớn ngã nghiêng ở góc chuối. Mấy người vợ lính lên tiếng mời Phùng Xuân. Mọi người bắt đầu. Lai rai ba sợi, tán dóc qua lại. Tiếng nói, cười vang dội. Rồi đến độ ngà ngà, cụng ca cộp cộp. Anh em vui vẻ. Ở cuối đầu kia, các bà lâu lâu cũng thêm vài câu nói tiếu lâm làm buổi tiệc thêm hào hứng. Mận và chị Hiền cũng xúm xít cười nói huyên thiên với mấy bà vợ lính.
Các chàng lính nhà ta hơi mềm môi, bắt đầu gõ chén gõ đũa vô gà men, ca hát vang trời. Đám quỷ sứ đó bắt đầu nói trây. Và rồi thì là rượu nói“Má ơi! con muốn lấy anh thợ bào. Còm lưng ảnh đẩy cái nào cũng sâu. Má ơi! Con muốn lấy chồng. Con ơi! Mẹ cũng một lòng như con” thì mấy bà la lên rần rần. Hông hiểu mấy bà có có thích hông mà Phùng Xuân thấy mấy bả cũng phụ họa thêm. Tội nghiệp, họ bị chê như vậy mà họ cũng ráng lết ra tới ngoài này để vui vẻ cùng chồng ba ngày Tết.


Xuân cảm thấy trong mỗi bàn tiệc nhậu của đám đàn ông lúc nào cũng nói đến chuyện trây trúa. Và bao giờ họ cũng lấy đề tài là mấy bà. Những chuyện tiếu lâm luôn luôn chê các bà thậm tệ, coi họ như con cái lúc nào cũng ham hố cái đó của con đực. Trong lúc đó, họ hông bao giờ nghĩ là họ xấu xa hơn, đụng đâu là bốc hốt tới đó. Vậy mà mấy bả cũng vui vẻ phụ họa cùng cánh đàn ông.
Xuân ngồi xếp bằng dưới đất quá lâu. Chàng thấy ê hai chân.  Chàng duỗi dài chơn trái. Vô tình, chơn này xé rách một vài miếng lá chuối khô. Một chồng giấy báo cũ lộ ra. Phía trong chồng báo cũ là một mớ giấy tờ lộn xộn. Chàng đưa mắt liếc coi.  Có những thiệp đám cưới.  Sao thiệp báo tin đám cưới Yvette có ở đây? Lại có đến hai ba cái?”

Phùng Xuân cầm lên một cái thiệp in rất trang nhã. Xuân lẩm nhẩm đọc. Đầu óc chàng quay cuồng.
- Ai có mớ nhựt trình cũ này đây?
- Dạ. Của em Trung Úy.
- Làm sao chị có được những thiệp báo tin đám cưới này?
- Dạ. Nhà em vựa ve chai. Chắc mấy người mua lẻ họ đem đến. Có gì hông, Trung Úy?

Xuân hông trả lời. Chàng ngồi im, ngồi im thật lâu, hổng biết đến bao lâu. Cho đến khi Chúc nhắc đến phiên Xuân phải uống. Chàng cầm ca lên, thò vào nón sắt múc cho thật đầy rồi đưa lên ực mạnh một hơi hết sạch…
Chúc quay nhìn Xuân. Hông dè mới hơn năm nay thôi mà Xuân thay đổi nhanh chóng. Thời thầy giáo hiền lành đạo mạo ở Tây Ninh đã qua rồi?Nó liếc một lần nữa. Có gì vậy Xuân? Có gì cậu thay đổi dữ vậy?Đâu có lẽ là đời lính tráng làm cậu khoác một cái áo khác?
Sanh xách hai xị đế về. Chỉ quay một vòng là muốn hết. Riêng phần Xuân uống hơn nửa xị. Rồi lại thêm hai xị nữa. Nhóm người ăn uống lần lần bớt đi. Chỉ còn lại Xuân, Thiếu Úy Thanh, Chúc.  Cuối cùng là đế pha xá xị hông đá, đầy một nón sắt. Thiếu Úy Thanh e dè hơn, uống cầm chừng. Ông Thượng sĩ Danh Sơn, lúc đầu thì tố dữ lắm, bây giờ lẳng lặng rút lui đâu mất tiêu.
- Thanh! Mầy uống ít. Tối nay coi chừng đại đội dùm tao.  Trung đội Nghĩa trực đêm nay, dặn Nghĩa cẩn thận mấy toán tiền đồn.
- Bây giờ cũng sắp giao thừa rồi. Sau giao thừa thì hưu chiến đó, Trung Úy.
- Tin VC là bán lúa giống. Nó phản thùng. Nó đột kích thì mình chết mẹ hết.
Nhưng rồi Xuân quay mặt qua bên, ụa lên một cái. Một vòi rồng nước đục đồ ăn lẫn rượu bắn tràn qua sau. Sau đó, là thêm hai ba hơi rồi chàng gục đầu xuống. Hông có một tiếng nói. Cõi không vắng lặng. Đầu óc quay cuồng. Thời gian ở đâu?Không gian ở đâu?Đêm đã khuya. Xuân mơ màng nghe văng vẳng: Yvette!Yvette!

Hình như có tiếng trách móc thì thầm bên tai.
- Uống gì mà uống dữ vậy hôn hè? Cho chó ăn chè.  Í ẹ! Chua lè chua lét! Tanh ói! Dơ quần dơ áo hết chơn hết chọi!
Một cái khăn ướt đắp lên mặt Xuân, xoa xoa nhiều lần. Mát rười rượi. Đôi bàn tay mềm mại lật nghiêng Xuân qua lại, cởi áo dính đầy đồ ăn và rượu. Và rồi, từ từ tháo đôi giày ra. Và rồi, cái quần dài…
- Chèng đét ơi! Sao mà ………………………… ?
……………………………
---------------------------------------
Mái tóc dài ngào ngạt mùi lúa thơm phủ trùm lên mặt Xuân. Và hai tay mềm dịu trở nên cứng rắn nắm tóc chàng cà nghịt, cà nghịt như muốn bứt ra từng sợi…Yvette!Yvette!
Đêm ba mươi Tết. Trời tối như bưng. Giao thừa đã qua. Gà gáy canh hai…
Phùng Xuân mở bừng mắt ra. Trời đã bừng sáng. Đầu óc còn quay mòng mòng. Chàng nằm im một lúc. Xong ráng chống hai tay ngồi dậy. Chàng ngó qua ngó lại. Im lặng. Cái gì đã xảy ra đêm hôm qua? Thiệp báo tin mừng của Yvette. Uống rượu. Uống thật nhiều la de. Rồi đế. Đế pha xá xị. Mửa. Mửa. Mưa tới mật xanh luôn. Say hông còn biết trời trăng…Bộ quần áo dính đầy đồ ói tanh nằm kia. Ai đã thay chúng? Ai đã làm gì mình đêm qua? Da thịt Xuân còn ướt rít trịt.  Ai? Ai? Xuân vụt đứng dậy. Chàng ngó quanh quất. Vắng teo.  Đại đội đi đâu? Lều võng còn kia mà!. .

Mừng chợt hiện ra, nhìn chàng.  Nó cười cười.
- Đêm qua thẩm quyền say quá. Uống dữ à nhen. Hết lade rồi đế.
- Tôi uống nhiều lắm hả? Ủa.  Sao ở đây im lặng quá vậy?
- Anh em trong nhà dân chúng đang hô dô dô, vui vẻ ăn Tết.  Bữa nay mùng một mà Trung Úy.
- Đêm qua hổng có gì hả? Thằng Lanh có trực máy hay bỏ đi đâu rồi. Thiếu Úy Thanh có cắt một trung đội ứng chiến hôn?

Chàng đứng lên, vươn vai, bẻ người qua lại cho tỉnh táo. Xong xuôi đâu đó, chàng đi một vòng xem lại nơi đóng quân Đám này tụm ba tụm bảy đang cười nói um sùm bên xị đế và mấy con khô cá khoai nướng. Họ mời Xuân. Chàng lắc đầu từ chối. Đêm hôm qua xỉn quá rồi. Đám kia chùm nhum bên sòng bài cát tê hay xập xám chướng. Chàng biết vui ba ngày Tết, nhưng có anh em ra giêng sạch túi. Cấm cản cũng hông được. Mấy đại đội khác đều như vậy. Mấy bà vợ nhiều khi cũng có máu đỏ đen như chồng.  Qua mùng ba, hết Tết, hết hưu chiến. Tất cả phải trở lại như cũ.  Đêm đêm phải di chuyển chỗ ngủ, hết binh, hết tố.  Hông còn cù lũ, đồng hoa, suốt, ba tây, bù, chín nút gì ráo trọi…

Cái lều của cô Mận hổng còn ở góc bụi chuối gần sát bên Xuân. Đồ đạc được tem tém. Buổi ăn trưa chỉ còn hai thầy trò.
- Ủa! Cô Mận đâu rồi? Mừng.
- Nó với mấy bà vợ lính về quê ăn Tết. Họ theo xe đò đi từ khuya. Nó nói đi sớm về đến Cần Thơ cho khỏe, với lại gửi lời chào Trung Úy. Ra giêng, họ kêu công gặt rồi.
Xuân ngưng đũa, cầm chén cơm nghĩ đến chuyện đêm qua. Cô Mận chớ hổng ai trồng khoai đất này. Cô gái miệt vườn này ghê thiệt! Hông hiểu cổ để ý mình từ lúc nào. Cũng em em như Loan, Khanh, Vân. Các cô này nhiều khi vượt ra ngoài lề lối…
 
****
Buổi trưa bến xe Chợ Lớn đầy nhung nhúc người. Và xe tới bến.  Rồi xe đi. Hông bao giờ ngớt. Cuộc sống có nhiều cơ cực vì ngăn sông cấm chợ, nhưng người ta cố tìm đủ mọi cách luồn lách để mà sống. Chỉ có cái là đi buôn lậu. Họ tìm mọi cách qua mặt quản lý thị trường. Giấu hàng đủ mọi nơi trong xe chở khách, mọi chỗ trong thân người. Đút lót, quà cáp khi qua mỗi trạm.
- Mừng! Mừng! Anh đi đâu đây?
- Trời ơi! Ông thầy còn sống hả?
- Chết hồi nào đâu? Còn sống nhăn răng đây.
- Vậy mà sau năm 1975, tui ở miền Tây, người ta đồn Sư Đoàn 18 bị banh ta lông ở trận Long Khánh hết rồi. Tui nghĩ chắc ông thầy cũng hông chạy đâu khỏi. Rồi ông thầy đi cải tạo có lâu hông?
- Đủ nếm mùi tù VC. Bây giờ anh làm gì?
- Đang làm lơ xe đò. Xe lúc nầy vô quốc doanh ráo trọi thành thử đói lắm. Xe tui chạy chui. Tui phải bán thêm thứ khác đủ nuôi mấy đứa nhỏ và thằng cháu này.
- Thằng cháu nầy con của ai?
- Con của con Mận đó ông thầy!
- Cổ ra sao rồi. Chồng cổ chết rồi hả?
- Em tui có chồng con gì đâu!

Đầu năm đó, Mận ở Long Khánh về. Mấy tháng sau thì cái bụng nổi lên chình ình. Ở nhà hỏi: có chửa với ai. Em tui hổng nói. Mặt mày buồn so. Tới kỳ sanh đẻ xong rồi ở vậy nuôi thằng này cho đến trọng tuổi thì bị ban cua chết. May là lúc đó tui đổi về gần nhà nên mang thằng nhỏ dìa nuôi cho đến bây giờ. Nó theo tui phụ lơ kiếm chút đỉnh sống qua ngày. À, mà ông thầy, ngộ nghen! Lúc nghe tin đồn Sư Đoàn 18 bị thua trận, em tui buồn rũ rượi. Ngày ngày, Mận nó đốt nhang khấn vái hoài.
 

Phùng Xuân giật mình ngó qua thằng nhỏ cũng cở trạc tuổi hai mươi. Từ năm 1966, 1967 đến giờ cũng tròn trèm hai mươi năm. Nó có vẻ cũng hao hao giống mình. Mà biết có phải con mình trong cái đêm hôm mình say rượu hông? Chàng bán tín bán nghi ngó nó một hồi lâu.
- Ông thầy làm cái gì nhìn thằng Phùng dữ vậy?Bộ nó  giống ông thầy lắm hả?
         
Phùng Xuân thót mình quay lại, ngó thấy Mừng chúm chím cười. Xuân đoán Mừng nghi ngờ điều gì. Cái gì cũng có thể được, nhưng có cái hông có thể được?

Sao cuộc đời nhà binh mình đa đoan nhiều quá vậy?Xuân gây buồn phiền cho bao nhiêu người?Từ lúc mới ra đơn vị đã nhìn thấy Hiền chết ngay trước mặt mình. Chuyện của Mận có phải tại mình hông?Cái hông thể biến thành cái có thể. Thằng Phùng đang trờ trờ trước mặt mình đây mà! Xuân có nên nói thật câu chuyện đã xảy ra cho Mừng nghe hôn? Mà chắc gì Mừng tin. Nó đâu có nghĩ là em mình dám làm điều đó. Có khi nó còn nghĩ ngược lại. Ông thầy coi em tui như gái qua đường, chơi rồi bỏ. Như thế lại càng khổ cho mình nữa. “Làm sao đây hở cô Mận?”. Tui đành có lỗi với cô. Dù sao cũng cảm ơn cô. Những ngày tháng nằm kế bên võng của cô, nghe những bài ca vọng cổ mùi mẫn của cô cũng làm cho tui đỡ buồn. Tình yêu thời chiến tranh của cô quá bồng bột, hông tính toán. Thiệt tình tui hông ngờ được.
 
Lê Phùng Xuân
(Trích trong Trăng Suông)

(1)Xin ghi chú cho rõ thêm:
Ở cấp đại đội binh chủng Bộ binh (không rõ ở những binh chủng khác: Nhảy Dù,Biệt Động quân…)
-Trong trường hợp không có đi hành quân, người hạ sĩ quan thường vụ đại đội (thường là Thượng sỉ hoặc Trung sĩ nhứt) mỗi ngày cấp phát cho lính một ca gạo vì sợ lính đào ngũ và tiện việc điểm danh luôn.
-Nếu có đi hành quân cùng tiểu đoàn- thí dụ ba bốn ngày- thì cấp phát một lượt ba hay bốn ca gạo. Người lính thường có cái bao dài kêu là ruột tượng, đổ gạo vào trong đó. Thường là họ quấn quanh cổ hoặc đeo vòng ba lô nặng khoảng 10 kg. Ba lô chứa vật dụng sinh hoạt hàng ngày: nồi niêu,đồ ăn,quần áo,võng,poncho. Cộng với súng đạn mang theo thì người lính di chuyển trong rừng sâu rất vất vả.
 

-Có khi đại đội đóng quân ở xa Tiểu Đoàn, gạo được cấp một tháng cùng một lượt với tiền lương
-Ngoài phần gạo có hàng ngày, họ còn có thêm tiền: củi, mỡ, trà…Nhưng phần này, người lính không bao giờ biết (các ông Thường vụ dại gì cho lính biết!). Ngay các sĩ quan trẻ mới ra trường được làm đại đội trưởng cũng không ai chỉ cho điều này. Thường bàn giao cho nhau chỉ là bàn giao chức vụ, còn “mánh lới” ăn bòn rút hông ai chỉ đâu. Nếu gặp một ông Thường vụ nhơn từ (hiếm…hiếm lắm!) thì ổng nói cho biết. Gặp trường họp này, ít tháng sau, khi có đủ số tiền khá khá thì người đại trưởng(cũng nhơn từ như ông Thường vụ!) ra lệnh chia đều lại cho lính.