Người Phương Nam
Pages
- Trang Chủ
- About Me
- Truyện Ngắn
- Sưu Tầm
- Sưu Tầm from 2020
- Góp Nhặt Bên Đường
- Nhạc Chọn Lọc
- Sưu Tầm Sức Khỏe
- NPN's Recipes
- Trang Người Phương Nam
- Cười Ý Nhị
- PPS + YouTube Chọn Lọc
- Những Hình Ảnh Ý Nghĩa
- Thơ
- Thơ from 2020
- Bùi Phương Lưu Niệm
- Trang Anh Ngữ
- Truyện Dài : Về Phương Trời Cũ
- Truyện Dài : Ngày Tháng Buồn Hiu
Saturday, April 12, 2025
Người Dũng Cảm
Tại xóm nọ có cặp vợ chồng trẻ mới cưới. Thời gian trôi qua, người vợ mang thai sinh được một trai.
Đưa vợ từ nhà hộ sinh về, anh chồng bị vợ mắng một hơi, không hiểu tại sao vợ mình lại nổi giận đến thế.
Vợ anh giải thích:
Sáu tháng sau, anh chồng vẫn không dám đụng chạm đến vợ vì sợ vợ mình phải chết do súng đạn.
Bỗng một đêm, trong lúc ngủ say, anh chồng giật mình vì có người chui vào mùng mình.
Anh nạt lớn:
- Ai đó ?
Cô vợ trả lời:
- Em !
- Em là ai ?
- Em là người ... không sợ súng đạn
From Kim Hoa Bà Bà
Tôi Đi Lính - CSVSQ Vũ Ngọc Linh
Cái thuở mà quốc lộ 1 được gọi văn
hoa là “con đường cái quan” hay còn gọi là quan lộ. Tính từ sông Bến Hải (vùng
phi quân sự) ta có thể đi dọc suốt 1 lèo qua các đèo Hải Vân, đèo Cả, tỉnh
Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng... vào tới miền Nam VNCH. Rồi từ thủ đô Sài Gòn ta cứ
phom phom đổ xuống miền đồng bằng ruộng lúa phì nhiêu cò bay thẳng cánh tôm cá
đầu đồng. Ấy là ta đi xe đò, còn nếu ta đi xe lửa thì vẫn theo thiết lộ Bắc
-Nam, tới Sài Gòn, ta đi về Mỹ Tho hay tới Phan Rang ta đi xe lửa có răng cưa
lên Đà Lạt. Thậm chí ta còn dùng quốc lộ 1 bon bon tới Nam Vang, thủ đô của
nước Cao Miên láng giềng của chúng ta. Thoải mái ung dung tự tại, của một “non
nước hữu tình.” Cuộc sống êm đềm, trong cảnh đất nước thanh bình, chính phủ vì
dân mà lo cho dân sao cho có một cuốc sống sung túc, phát triển về mọi mặt. Cho
đến một hôm:
“Vài hàng gởi anh trìu mến, vừa rồi
làng có truyền tin,
nói rằng nước non đang mong, đi quân
dịch là thương nòi giống....”
Cho tới bây giờ thú thật, tôi cũng
quên mất tên tác giả lẫn nhan đề bài hát nhưng mục đích của bài hát là có ý
khuyến khích tuyên truyền cho tầng lớp thanh niên đang sống trong một quốc gia
pháp trị tới tuổi hiến định (21 tuổi) thì tự nguyện thi hành quân dịch, nghĩa
là... đi lính. Đi lính mà tươi cười, vui vẻ lại lâu lâu có các em gái hậu
phương chờ đợi. Nuôi tằm dệt vải hay nương rẫy vườn tược ngày ngày chờ đợi anh
trai tiền tuyến sau một vài năm đi quân dịch trở về mái nhà xưa sum họp trong
cuộc sống thanh bình êm ả. Lãng mạn, thơ mộng quá đi chứ các bạn??
Tuy nhiên, đất bằng dậy sóng. “Tạo
hóa gây chi cuộc hí trường.” Hàng ngày từ các phương tiện truyền thông của
chính phủ VNCH đã bắt đầu đưa tin chiến sự đó đây tuy không lớn và sôi động
lắm. Chẳng hạn như lâu lâu có tin Việt cộng đắp mô chỗ này chỗ nọ,chặn đường
đặt mìn, phá thiết lộ, giật sập cầu... Các đài phát thanh trổi những điệu nhạc
quân hành, ca khúc chiến đấu...
Dầu vậy, tôi vẫn ngày hai buổi tới
trường, yên ổn sống trong một ngôi làng nửa quê nửa tỉnh ven đô thành Sài Gòn.
Thỉnh thoảng anh em bạn bè họp nhau bàn qua tính lại bèn khăn gói đồ đạc balô
đeo vai leo lên con ngựa sắt đạp xe vô rừng cao su cách nhà chừng hơn chục cây
số để cắm trại với nhau, ca hát nô đùa trong vài ngày cuối tuần. Hồn nhiên vô
tư lự, thoải mái vô cùng. Tưởng chừng như chung quanh mình chỉ còn ta với chim
muông cây cối. Thiên nhiên hào sảng cho ta sự trong lành, tươi mát. Ôi cuộc
sống sao mà thần tiên thế ru.
Cách nhà tôi khoảng vài cây số, có
một trại lính thành lập lúc nào tôi không rõ, lính gì tôi cũng không hay nhưng
cứ đến đêm khi lũ trẻ con chúng tôi lên leo giường ngủ thì từng đoàn quân tập
trận di chuyển qua nhà chúng tôi. Họ vừa đi, súng ống chạm nhau lạch cạch, vừa
hát. Nay tôi còn nhớ được bài hát có lời như sau: “Tiến quân lên đoàn cọp biển
oai hùng, lính mũ xanh đây người trai anh dũng...” Sau này tôi được biết là
trại lính đó là trại huấn luyện của Thủy Quân Lục Chiến được bàn giao lại cho 1
đơn vị Biệt Động Quân và họ dời lên căn cứ Sóng Thần. Chả thế mà tôi chứng kiến
các lớp đàn anh trong xóm tôi lớn lên hầu hết đều tình nguyện đi lính Thủy Quân
Lục Chiến.
Tình cờ một hôm có ông chú ở tuốt
trên Bảo Lộc ghé qua nhà tôi chơi, trong bữa ăn, tôi nghe loáng thoáng đâu như
là chú tôi tạt qua để chào từ giã anh chị và các cháu để đi... quân dịch. Chú
có vẻ lo lo, anh em tôi bàn tán xôn xao còn bố tôi bình thản “phán” 1 câu xanh
rờn:
– Chú cứ yên tâm, đừng lo gì cả, vào
lính người ta lo cho chú hết mọi sự, sống tập thể cho nó quen đi.
Số là bố tôi gốc từ quân đội sang,
ông kể là đã từng làm đại đội phó khi ông Nguyễn Bảo Trị là trung úy đại đội
trưởng (sau này ông Nguyễn Bảo Trị lên tới trung tướng). Bố tôi giải ngũ rất
sớm, trở về dân sự làm công chức của Bộ Y Tế. Nhưng vì gốc quân đội nên ông lại
biệt phái cho Cục Quân Y, làm việc ở một quân y viện gần nhà. Bố tôi nói tiếp:
– Bất quá chú đi lính vài năm rồi
giải ngũ, về nhà lấy vợ (chú tôi còn độc thân). Còn lũ Việt Minh (ông quen gọi
bọn VC là Việt Minh), chẳng qua chúng nó chỉ như bọn chó cắn trộm, có vài ba
cây súng mút cơ tông, cắc bọp vài ba tiếng vu vơ rồi trốn chui trốn nhủi như lũ
chuột nhắt ấy mà!....
Thế là chú tôi lên đường nhập ngũ,
ông đi lính như thế nào sống ra sao, đóng quân ở đâu anh em chúng tôi chẳng ai
hay. Chỉ một lần bưu điện mang tới nhà tôi một phong bì của chú trong đó có
hình chú tôi chụp đang đội nón sắt, vai mang balô lại còn cây súng đeo trên
vai. Trông oai ra phết. Với vài hàng ghi chú là chú sắp tới ngày giải ngũ rồi.
Tôi tính ra là từ ngày chú từ giã gia đình tôi ra đi tới nay mới có gần 2 năm
chứ mấy. Hỏi bố tôi thì ông bảo là đi quân dịch có 2 năm thôi là giải ngũ, về
làm dân tha hồ làm ăn chẳng ai phiền hà mình chi cả. Nhưng sao hơn 2 năm rồi mà
chú tôi vẫn chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Rồi chẳng ai quan tâm tới việc chú tôi
có còn ở quân ngũ hay không thì bỗng nhiên chú tôi như ở đâu hiện ra có vẻ như
bí hiểm và có vẻ gì hơi là lạ không bình thường. Trong bữa cơm, chú tôi cho bố
mẹ tôi biết là:
– Sau khi tình nguyện đi lính gọi là
đăng lính đi quân dịch 2 năm theo như luật định, em ở trong quân đội tới gần 3
năm, thấy chẳng nói năng gì, người ta bắt em phải tái đăng. Em không chịu, cho
là chính phủ không giữ lời hứa, bất tín. Mà chính phủ bất tín thì em tự quyết
định lấy cuộc đời mình. Có nghĩa là em tự ý bỏ về ra khỏi lính luôn.
Bố tôi bảo:
– Như thế là chú đào ngũ rồi đó chú
có biết không?
Chú trả lời:
– Em chẳng cần.
Bố tôi là người luôn luôn tôn trong
luật pháp nên ông khuyên chú tôi nên ra đầu thú chớ không thì phiền hà lắm. Chú
tôi ừ hử cho qua rồi ngày ngày ở nhà tôi bày cho anh em chúng tôi nhiều trò
chơi mới lạ, kể cho anh em chúng tôi những sinh hoạt của chú trong quân ngũ.
Một hôm, bố tôi đi làm về với 1 xe jeep chung với mấy ông lính khác, mọi người
vào nhà tôi thì thào to nhỏ gì với nhau một lúc thấy chú tôi ra xe rồi một làn
bụi đỏ cuốn theo xe mang theo chú tôi.
Vẫn theo bố tôi thì chính bố tôi gọi
quân cảnh tới điệu chú tôi đi... ra tòa vào quân lao. Vài tuần sau anh em tôi
lại thấy ông xuất hiện thoải mái vui vẻ cười nói huyên thuyên cho biết là khi
xe quân cảnh chở chú tôi tạm giam vài bữa trong quân lao rồi ông ra tòa được
tha bổng. Trở về dân sự, ông quay về Bảo Lộc lập gia đình có con và làm ăn coi
bộ khấm khá. Nhưng, vẫn là nhưng, có lẽ do lòng nhiệt thành với non sông đất
nước, ông tình nguyện nhận chức phó xã trưởng đặc trách an ninh. Vào ngày bầu
cử Quốc Hội Lập Hiến 1966, trong khi đi tuần giữ an ninh cho các phòng phiếu,
ông bị bọn Việt Cộng phục kích bắn chết. Nghe tin chú tử trận, bố tôi buồn một
thời gian khá lâu vì ông rất thương chú tôi, có lẽ vì tánh chú tôi rất vui vẻ
hòa nhã, thắng thắn bộc trực.
Các biến động và xáo trộn chính trị
ở miền Nam VNCH kéo theo giấc mộng xâm lăng nhằm xích hóa (nhuộm đỏ) cả nước
nhất là miền Nam của bọnCSBV khiến cho đất nước ngày càng phân hóa, bất ổn,
lòng dân ly tán.
Trên trang nhất của các nhật báo ở
miền Nam thì tin chiến sự đó đây từ vùng phi quân sự, cao nguyên trung phần cho
đến vùng đồng bằng sông Cửu Long bao giờ cũng chiếm hàng đầu, tin trận đánh
lớn, trận đánh nhỏ. Sự xâm lăng mở rộng chiến tranh ở miền Nam của bọn CSBV
được hệ thống CSQT đỡ đầu khiến Hoa Kỳ và các nước đồng minh như Đại Hàn, Úc,
Tân Tây Lan, Thái Lan... gởi quân đội sang tham chiến bên cạnh các đơn vị
QLVNCH.
Gia đình chúng tôi tuy sống ở ven đô
nhưng hàng ngày vẫn chứng kiến đủ loại máy bay quân sự bay nườm nượp trên trời.
Cho nên anh em chúng tôi bèn có cái trò sưu tập các loại máy bay quân sự. Cho
nên khi chiếc nào bay ngang qua, hầu như chúng tôi có thể nói vanh vách ra tên
nó là loại nào (từ trực thăng, phản lực, vận tải...). Đêm đêm tiếng súng lớn
nhỏ từ xa vọng về làm người thành phố giật thót mình chợt bàng hoàng khi nghĩ
tới những người thân của mình ở tuyến đầu xa xôi nơi chiến trường kia đang phải
đối đầu với cái chết trong từng gang tấc. Không biết làm gì hơn mà cũng không
dám nghĩ xa hơn. Có những lúc nhà cửa trong thành phố nhất là những nhà nào có
cửa bằng kính chợt rung lên từng chập từng hồi bởi những đợt oanh kích của các
pháo đài bay B52 tại các mật khu.
Riêng anh em chúng tôi vẫn an tâm
ngày hai buổi đến trường mài đũng quần. Tuy nhiên từ các phương tiên truyền
thông như đài phát thanh, truyền hình, loa phóng thanh... phát đi những bản
nhạc chiến đấu, nhạc hùng nhiều hơn. Đài truyền hình chiếu các phim thời sự
(chiến trường), phim chiến tranh nhiều hơn khiến bọn học sinh sinh viên chúng
tôi cảm thấy không khí chiến tranh đến gần, đe dọa chết chóc quanh quẩn đâu
đây. Góp phần vào những xáo trộn sẵn có, lâu lâu lại nghe tin bọn VC hay khủng
bố pháo kích vào thành phố vào trường học làm người thành phố bắt đầu phải đào
hầm chống pháo kích, làm hầm trú ẩn trong nhà khi có bom rơi đạn lạc. Bọn khủng
bố cũng đã đặt chất nổ phá hoại một số building, công sở. Lũ phản chiến xách
động biểu tình, đòi đình công bãi thị. Rồi phong trào này, tổ chức nọ ra tuyên
cáo tuyên bố lung tung beng, yêu sách này yêu sách nọ. Phải chăng sống trong
một đất nước có dân chủ, nhân bản được tôn trọng người ta mới dám có những hành
động công khai như thế chăng? Trong không khí xáo trộn rối ren như thế, thử hỏi
làm sao đất nước phát triển cho nổi, anh chị em SVHS chúng tôi có yên tâm học
hành được chăng?
Dầu vậy, tuổi hoa niên bao giờ cũng
vẫn đầy nhiệt tâm. Thấy đó lại quên đó, nên lâu lâu chúng tôi vẫn lại balô gậy
gộc cuốc xẻng nồi niêu xoong chảo... cùng với con ngựa sắt và vài chục anh em
đồng trang lứa rời thành phố ồn ào bụi bặm, đạp xe tới khu rừng nào đó còn yên
tĩnh chưa bị không khí chiến tranh đe dọa. Họp nhau cắm trại, ca hát, múa may
vài ngày. Khi con em binh sĩ trong các trại gia binh được đoàn ngũ hóa, tổ chức
sinh hoạt theo phương pháp giáodục của phong trào Hướng Đạo thì chúng tôi lại được
mời vào giúp các em sinh hoạt tập thể: ca hát, nhảy múa, học hỏi kỹ năng chuyên
môn, sống ngoài thiên nhiên trong độ tuổi của các em.
Trong lúc bạn bè cùng trang lứa
ngày đêm miệt mài gạo bài, ưu tư vì sợ thi rớt phải đi lính theo lệnh tổng động
viên của chính phủ và Bộ Quốc Phòng, thậm chí còn có 1 Tổng Nha Động Viên được
thành lập để thông tin, cổ võ, vận động cho việc đi lính hay các điều kiện được
hoãn dịch vì lý do học vấn, gia cảnh, tu sĩ... kể cả các điều kiện gọi nhập ngũ
theo học các khóa hạ sĩ quan hay sĩ quan. Thấy tôi hay khoác bộ đồng phục Hướng
Đạo để đi sinh hoạt hay đi cắm trại, tụi nó hay hỏi:
– Ê! Vậy chứ mày đi HĐ có được hoãn
dịch không?
Tôi hơi sững người một chút rồi cười
cười đáp lại:
– Chẳng những không được hoãn dịch
mà nếu được gọi động viên thì còn mau mau đi cho... lẹ.
Tụi nó chẳng hiểu cái mô tê gì ráo
trọi còn nói là vậy thì đi HD làm gì cho mất thời gian, tốn tiền, không có giờ
học bài... mà tôi nghĩ cũng chẳng rỗi hơi đâu mà giải thích dài dòng khi người
ta coi đi lính như một sự đày ải, đe dọa, chết chóc... mà quên hoặc cố tình
không biết rằng bổn phận người trai thời loạn nó cao cả thiêng liêng vô cùng.
Dĩ nhiên gian khổ, thiếu thốn là chuyện phải có.
Nói thì “ngon” vậy đó nhưng thú thật
tôi vẫn chưa biết đời lính nó như thế nào mặc dầu sách báo, âm nhạc tiểu
thuyết, các phương tiện truyền thông nói tới hà rầm. Cả các lớp đàn anh, bạn bè
trong xóm đã đi lính trước một thời gian, gặp nhau kể đủ thứ chuyện đời lính,
chuyện chiến trường. Nhưng tôi nghe tai này lọt sang tai kia rồi quên tuốt
luốt. Có lẽ “đoạn trường ai có qua cầu mới hay.” Vào lúc các kỳ thi, lo cắm đầu
cắm cổ học miệt mài, chui vào thư viện quên giờ quên giấc quên ăn quên ngủ. Đến
nỗi quên cả giờ hẹn hò với mấy cô bạn gái. Song song với sinh hoạt diễn ra hàng
ngày tôi thấy các lớp đàn anh, bạn bè trong xóm thưa dần. Lâu lâu thấy có người
xuất hiện mặc bộ quân phục rằn ri hay màu xanh kaki có cả quân phục Hải Quân,
Không Quân nữa. Họ đội nhiều loại mũ nón khác nhau: nâu, đen, xanh lá cây, đỏ,
mũ lưỡi trai, casquette...Có cả một loại nón rộng vành mà người ta gọi là nón
vải đi rừng hay còn có người còn gọi là nón bo. Tôi cũng chẳng để ý làm gì. Chỉ
lo miệt mài đục nhau với mấy cuốn sách.
Đùng một cái, bọn CSBV lại vượt sông
Bến Hải xâm lăng miền Nam VN, chúng mở các mặt trận lan rộng như Quảng Trị,
Kontum, Bình Long vào mùa hè đỏ lửa 1972...Thế là chính phủ (cả Quốc Hội lẫn
hành pháp) ra lệnh đôn quân. Bọn tôi trong hạn tuổi luật định: đậu rớt gì thì
cũng đi lính; trong giới SVHS chúng tôi hay nói với nhau như vậy. Tuy nhiên vẫn
có những luật trừ theo những thông tư thông báo, nghị định của chính phủ để
được hoãn dịch như hoãn gia cảnh, tôn giáo, học vấn... Sau này tôi mới khám phá
ra nhiều cơ sở tôn giáo lợi dụng kẽ hở của luật pháp mà chứa chấp khá nhiều
thanh niên trốn quân dịch, từ sống bất hợp pháp mà trở thành sống hợp pháp
trong đó không loại trừ nhiều thành phần bất hảo trà trộn vào. Đó là chuyện về
sau.
Theo lệnh gọi của Nha Tổng Động Viên
và Bộ Quốc Phòng thì tôi phải trình diện nhập ngũ vào tháng Tám, 1972. Khi chiến cuộc lan rộng, bố tôi còn bảo là
tới khi thằng Linh mà phải đi lính thì chắc hết thanh niên rồi. Tôi hiểu chẳng
qua cũng chỉ vì ông ưu tư và lo lắng cho tương lai vận mệnh của con cái mà
thôi. Còn mẹ tôi thì hàng ngày bà cứ cầu nguyện với Đấng Tối Cao, với ơn trên
ban cho đất nước được thanh bình,con cái bà sống trong yên ổn. Có điều thỉnh
thoảng thấy có vài chiếc xe nhà binh (GMC) chở chiếc quan tài phủ lá cờ quốc
gia trên đó chạy vòng vòng. Trong xóm có vài anh đi lính tử trận được mang xác
về mai táng, thấy lính tráng tới kèn trống, làm lễ truy điệu rất là trang trọng
uy nghi. Các điệu nhạc nghe thấy nổi cả gai ốc nhưng rất cảm động.
Đồng thời với những hoàn cảnh trên,
tôi thấy có nhiều gia đình bạn bè cùng trang lứa mà thân nhân của họ có địa vị,
chức quyền, tiền bạc thế lực. Họ lo cho con cái họ thoát khỏi đi lính bằng cách
sắp xếp cho chúng nó xuất ngoại, đi du học, mặc dầu nhiều đứa dốt như con lừa.
Mà sau này chính một số không nhỏ những thành phần đó có khuynh hướng thiên
Cộng, chúng nó đã có những hành động đâm sau lưng chiến sĩ. Lịch sử đã cho thấy
rõ bộ mặt đểu cáng của chúng nó.
Sắp tới ngày trình diện, tôi tới từ
giã cô bạn gái để đi... lính. Nàng hỏi một câu rất là con gái:
– Thế anh đi lính mấy tuần rồi về
hả?
Tôi chẳng biết trả lời ra sao cho ổn
thỏa, chỉ nói trớ:
– Theo như luật định thì anh được
gọi và xếp vào tài khóa sĩ quan, có lẽ sẽ học ở Thủ Đức. (Lúc này tôi còn chưa
biết là có khá nhiều khóa đào tạo sĩ quan QLVNCH học ở trường Đồng Đế, Nha
Trang).
Nàng nhận xét rất là ngây thơ:
– Ơ, nếu anh là sĩ quan thì có xe
díp, có tài xế riêng lái xe cho mình. Thế nào em cũng được đi theo anh nhiều
nơi. Mà học có cực lắm không anh? Em nghe nói sĩ quan các anh nhiều đào lắm
phải không? Hết cô nọ tới cô kia phải không? Nhớ đừng có lôi thôi à nghen!
Tôi ú ớ với một lô một lốc câu hỏi
của nàng, chỉ ậm à ậm ừ cho qua truông vì trường đời mình có biết cái quái gì
đâu, quanh năm suốt tháng chỉ biết lo học và đi cắm trại. Tôi chỉ nói ít lời từ
giã, chẳng nhắn nhủ gì chỉ nhắc là cứ nhớ tới nhau, nếu có địa chỉ thì viết cho
nhau vài lá thư. Có vậy mà nàng thút thít sụt sùi một thôi một hồi làm tôi cứ
đực mặt ra như... trời trồng.
Với các em Sói con và HĐS tôi đang
sinh hoạt thì một buổi lễ tiễn biệt chia tay khá là thân mật và cảm động. Có em
chạy lại ôm cứng lấy tôi làm như tôi sắp biến mất trên cõi đời này không bằng.
Rồi ngày đi cũng phải tới. Hôm trước
khi đi tôi còn nghe nói đâu như là vì gọi nhập ngũ nhiều quá, các quân trường
sĩ quan không đủ chỗ huấn luyện, chỉ đi trình diện rồi lấy phép về nhà chơi 45
ngày, sau đó chưa có tài khóa lại tiếp tục 45 ngày phép nữa. Mà lại có lương
nữa chứ. Ơ hay, sao “đã” quá thế? Thôi thì tới đâu hay tới đó. Tôi ngồi nói
chuyện lai rai tâm sự với các em, lấy cái giỏ, bỏ vào đó vào cuốn sách, một
cuốn sổ tay, bàn chải và kem đánh răng. Mẹ tôi lo lắng đi ra đi vào, lấy hết
cái này cái nọ. Nào là quần áo, chai dầu gió, cái lược... Bà cứ tất tưởi mà
buồn rười rượi. Bố tôi luôn luôn ngắn gọn: “Đưa cho nó ít tiền tiêu vặt, vào
quân đội nó trang bị cho mọi thứ, không phải lo.” Mà y như rằng, không sai một
ly ông cụ nào. Có một vật bất ly thân của mấy anh con trai đó là cái lược, khi
vào lính, nhất là ở quân trường tóc hớt có hai phân thì cái lược nó thất
nghiệp.
Vì cư ngụ ở tỉnh Gia Định, tôi đi xe lam tới Phòng Tuyển Mộ và Nhập Ngũ Gia Định để trình diện, tưởng sẽ bị hạch hỏi điều tra này nọ. Nhưng không, chỉ đưa cái thẻ căn cước, bản sao văn bằng cao nhất (tú tài hay các chứng chỉ đại học) thẻ lược giải cá nhân. Thế là xong, nghĩa là đã trình diện nhập ngũ, người ta lấy giấy tờ của tôi, hí hoáy, đánh máy một lúc rồi trả lại tôi cái thẻ căn cước. Sau đó tôi thơ thẩn trong khu vực của Phòng Tuyển Mộ. Đồng thời cũng thấy có vài anh trạc tuổi ngơ ngác vào làm những việc y như mình. Thì ra họ cũng đi trình diện nhập ngũ với tài khóa sĩ quan như tôi. Để làm quen và cũng đỡ bỡ ngỡ, hỏi thăm nhau, chẳng thằng nào biết hơn thằng nào. Cho tới bây giờ, tôi chỉ còn nhớ 2 thằng, một là Đỗ Đình Nguyên sau này nó là thủ kỳ của ĐĐ 81 A ở Tiểu Đoàn Gia Long và cũng là thủ kỳ ĐĐ 31 ở Thủ Đức vì anh chàng này vừa to con vừa cao lớn. Một trự nữa là Phạm văn Chinh sau này nó đi diễn hành ngày quân lực ngay bên cạnh tôi. Lúc này mới có 10 giờ sáng. Thỉnh thoảng tôi thấy có chiếc xe díp của cảnh sát đậu xịch lại, bước xuống có một thầy đội áp giải một thanh niên 2 tay bị còng trước mặt, mở còng. Họ vào văn phòng làm thủ tục gì đó rồi có người dẫn độ anh chàng kia vào một cái phòng nhốt trong đó, khóa kín cửa lại. Thấy trong đó lố nhố dăm ba người. Hỏi ra đó là những thanh niên trốn quân dịch hay bất phục tùng bị cảnh sát bắt giao cho quân đội để đi lính.
Tới trưa, anh em chúng tôi được mời
vào phòng, được dọn cho mỗi người 1 bữa ăn trưa gồm đĩa cơm trắng, trứng vịt
chiên, vài lát cà chua, vài cọng rau xà lách và một trái chuối tráng miệng.
Phải chăng đây là bữa cơm đầu tiên trong đời lính? (Sau này ở ngoài trận địa,
nơi giữa cái sống cái chết cận kề nhau, được như vậy là thần tiên). Quanh quẩn
một hồi, tới xế chiều có một cái xe GMC trờ tới trước cái phòng có nhốt người.
Những người ở bên trong được gọi ra trước, ngồi bệt xuống sàn xe. Tôi đếm được
14 mạng. Còn bọn tôi, được gọi là tài nguyên sĩ quan có 7 mạng cũng được gọi
từng tên nhưng leo lên xe ngồi chễm chệ trên ghế (đúng là quân đội có giai
cấp), 2 anh lính áp tải ôm súng ngồi sau cùng. Xe chạy lòng vòng qua những phố
xá nhộn nhịp, đầy ắp xe cộ như mắc cửi. Tự nhủ trong lòng, thôi nhé từ nay hết
bay nhảy, thư viện, giảng đường, hẹn hò, dung dăng dung dẻ... Một hồi thấy cái
bảng Trung Tâm 3 Tuyển Mộ và Nhập Ngũ, chuyến xe định mệnh lăn bánh vào bên
trong. Không biết thiên hạ làm cái trò trống gì trong văn phòng, bọn tôi được
gọi xuống trước, nhìn xung quanh, thấy lố nhố những người là người. Ở đâu ra mà
nhiều thế? Mà cái trại tôi được đưa vào chỉ toàn là thành phần tài nguyên Sĩ
Quan không thôi. Chúng tôi được phát cho mỗi đứa một cái túi vải gọi là sac-marin,
một cái muỗng, một cái khay có chia dăm ba cái ô nhỏ để đựng cơm và đồ ăn. Đi
đâu cũng kè kè tha theo vì sợ... mất cắp. Mọi cái đều lạ lẫm, ơ hơ thế ra cuộc
đời lính của mình bắt đầu như thế này ru? Buổi tối, vì không biết cơm lính như
thế nào? Ăn ở đâu? Có ai dọn ra cho mình ăn không? Lớ ngớ như mán về thành,
đành nhịn đói. May có ít tiền trước khi đi mẹ tôi dúi cho, hỏi thăm xuống câu
lạc bộ mua đại ổ bánh mì nuốt cho đỡ đói, kiếm nước ở robinet, nước chảy như
mèo đái lại có mùi rỉ sét thấy mà lợm giọng. Tìm đại chỗ ngủ qua đêm. Do đi cắm
trại nhiều năm quen rồi nên đi đâu tôi cũng thủ sẵn cho mình một cái võng, tiện
đâu mắc lên đó, kiếm chỗ cột lại là... có chỗ ngủ rồi một giấc ngủ chập chờn
không dám mơ thấy nàng.
Vì lạ chỗ, trằn trọc hoài trên võng
ngủ không được thì kẻng báo thức vang lên từng hồi. Lồm cồm ngồi dậy, dọn dẹp
sơ sơ rồi đi kiếm chỗ giải quyết vệ sinh.Ôi thôi! Trong đời tôi gặp nhiều thứ
nhà cầu, đi giúp các trại tỵ nạn cũng nhiều nhưng chưa có chỗ nào mà vừa thấy
là tôi liền... đánh bài tẩu mã, nín tất cả mọi sự. Rồi lại tập họp, ông thượng
sĩ già gom lại một khối, gọi đi làm vệ sinh nhà cầu. Đứa thì đi, đứa thì lảng
ra. Ông ta la:
– Các anh làm vệ sinh cho các anh
chứ có đem các anh ta xử bắn đâu mà trốn với tránh!?
Ở gần khu vệ sinh có mấy cái hồ nước
dù nước chảy như... đái, nhưng lâu dần thì cũng đủ để dội những thứ cặn bã tống
khứ chúng nó đi, bọn tôi gọi nôm na là... thụt dầu hay lái phi thuyền. Chẳng
hiểu những từ ngữ lóng liếc này ở đâu ra, có từ hồi nào!
Lại tập họp, lần này là tập họp khám
sức khỏe. Thú thật là tôi chưa bao giờ thấy phe ta khám sức khỏe cho tân binh
(thanh niên) vừa nhanh vừa hiệu quả vừa đắc dụng như ở TT3 TM & NN. Cái
hàng rồng rắn đi từ phòng chụp hình (làm thẻ căn cước quân nhân) đến chụp hình
phổi rồi khám tổng quát... Chỉ đi không thôi cũng đủ hoàn tất. Tôi cũng không
kịp coi người ta chụp hình ra thế nào, cái số quân mình có nó được thiết lập ra
sao!! Vậy mà xài cho suốt đời lính, sau này nữa, không lầm lẫn với ai. Đang chờ
tới phiên chụp phổi thì thấy có người gọi tên: “Linh, Linh,” quay lại thì ra
thằng bạn trong xóm nó thi rớt Tú Tài 1 mấy năm trước. Nay khoác áo quân y, nó
nói là nếu tôi muốn hoãn dịch vì lý do sức khỏe, đưa cho nó ($) nó sửa hình
phổi cho. Tưởng gì, thì ra một trò tham nhũng hối lộ, nhìn cái bản mặt câng
câng của nó, chỉ muốn đấm vào mặt nó mấy cái cho bõ ghét. Xung quanh cái nhà
chụp hình phổi, người ta phơi phim phổi như phơi quần áo đợi cho khô.
Trong khi đứng xếp hàng, vì là tài
nguyên sĩ quan được xếp đứng chung với nhau, bọn tôi nghe đồn với nhau là Thủ
Đức thì không còn chỗ, Đồng Đế thì cũng chật luôn. Chắc người ta cho mình về 45
ngày phép chờ tài khóa hay là xuất ngũ... Chưa biết số phận bọn tôi đang ở đây
được định đoạt ra sao. Tới lúc khám tổng quát, thấy mấy hàng trước cứ tồng
ngồng như ông A-Dong, ngượng và mắc cỡ chín người. Ông bác sĩ còn nạt:
– Các anh đã vào đây còn bày đặt mắc
cỡ.
Mấy cô nữ trợ tá ngồi ở mấy cái bàn
gần đó mặt tỉnh bơ, có lẽ họ quen quá rồi. Cứ ngồi ôm mớ quần áo sau khi đã
thoát y, đi ngang qua ông bác sĩ (không còn nhớ vị nào) ổng lấy cái ống nghe
(stéthoscope) chấm chấm vào ngực từng thằng có lẽ không tới 5 giây đồng hồ một
trự. Có anh thắc mắc nói là bác sĩ chưa đeo ống vào tai, ổng trừng mắt rồi nạt:
– Anh biết gì mà thắc mắc?
Thế là nín khe. Sau đó là một màn
chim bay cò bay. Giơ chân giơ tay, lão đốc còn lấy cái que bật vào “bộ tư lệnh”
đã làm vài đứa ôm hạ bộ nhăn nhó. Tuy nhiên anh nào khiếu nại về sức khỏe
(thiếu ngón chân ngón tay hay gì gì đó...) thì đứng riêng ra một bên chờ tái
khám. Sau màn khám tổng quát hầu hết hồ sơ chúng tôi được đóng con mộc đỏ chói:
ĐSK (Đủ sức khỏe). Bọn tôi chân biếm là ĐỜI SẼ KHỔ, mà y như rằng.
Coi như xong màn nhập môn, giải tán
chờ ăn cơm trưa. Xuống nhà bàn (nhà ăn), nhìn xung quanh là thấy “no” luôn.
Nuốt gì nổi khi cá mối có mùi thum thủm, mùi đồ ăn lưu cữu từ bao nhiêu lâu,
v.v... Bèn ra câu lạc bộ cho xong. Lại đồn thổi là sẽ có phép 45 ngày, chờ lãnh
phép về vì bây giờ mình là lính rồi mà... Tới xế xế, khoảng 3 giờ chiều còi tập
họp nhận giấy phép. Giấy phép đâu không thấy, đồ đạc khiêng ra, quân phục, giày
vớ nón vải balô khăn mặt..những thứ cần thiết cá nhân của một người lính được đem
ra cấp cho chúng tôi.Cả mấy trăm mạng xúng xính trong mớ quần áo rộng thùng
thình. Lập tức có ngay những ông quân nhân cơ hữu tốt bụng đã sẵn sàng đổi một
số quần áo cho bạn vừa vặn với cơ thể bạn, mà bạn chỉ phải trả một số tiền túi
cũng không gì là quá đáng. Bao giờ xung quanh xác chết cũng có bầy kên kên và
hyana. Được biết vào giờ phút chót giấy phép bị hủy bỏ, mà chúng tôi sẽ được
cấp phát quân phục sang TTHL Quang Trung học giai đoạn 1 tài khóa Sĩ Quan khóa
8/72.
Nghe thì biết vậy thôi chứ bây giờ
ai bảo sao, lệnh phán như thế nào thì cứ răm rắp đố có đứa nào dám có ý kiến.
Một đoàn xe GMC (sau này mới biết là thiên hạ goi là Gái Muốn Chồng) tiến vào,
leo lên. Đoàn xe trực chỉ trại Nguyễn Tri Phương. Là trại chuyển tiếp trước khi
chính thức trở thành anh tân binh hay được gọi là Dự Bị Sĩ Quan.
Những anh đã từng học qua khóa huấn
luyện Sinh Viên Học Đường thì họ có kinh nghiệm hơn bọn lính mới tò te chúng
tôi. Tuy nhiên rồi đâu cũng vào đấy cả.
CSVSQ Vũ Ngọc Linh
Nguồn FB
Quốc Thể Cho Ai? - Nguyễn Tiến Tường
1. Thi thoảng nhìn tấm khăn len trên vai người con gái Việt ở miền Nga giá buốt, nghe một điệu hát quê hương bên ánh lửa xứ Lào, lòng tôi rức lên một cảm xúc hỗn mang.
Tôi vui vì đồng bào
tôi tìm được một nơi cho họ một cuộc sống khác. Tôi cũng buồn, trong mắt của
những người viễn xứ luôn có điều gì đó buồn bã, tiếc nuối.
Bạn tôi ở Úc, lấy vợ
Việt. Vợ 17 tuổi làm lễ rồi đợi đủ tuổi làm đăng ký. Đợi thêm vài năm để vượt
qua các cuộc sát hạch của xứ bạn. Họ kiểm tra cả những tấm hình trước kết hôn
để chắc rằng họ không đính hôn giả.
Anh tôi sang Úc tìm đường cho các con mai này. Anh làm công việc cắt thịt, làm cả hai ca, là
một điều cấm. Ngày làm đêm ngủ, bàn tay bấy máu. Anh live stream về cho chị,
hai người tươm nước mắt…
Những người quen tôi
những tháng đi về để giữ điều kiện nhập tịch. Họ bảo cô đơn và lạnh lẽo, buồn
lắm nhưng vì con.
2. Úc, Mỹ Canada… với
những chính sách nhập cư hà khắc, không còn là “thiên đường” của người Việt. Nó
chỉ còn rộng cửa với người giàu. Mỗi năm tầm 9 tỷ đô ra nước ngoài, theo các
chuyên gia. Và trong số những
người giàu đó, chắc rằng không ít quan chức.
Thiên đường thứ hai
của người Việt hiện tại hầu hết là Đông Âu, để lưu lại được vào Nhật, Hàn cực
khó. Mẹ bạn tôi ở Nga bao nhiêu năm, đến khi xế bóng muốn về quê nhưng hai bàn
tay trắng. May mắn sao bạn tôi có chút công danh như ý, đón mẹ về.
Nước Lào đang là lựa
chọn mới nổi. Người miền Trung sang
bên đó làm gỗ, làm ve chai. Mấy lúc nhàn rỗi lại về. Họ dắt díu nhau đi tìm đất sống. Nước
Lào hiền dịu cưu mang rất nhiều người con quê tôi.
Ly hương là lựa chọn nghiệt ngã. Càng nghiệt ngã hơn cho những con người “sống chui” nơi đất khách. Nép mình trong phòng sợ hãi. Chờ siêu thị hết giờ để lấy thịt hết hạn, ăn nội tạng mà người ta không ăn…
3. Tôi không cổ suý
đồng bào tôi ra đi. Nhưng tôi lấy gì để níu họ ở lại? Tôi nhìn vào thực tế đắng
cay: Ai cũng muốn ra đi. Tài năng chất xám ra đi, người giàu có ra đi, tôi chưa
bao giờ trách họ.
Tôi trách quốc gia. Một quốc gia để công dân của mình không có đất sống, phải ngậm
đắng ra đi lựa chọn cuối cùng. Quốc gia mà đến y tế và giáo dục người ta cũng
tìm đường tị nạn. Đến cả việc dồn dân
đô thị cũng không còn đất cho người nữa rồi.
Tôi trách quan chức. Họ cũng là
những kẻ ra đi. Nhưng là đi trong nhung gấm. Tài sản ở nước ngoài, con
cái ở nước ngoài. Tiền đó ở đâu? Chắc chắn là góp lại từ những mảnh đời
của nhân dân tôi lam lũ.
Nhân dân đánh bạc với
cuộc đời cũng chỉ để mong chắt mót một chút của cải từ viễn xứ mang về quê
hương, cho mình và cho người xung quanh mình. Họ có thể sai nhưng có gì đáng
tội?
So với quan chức vơ
vét quê hương để mang đi vương giả đầm ấm ở thiên đường, ai mới là tội phạm?
Quốc gia rừng vàng
biển bạc đã không nuôi nổi những công dân lương thiện. Để họ phải vượt sóng xé
trời tìm nơi khác. Quốc gia ấy lấy tư cách gì đòi hỏi nhân dân giữ gìn quốc thể?
Quan chức ăn là mặc
lượt đu bám những chuyến xuất ngoại. Quan chức mang cả vợ
con bằng tiền của nhân dân đi du lịch shopping có nghĩ đến quốc thể hay không?
Đừng nói về quốc thể. “Khi quốc thể của các người
là miếng bít tết vào mỗi buổi sáng, còn quốc thể của nhân dân là tô cơm hẩm cuối
chiều!”
Nguyễn Tiến Tường
Mẹ Tôi, Người Vợ Lính Miền Nam - Trang Diệp
Mẹ tôi sinh ra và lớn lên
trong một gia đình giàu có, ông bà ngoại là điền chủ ruộng cò bay thẳng cánh ở
miệt Phú Xuân Nhà Bè. Mẹ được ăn học ở thành phố, sau thời trung học ở trường
Gia Long rồi đến Đại học Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt.
Ba tôi lại sinh trưởng trong
gia đình nông dân nghèo khó, gia đình lại đông anh em, nhưng được cái Ba tôi học
giỏi, hiền lành và rất có hiếu. Cũng vì gia đình bên ngoại ngăn cản nên Ba tôi
"thất tình", đăng lính dù cổng trường Đại học Văn Khoa, Sư Phạm đang
rộng mở. Bà Ngoại làm mối cho Mẹ nhiều người nhưng Mẹ đều lắc đầu. Khi Ba tôi học
xong khóa sĩ quan Thủ Đức 16 và được thăng cấp bậc Đại Úy, và Mẹ tôi thì cũng "chưa
có ai" khi tuổi gần ba mươi. Có thể vì vậy mà bà ngoại tôi xiêu lòng và đồng
ý cho Ba Mẹ tôi lấy nhau vào những ngày cuối năm 1969.
Dù bị ngăn cản từ đầu và phải
qua nhiều khó khăn, thử thách, Ba Mẹ tôi mới đến được với nhau, nhưng sau đó,
Ba tôi lại là người con rể được bà Ngoại yêu quý nhất.
Cưới xong là Ba tôi ra mặt trận,
đi khắp các chiến trường miền Nam từ Quảng Trị, Khe Sanh đến Long Giao, Long
Khánh, Bình Long, Phước Long. Ngày tôi chào đời, Ba tôi còn chiến đấu tận bên
Lào, bên Cam Bốt. Ôi! Những người vợ lính thời chiến!
Chiến tranh leo thang trong
giai đoạn 70-74 thật khốc liệt. Mùa hè đỏ lửa 72, những trận đánh dữ dội ở Khe
Sanh, Bình Giã, Đồng Xoài..., tin tử trận dồn dập về từng giờ, từng ngày. Mẹ
như ngồi trên đống lửa. Mẹ vừa đi làm ở Tòa Đô Chánh vừa nuôi dạy chúng tôi và
trông ngóng tin tức của Ba ngoài mặt trận, đứng ngồi không yên.
Ngày mất miền Nam, Ba tôi đi
tù. Mẹ bụng mang dạ chửa, một mình sinh nở. Thằng em tôi ra đời vào tháng Sáu
năm đó, đúng lúc gia đình đau thương và túng quẫn nhất. Mẹ một thân một mình, mấy
đứa con còn nhỏ xíu, không tiền bạc. Với cái lý lịch "ngụy quyền" và
có chồng đi "học tập cải tạo" không còn nơi nào dám nhận Mẹ vào làm.
Mẹ xoay sở mọi cách để chúng tôi có cái ăn hàng ngày, đồ đạc trong nhà lần lượt
ra đi đến khi không còn gì có thể bán được, Mẹ phải đi bán hàng rong cực nhọc đủ
điều, nhưng Mẹ không có nửa lời than van.
Tôi còn nhớ, mỗi lần tết đến,
vì không có tiền mua quần áo mới cho chúng tôi, Mẹ ngồi cắt từng chiếc áo dài của
Mẹ khi xưa để may cho chúng tôi những bộ đồ mới đi chúc Tết họ hàng. Mẹ không
muốn chúng tôi buồn và tủi thân, một mình Mẹ cam chịu.
Sau vài năm bặt tin của Ba,
gia đình nhận được tin về người ở tận trại tù vùng Hoàng Liên Sơn Yên Bái, mẹ
tôi lại lo khăn gói lên đường thăm Ba. Thời đó, từ Nam ra Bắc quả là "gian
khổ chập chùng", phải đổi bao nhiêu chuyến tàu, chuyến xe, băng rừng lội
suối mới tới chỗ Ba tôi bị giam giữ. Thân trong lao tù, nhưng Ba luôn an ủi
khích lệ gia đình, cứ mỗi độ xuân về Ba lại gởi cho chúng tôi những bài thơ Ba
làm, khuyên nhủ dạy bảo chúng tôi.
Suốt tám năm ròng, Mẹ tôi tảo
tần nuôi con, nuôi chồng không quản thân mình. Có thời ngăn sông cấm chợ, Mẹ phải
gởi chúng tôi cho bà Nội, đi buôn chuyến Sài Gòn Phan Thiết. Sau mấy lần bị tịch
thu hàng, Mẹ tôi không còn vốn liếng đi buôn nữa nên tiếp tục việc chạy hàng
rong ngoài chợ. Tôi cũng ôm thùng cà-rem ngồi bán ở góc đường đầu ngõ cùng mấy
thứ bánh kẹo lặt vặt bán cho mấy đứa con nít trong xóm để kiếm thêm ít tiền phụ
mẹ phần nào.
Khi tới mùa lúa, Mẹ tôi về Nhà
Bè làm ruộng với gia đình cô tôi để được chia chút gạo trắng cho chúng tôi có
những bữa cơm không độn khoai mì, bo bo. Từng là tiểu thư thành phố, có ăn có học,
nhưng công việc nặng nhọc đã cướp đi vẻ quý phái của Mẹ tự khi nào. Nhìn mái
tóc điểm sương, đôi tay thô ráp, gương mặt hằn nỗi nhọc nhằn sớm tối của Mẹ,
chúng tôi thấy thương Mẹ vô cùng.
Hàng đêm trước khi ngủ, mấy mẹ
con trên một chiếc giường chật như nêm nhưng chúng tôi rất thích, không ai chịu
đi ra chỗ khác ngủ. Chúng tôi lớn dần theo những câu chuyện cổ tích của Mẹ kể.
Mẹ tôi đã bươn trong rác rưởi đọa đày mà đi, nhưng Mẹ vẫn dành cho chúng tôi những
niềm vui trẻ thơ, con cái vẫn là tài sản quý giá và quan trọng nhất đối với Người.
Mẹ muốn chị em chúng tôi biết yêu thương nhau, biết hy sinh chia xẻ cho nhau;
có ký ức tốt đẹp về tuổi thơ của mình; có kỷ niệm về gia đình êm ấm. Mẹ nói
"Con người ta nghèo nàn về vật chất không sao, nhưng ai nghèo nàn về tâm hồn
và tâm linh thì đáng tiếc lắm các con ạ. Mẹ muốn các con dù trong hoàn cảnh hiện
tại khó khăn đói nghèo, nhưng tâm hồn mình không nghèo nàn". Mẹ là người
đi góp nhặt từng niềm vui, tiếng cười cho chúng tôi trong những hoàn cảnh bi
thương nhất của cuộc đời.
Cuối cùng, sau bao nhiêu năm mỏi
mòn trông ngóng, Ba tôi trở về từ trại tù. Nhưng gia đình chúng tôi đoàn tụ chẳng
bao lâu thì Ba tôi từ trần, khi Mẹ mới vào cái tuổi bốn mươi hai. Nhiều tai nạn
dồn dập đổ xuống gia đình tôi, nhưng một lần nữa, vì chúng tôi, Mẹ không ngã gục.
Sau khi chúng tôi tới được đất
Mỹ, một lần nữa, vì con cháu, Mẹ đành bỏ lại quê hương, nơi Mẹ đã sống gần bảy
mươi năm; sang một đất nước xa xôi, lạ lẫm, bất đồng ngôn ngữ, văn hóa. Lòng Mẹ
đau đáu nhìn về nơi chôn nhau cắt rốn, đau xót; nơi ấy Ba tôi đã nằm xuống, mồ
im mả lạnh.
Cuộc đời của Mẹ tôi, cũng như
của tất cả những bà Mẹ Việt Nam cùng thời, buồn nhiều hơn vui. Thời chiến thì mất
chồng, mất con, sống trong cảnh đạn bom khói lửa và những cuộc di cư lánh nạn
triền miên; đến “thời bình” thì bị giam cầm, nghèo khổ trong trại tù lớn là cả
quê hương Việt Nam. Sang đến Mỹ, một đất nước giàu có, tự do thì lại làm những
công việc chân tay cực khổ, nuôi con ăn học. Nhưng khi con khôn lớn, lập gia
đình, thì cũng chỉ một mình mẹ trong căn nhà trống vắng.
Trong mùa lễ Vu Lan, tôi tự hứa
với lòng mình là sẽ làm mọi thứ để giữ nụ cười và chút niềm vui còn sót lại
trên gương mặt đã già nua và hằn những vết đau khổ của Mẹ.
Cầu mong cho những tháng ngày
còn lại của các bà mẹ được yên bình, vui vẻ bên cháu con.
Trang Diệp
Share Lại Người Lính Già TQLC
Friday, April 11, 2025
Chuyện Người Cựu Thiếu Sinh Quân - Người Phương Nam
Các em TSQ từ những năm 70 trở về sau đều biết huynh và xem huynh như là "thần tượng" của họ. Vì lúc đó huynh là Liên Đoàn Trưởng của Trường (có 1,400 TSQ). Huynh lại là Trưởng Ban Nhạc Nặng (quân nhạc), Trưởng Ban Nhạc Nhẹ (nhạc sân khấu) của trường. Năm 1971, huynh lại lãnh giải vô địch đai đen/Thái Cực Đạo/ cấp toàn quân. Thấy huynh "nổ" dữ chưa???...
Sau 75, Huynh chỉ đi "học tập cải tạo" 6 tháng, vì huynh "thức thời" biết người biết ta, khai mình là khóa sinh SVSQ tép riêu thôi chứ không dại gì khai thiệt để bị "cải tạo" mút mùa!. Sau đó, Huynh lại bị "nhốt" trở lại về tội "âm mưu lật đổ nhà nước cộng sản". Lần này, huynh lại được các em TSQ giải cứu. Trong số đó, có 1 em là cháu ngoại của Tổng Thống Trần văn Hương... đã "húc tù" và đưa huynh xa lìa VN.
Bây giờ thì muội biết thêm nhiều về cuộc đời của Huynh. Có lần, một cô em trong nhóm đã thắc mắc:
Huynh trả lời:
- Vì Huynh là đại huynh của tụi em, huynh phải làm gương cho tụi em biết lúc nào mình phải cần "buông xuống"... và phải biết "Tự Thắng Để Chỉ Huy"!!!...
Trong đời binh nghiệp của huynh, huynh được may mắn hơn nhiều đồng đội khác, tứ chi và ngũ quan của Huynh vẫn lành lặn... mặc dầu mình mẫy cũng thẹo tích tùm lum. Chưa phải là thương phế binh!. Cũng về Tổng Y Viện Cộng Hòa... để thăm bạn bè, chứ không hề "nằm" ở đó.
Cờ còn nước đánh... đã lưu vong!." (Thơ Thanh Nam)
Cám Ơn Một Người Đã Đi Qua - Lê Phùng Xuân
Bỏ nước ra đi
Sống đời lưu vong,
Phận mình nào có sá gì,
Thương người ở lại cu ky ôm sầu.
(Thiên ca bốn, Lê Phùng Xuân)
Khi Xuân trở về, cơn mưa đã dứt hột. Con đường trở nên lầy lội hơn. Bùn trền trệt như đám trái đười ươi bị mắc mưa. Chàng bước đi nặng nề. Hai chơn bang bang như đi hàng hai cho đỡ bị trượt té. Rút cuộc chàng cũng cà lê cà lết về tới lều. Hậu cứ tiểu đoàn nhỏ xíu. Hổng có trại gia binh. Các đại đội hông có chỗ trú quân. Họ chia nhau từng khu trong vườn cây cà phê, sầu riêng, mít của dân chúng quanh Xuân Lộc. Vành đai ấp chiến lược vẫn còn, nên đóng quân bên trong rất an toàn. Họ căn lều lụp xà lụp xụp dưới những tàng cây, che mưa che nắng. Độc thân chỉ cần một cái poncho và một cái võng là đủ. Những người lính có vợ phải che thêm những tấm ni lông cho rộng ra. Những ngày nắng ráo, hai vợ chồng nằm dưới đất. Những hôm mưa, họ treo võng kè kè sát bên nhau trong cái lều chật hẹp.