Saturday, December 20, 2025

#586 - Người Bị Ung Thư Cần Kiêng Thịt Đỏ? Nguy Hiểm Khi Nhịn Đánh Rắm, Ăn Lựu - Phạm Hiếu Liêm

9 Kiểu "ĂN" Dành Cho Đàn Ông

 

Cuộc đời một người đàn ông hầu hết gắn bó với chữ "Ăn".
1. Khi còn bé, thì "ăn học", "ăn vóc học hay", xin tiền ba mẹ mua quà không được thì "ăn vạ".
2. Lớn thêm chút nữa thì "ăn chơi", "ăn diện" để tán gái, nhưng "ăn nói bậy bạ" thì có khi "ăn bạt tai".
3. Lúc có bạn gái thì chăm chăm tìm cách "ăn thịt". 
4. Ăn thịt xong thì phải "ăn hỏi" rồi "ăn cưới". Cưới về phải tiến hành "ăn nằm". Sau một thời gian "ăn nằm" mới vỡ lẽ ra là từ nay phải "ăn đời ở kiếp" với người này. Thế là "ăn năn đã muộn". Cuộc đời kể như "ăn cám" hay "ăn khế trả vàng" hay đúng là số "ăn mày".
5. Khi vợ đến kỳ kinh nguyệt, đành phải "ăn chay", hoặc "ăn vụng".
6. Sau khi vợ sinh con thì phải "ăn kiêng", về già rụng răng phải "ăn cháo", xa thêm tí nữa thì theo các cụ mà "ăn xôi".
7. Khi "ăn nên làm ra" thì "ăn sung mặc sướng", rồi sanh tật "ăn gian", nói dối vợ là đi "ăn cơm khách", nhưng thực sự là đi "ăn vụng, hay gọi là "ăn phở" hay "ăn bánh trả tiền". Trót lọt thì không sao, rủi đổ bể thì có mà "ăn cám" hoặc "bỏ ăn".
8. Khi thất nghiệp thì sẽ có lắm điều tệ hại xảy ra:
- hơi tệ: "ăn không ngồi rồi, "ăn theo", "ăn bám", "ăn hại" vợ.
- khá tệ: "ăn quỵt, "ăn mày".
- quá tệ: "ăn trộm, "ăn cắp", "ăn cướp".
9. Khi cờ bạc, đang thắng lớn bỗng đứng dậy ra về, gọi là "ăn non". Thế nhưng, "ăn non" mà còn vênh váo, cười ngạo nghễ thì có khi bị "ăn đấm", "ăn đá", hoặc "ăn đòn".

Sưu tầm

Có Một Đời Sống Bình Thường Đã Là Phước Lớn Rồi

         Có những ngày, ta chỉ mong cuộc sống bình thường như trước: Một bữa cơm đơn giản bên người thân, Một buổi sáng được khỏe mạnh bước ra đường, Một tối yên lành không lo nghĩ. Thế mới hiểu, điều bình thường chính là điều quý giá nhất mà ta từng vô tâm không nhận ra.


BÌNH THƯỜNG LÀ PHƯỚC - VÌ VÔ THƯỜNG LUÔN RÌNH RẬP.

Một ngày đẹp có thể hóa bão tố chỉ trong phút chốc. Người đang cười hôm nay có thể nằm xuống ngày mai. Vô thường không hẹn trước, và chính vì thế, điều bình thường là điều đáng biết ơn nhất.

Nếu ta biết nhìn sâu, sẽ thấy:

• Mỗi bữa cơm không thiếu món là phước.

• Mỗi giấc ngủ yên là phước.

• Mỗi lần hít thở giữa cuộc đời không sợ hãi – là phước.

“Hôm nay ta còn được sống, Là ngày hạnh phúc nhất.” (Kinh Tăng Chi Bộ)


BÌNH THƯỜNG- MÓN QUÀ VÔ GIÁ MÀ HIẾM AI NHÌN THẤY.

Khi khỏe mạnh, ta chẳng thấy ơn cuộc sống. Chỉ khi bệnh, mới nhận ra chỉ cần thở thôi cũng là hạnh phúc.

Khi người thân còn bên cạnh, ta dễ buông lời giận hờn. Chỉ khi họ rời xa, ta mới đau đớn hiểu rằng được ở cạnh nhau đã là phước.

Con người thường mải chạy theo điều lớn lao mà quên rằng phước thật nằm ngay trong từng điều nhỏ nhặt của hiện tại:

• Một bữa cơm còn đủ vị.

• Một mái nhà còn tiếng nói cười.

• Một sáng thức dậy vẫn còn đôi tay, đôi chân nguyên vẹn.

Đó là phước. Đức Phật dạy: “Biết đủ là giàu có, biết an là hạnh phúc.”


KHI BIẾT DỪNG LẠI, TA MỚI THẤY PHƯỚC HIỆN HỮU.

Ta khổ không vì cuộc đời thiếu, mà vì tâm luôn muốn nhiều hơn. Muốn được yêu hơn, được khen hơn, được sở hữu hơn. Nhưng càng muốn, lòng càng bất an.

Người biết đủ không phải là người có nhiều, mà là người biết dừng đúng lúc, biết trân quý những gì đang có. Bởi hạnh phúc thật không nằm ở vật chất, mà ở cảm nhận tĩnh lặng trong tâm.

Bình thường là khi ta sống ngày hôm nay mà không tiếc quá khứ, không lo tương lai. Là khi ta ăn cơm biết mình đang ăn, thở biết mình đang thở. Đó là chánh niệm, là con đường Đức Phật đã chỉ dạy.

 

BIẾT ƠN ĐIỀU BÌNH THƯỜNG - PHƯỚC SẼ THÊM ĐẦY.

Phước không đến từ những lễ nghi xa hoa, mà từ tâm biết ơn trong từng phút sống. Khi ta biết cảm ơn cuộc đời, cảm ơn người đã giúp, cảm ơn cả thử thách – năng lượng phước lành sẽ lan tỏa.

Người biết ơn, dù ở hoàn cảnh nào, cũng vẫn an.

Người oán trách, dù được nhiều đến đâu, cũng chẳng thấy đủ.

 

Bình thường mới là phước.

Vì trong cái bình thường ấy, có đủ yêu thương, đủ an nhiên, đủ hạnh phúc.   Khi ta thôi mơ những điều xa xôi, quay về sống trọn trong giây phút hiện tại, ta sẽ nhận ra: mỗi hơi thở yên lành chính là phép màu nhiệm mầu nhất của cuộc đời.

 

Hạnh phúc vốn là đơn giản

Nho nhỏ những điều quanh ta

Hạnh phúc hiện hữu đang là

Tỉnh thức sâu xa.. cảm nhận.

- Biết Sống thì nào ân hận

Khi mọi thứ.. rời sân ga.

Lặng nghe hơi thở vào, ra

Thấy đời bao la.. hạnh phúc.

(Như Nhiên-TTT)

Namo Buddhaya

 

Đông Chí - Đỗ Công Luận

Friday, December 19, 2025

Mối Tử Thù - Trường Sơn Lê Xuân Nhị



Ông Trần Văn Mạnh có một mối tử thù bất cộng đái thiên với ông Phan Văn Lịch. Ông thề trước bàn thờ tổ tiên rằng nếu ông chết đi mà không trả được mối thù này thì con cái ông phải trả cho ông, đứa nào không trả được thì coi như là con bất hiếu, không xứng đáng được hưởng gia tài ông để lại, không được mang giòng họ Trần của gia tộc, chết xuống suối vàng mà ông gặp được thì ông nhất định sẽ giộng cho một đạp…

Câu chuyện bắt đầu vào ngày xưa, rất xưa ở Việt Nam nhưng ông Mạnh không thể nào quên được. Cả hai người đều là bạn nhau lúc còn hàn vi áo vải. Ông Mạnh làm nghề công chức còn ông Lịch làm nghề buôn bán. Thời gian trôi qua, cuộc đời thăng trầm của hai người này biến chuyển theo... tỉ lệ ngược. Nghĩa là ông Lịch làm ăn ngày một khá giả còn ông Mạnh thì ngày càng sa sút. Ông Lịch lần lần trở thành một nhà giầu có nhất tỉnh. Con cái ông ta là đứa thì kỹ sư bác sĩ, đứa thì đi lính không hiểu làm nên chức gì mà đeo một lần tới ba bốn cái bông mai bạc trắng xóa cổ áo. Ngày Tết ngày lễ con cái tề tựu về xe cộ cứ nườm nượp ra vào cái cổng nhà làm bụi bay mù khắp xóm. Trái ngược lại, nhà ông Mạnh thì nghèo rớt mùng tơi. Ông làm công chức lương ba cọc ba đồng, tính tình lại thật thà không biết ăn nói không biết nịnh bợ nên dù tận tụy đi sớm về trễ 20 năm mà vẫn không mua được chiếc xe Honda cho cậu con trai lớn đi học. Cậu con trai mới lớn, thấy hàng xóm bạn bè của mình đứa nào nếu không Suzuki thì cũng Yamaha, còn mình thì ngày hai buổi đạp chiếc xe đạp cọc cạch đến trường nên nhiều khi lấy làm đau khổ. Thỉnh thoảng cậu con trai nhân dịp bố vui vẻ cũng mớm ý hỏi xin bố mua cho một chiếc xe. Ông Mạnh chỉ nhìn con chua xót:
- Con trai, bố thương con bố, bố cũng muốn cho con chiếc xe Honda để đi với chúng bạn lắm nhưng bố đâu có tiền con. Tiền ăn ngày hai bữa mà bố cũng chưa chắc lo được thì tiền đâu mà mua xe cho con" Con thương bố con ráng ăn học nên người để mai này giúp bố nuôi các em con.

Cậu con trai là loại hiếu thảo nên nghe bố tâm sự não nùng như vậy thì hiểu ý ngay, từ đó không dám đòi hỏi gì nữa, chỉ lo ăn học. Rồi sau nhiều cố gắng cậu cả đậu được cái bằng tú tài II hạng ưu. Ngày đó là một ngày trọng đại trong đời ông Mạnh. Từ nhỏ đến giờ ông chỉ có hai ngày trọng đại: ngày thứ nhất là ngày ông cưới bà Mạnh, ngày thứ hai là ngày ông được mướn vào làm thư ký trong tòa hành chánh. Hôm nay sau bao nhiêu công trình dưỡng dục, thằng con cả ông đậu tú tài, ông phải liệt ngày này vào trong những ngày trọng đại của đời ông. Hai bố con ngồi nói chuyện với nhau, cả hai đều đồng ý rằng nhà tuy nghèo, nhưng nên mượn tiền mở một buổi tiệc nho nhỏ để thết đãi quý thầy cô, quý hàng xóm và bạn bè. Hai cha con đồng ý xong, mặt mày hớn ha hớn hở, chỉ chờ sự chấp thuận của bà Mạnh là ra sau nhà giết gà mổ lợn liền.

Bà Mạnh đang ngồi giặt đồ sau nhà với đứa con gái thì ông Mạnh gọi lên. Bà linh cảm được có chuyện quan trọng sắp sửa xảy ra nên rửa tay chạy lên. Nghe ông Mạnh trình bày ý kiến xong, bà thả người xuống ghế, nét mặt rầu rầu:
- Bố nó nói đúng. Con mình đã cực khổ nhiều nay nó nên thân thì cũng nên làm một cái gì để ghi nhớ ngày này. Nhưng bố nó xem, lấy đâu ra tiền mà tiệc với tùng. Phú quý thì mới sinh lễ nghĩa được, mình đang chạy gạo vắt giò lên cổ thì lễ nghĩa với ai"

Ông Mạnh rót chén nước trà, tu một hớp rồi nhìn bà Mạnh:
- Bà này chỉ được cái kỳ đà cản mũi. Con mình bây giờ đã làm ông tú, mai kia nếu có đi lính thì cũng làm quan, còn đi làm công chức thì thế nào cũng có ngạch có trật đàng hoàng, nó sẽ phụ giúp được mình. Vả lại nhà hơn hai mươi năm nay chưa có tiệc tùng đãi đằng ai cả. Còn cái này nữa, con nó cũng đã đến tuổi cặp kê, mình cũng phải làm cái gì để chuẩn bị kiếm cho nó một cô vợ chứ. Vấn đề tiền bạc, tôi đã có cách rồi.

Nghe đến đây, mắt bà Mạnh sáng rực lên:
- Cách gì, ông nói tôi nghe thử"
Ông Mạnh đắc ý vuốt chòm râu:
- Bà lúc nào cũng coi thường bố con tôi. Này nhé, tôi nói bà nghe, bà có nhớ ông Lịch không"

Bà Mạnh bỗng khựng người lại. Gì chứ ông Lịch thì bà còn lạ gì. Hơn hai mươi năm qua, mỗi ngày đi bộ qua dãy nhà tường cao bát ngát của ông Lịch, ngàn lần như một, không lần nào bà không thấy đau nhói trong tim. Bà buồn vì chồng mình không có lẹ tay lanh mắt như người ta, buồn vì bà Lịch và bà ngày xưa cùng xuất thân nghèo hèn, nay khá giả sao bà Lịch đã vội quên bạn bè... Giác quan thứ sáu của bà báo cho bà biết vụ này có cái gì không ổn. Đang suy nghĩ thì ông Mạnh tiếp lời:
- Thằng... ơ ông Lịch với anh là chỗ bạn bè biết nhau từ thuở còn mặc quần thủng đít, để anh qua bên ấy mượn vài chục ngàn làm bữa tiệc, tiện thể mời ông ấy qua nhà mình để chung vui luôn.

Bà Mạnh nghi ngại:
- Đã hơn hai mươi năm, ông còn nhớ người ta không biết người ta còn nhớ đến ông không"
- Bà hễ mở miệng ra là nói toàn chuyện bi quan không. Đàn bà quả thật vô tích sự. Thì cứ để tôi qua bên ấy xem có chết thằng Tây nào không đã. Thằng cả là con của bà luôn chứ đâu phải chỉ là con của tôi không đâu" Ý tôi đã quyết, bà đừng có cản. Vô lấy bộ đồ để tôi mặc đi qua nhà ông Lịch.

Ông quay sang cậu cả:
- Mày cũng thế, thay đồ đẹp đẽ để đi với tao.

Hai cha con được mời ngồi ở phòng khách nhà ông Lịch. Phòng khách sang trọng không chịu được. Ông Mạnh suốt cả hai mươi năm qua, đây là lần đầu tiên ông bước vào phòng khách nhà người bạn thuở xưa. Cái gì cũng mới cũng đẹp, cũng mắc tiền. Đây là hòn non bộ, kìa là chậu cá, chỗ nọ khe nước nhân tạo chảy róc rách nghe êm tai chả khác nào đứng bên giòng suối. Trong một giây phút động lòng ông Mạnh bỗng thấy thương cho số kiếp của mình. Con vua thì làm vua, con thầy chùa thì đi quét lá đa. Ông quay nhìn thằng con trưởng nam đang ngồi bên phải mình, xem thử nó có tướng quét lá đa hay không. Ông hơi ngạc nhiên khi thấy khuôn mặt nó bình thản, không có vẻ khúm núm như ông. Ông thầm nghĩ: “Không chừng thằng bé này lại làm được chuyện gì cho giòng họ chăng"”.

Đang suy nghĩ thì ông Lịch bước ra.
Ông Lịch, bẵng đi một thời gian không gặp vẫn béo tốt như dạo nào. Chưa kịp nói, cái mồm ông đã cười toe toét ra, hai tay giơ lên làm như gặp được một tri kỷ lâu ngày lắm. Ông Mạnh thấy ông Lịch tiếp đãi mình như vậy rất lấy làm khoái chí, mối hằn học, mối cay đắng chấp chứa từ bao nhiêu năm nay bỗng biến mất hết. Trước mặt ông bây giờ là một thằng Lịch dễ thương ngày nào, một thằng Lịch cùng đi bắt cá, đi ăn cắp ổi chung, một thằng Lịch đá banh tuy không giỏi nhưng ai cũng khiếp sợ nhờ tài chơi xấu, banh không thèm đá mà cứ đá vào cẳng người ta. Không ngờ sau mấy chục năm, thằng Lịch bạn của ông vẫn không thay đổi. Ông hơi tự trách mình có vẻ vì mang mặc cảm nghèo nên mới xa lánh người giầu chứ chưa chắc ông Lịch đã muốn xa lánh ông. Hai người nói chuyện tầm phào một chập, ông Lịch đưa tay áo nhìn đồng hồ làm như sắp sửa đi đâu:
- Anh Mạnh hôm nay qua thăm tôi chắc có chuyện gì... cần bàn không"

Ông Mạnh hít thở hai ba lần để lấy can đảm, rồi thú thật với ông Lịch là nhân dịp cháu đậu tú tài ông muốn mượn vài chục ngàn để làm tiệc ăn mừng cho cháu, và nhân tiện, ông cũng mời gia đình ông Lịch sang chung vui với cháu một thể. Khuôn mặt ông Lịch đang vui sướng bỗng xẹp xuống một lèo như cái bong bóng xì. Ông xua tay lia lịa:
- Tôi... gia đình tôi bận lắm rồi. Thôi tôi cảm ơn bác tôi không đi được đâu. Tuần tới tôi mắc bận đi ăn tiếp tân tại phủ thủ tướng, xong rồi còn phải lo thu xếp quần áo đi Pháp lo coi lại cái còm măng hàng hóa xem tới đâu rồi. Còn cái vụ tiền thì chờ tôi một tí, để tôi vào xem coi.

Ông đứng dậy đi vào nhà trong bỏ mặc bố con ông Mạnh ngồi chưng hửng nơi phòng khách. Ông Mạnh không thể ngờ rằng thằng Lịch bạn ông ngoài mặt thì niềm nở thân thiết như thế kia, tưởng có thể chết cho bạn bè được mà trong ruột thì khô khan keo kiệt không thể nói được. Ông đã toan đứng dậy đi về nhưng nghĩ đến khuôn mặt của thằng con trai, của bà vợ hiền, ông liền ráng vuốt nóng ngời chờ đợi.

Gần mười lăm phút sau, ông Lịch trở ra. Ông tiến đến gần ông Mạnh, tay trái chìa ra một tờ bạc giấy 500 đồng, tay phải dơ ra bắt tay ông Mạnh, giọng nói rất kẻ cả:
- Chỗ anh em nói thật bác đừng buồn, người Việt mình có câu: “Liệu cơm gắp mắm”. Cái gì bác thấy không kham nổi thì đừng có làm. Nhà bác nghèo, con cái có đỗ đạt thì cũng chỉ nên mua kẹo đậu phụng về uống với nước trà tầu để ăn mừng; làm gì lại phải đi vay mượn cho thêm công nợ". Tôi cho bác mượn tiền rồi mai mốt bác không trả được thì không lý chỗ anh em tôi lại kêu phú lít đến bắt bỏ tù bác à". Đây, tôi biếu bác 500 đồng để về muốn làm gì thì làm tùy thích.

Nghe xong lời dạy dỗ của người bạn, xém tí xíu nữa thì ông Mạnh ngã té xỉu xuống nền nhà. Mắt ông long lên, trợn tròn lại tưởng có thể bay phọt ra ngoài cắm vào cái mặt bẩn thỉu kia. Suốt đời ông, ông đã bị hạ nhục nhiều lần, như lần đi nhậu đứng đái bậy bên cột đèn bị thằng cảnh sát hăm he đòi bỏ bót để ông phải hạ mình năn nỉ... nhưng chưa có ai hạ nhục ông như lần này. Trong giây phút nóng nảy, ông muốn xông tới thò tay nắm lấy cái cổ đầy mỡ của ông Lịch mà cắn một phát cho nó phụt máu ra rồi thiên hạ có muốn đem ông đi giết hay đi ở tù gì cũng được. Nhưng trong lúc ngút lửa hận thù đó, bỗng tự nhiên ông trở nên bình tĩnh lạ thường. Ông thầm nghĩ: “Mình bây giờ là kẻ nghèo, thất thế sa cơ, nếu mình đánh nó là mình dại. Chưa biết có làm gì nổi nó không nhưng chỉ tổ khổ vợ khổ con. Vả lại, đời xưa có nói: “Người quân tử trả thù ba năm chưa muộn”. Chi bằng bây giờ ta cứ làm mặt tự nhiên, cầm lấy tờ giấy bạc bố thí từ tay thằng khôn này, đem về để trên bàn thờ để nuôi chí phục thù. Ngày nào đó, ta làm ăn nên rồi sẽ bố thí cho nó tờ giấy bạc này”.

Thế là ông vận hết nội công để nở một nụ cười, cầm lấy tờ giấy bạc từ tay ông Lịch, cúi đầu thật sâu để cảm ơn rồi dắt thằng con trai lớn ra về.

Rồi thời gian qua, tờ giấy bạc 500, tang chứng của mối nhục gia đình nằm trên bàn thờ tổ tiên đã đổi màu, bụi đóng lên hàng mấy lớp mà mối thù vẫn chưa trả được. Nhiều hôm cúng giao thừa, ông vừa lạy vừa sụt sùi khóc khẩn cầu tổ tiên cho ông trả được mối thù trước khi chết...
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày vui của ông Mạnh. Ông chẳng phải là Việt Cộng, hay là dân nằm vùng gì, nhưng ông mừng là ông muốn để ý xem gia đình ông Lịch xoay xở thế nào trong cuộc thay đổi đời này.

Đúng y như ông dự đoán, gia đình ông Lịch thay phiên nhau đi tù. Từ ông bác sĩ, ông trung tá xuống cho đến cậu út kỹ sư mới ra trường ai cũng ôm chiếu đi trình diện tuốt luốt hết. Sau khi khu nhà vila sang trọng bị tịch thu làm của công cho nhân dân, ông Lịch bỏ đi biệt tích. Ông Mạnh có ý tìm kiếm mấy lần nhưng không được, sẵn có một chuyến vượt biên do người bạn tổ chức, ông bèn dắt vợ con phóng tuốt lên thuyền theo bạn ra khơi, không quên đem theo tờ giấy bạc 500 đồng Việt Nam gói rất kỹ trong xì líp chung với tờ giấy một đô la để dành. Đối với ông, mối thù vẫn chưa được trả, nếu trời cho ông đi lọt chuyến này, ông nguyện sẽ cúng một con heo và sẽ kiếm cho được ông Lịch để trả cho được mối thù kia…

Trời dường như cảm thông với những khổ cực của ông, cho ông vượt biên đến nơi an toàn, tuy ông không có cúng con heo như lời hứa ngày nào nhưng trời cũng không lấy thế làm buồn, cứ cho ông dắt vợ con qua đất Mỹ tỵ nạn. Tính đến ngày hôm nay thì ông đã ở thành phố New Orleans gần sáu năm, đã mua nhà mới, sắm xe mới, chiều chiều hay xách vợt đi đánh tennis và nuôi thêm cả chó cho nó hợp thời trang. Cuộc sống của ông bây giờ rất thoải mái nhưng không phải vì thế mà ông quên mối thù cũ với ông Lịch. Ông thỉnh thoảng cũng có dò hỏi tin tức kẻ thù. Có người đồn là ông Lịch đã chết, có người đồn là ông Lịch đã vượt biên rồi qua Pháp...


Hôm nay, một buổi chiều đầu xuân, đang quần xà lỏn ngồi ăn Crawfish thì thằng con út chạy vào đưa cho ông một cái thơ. Nhìn cái bì thơ, ông biết ngay lá thơ này nếu không đến từ trại tỵ nạn thì cũng đến từ Việt Nam. Ông đã quá quen với những lá thư từ trại và Việt Nam gửi qua xin tiền rồi, ngần ngừ toan cất đi để tối đọc thì bỗng cái hàng chữ của người gửi làm ông giật mình, con crawfish đang nhai nửa chừng xém bắn ra ngoài làm thằng con út phải đăm đăm mắt nhìn để chuẩn bị... né. Lá thơ đến từ trại tỵ nạn Thái Lan có tên của người gởi là Phan Văn Lịch, kẻ tử thù của ông.

Ông dẹp liền cái vụ ăn uống, rửa tay chân lên phòng khách ngồi bóc thơ ra xem. Đại khái ông Lịch tả cảnh mấy đứa con đều đi học tập chưa về, vợ ông đã mất cách đây hai năm vì quá đau buồn, còn ông đã bán hết gia tài được ba lượng vàng để ra đi. Nay ông Lịch đã nằm trên đảo gần hai năm mà vẫn không được cứu xét chờ đi Mỹ vì ông không thuộc phải thành phần quân nhân cũ, và cũng không có thân nhân gì ở Mỹ. Ông Mạnh càng đọc đến nỗi đau khổ của ông Lịch thì ông càng cảm thấy khoái chí trong lòng như vừa uống được một loại rượu quý. Trong đầu ông bỗng hiện về cái hình ảnh của buổi chiều ông bị làm nhục cách đây vài chục năm nhưng ông thấy như mới ngày nào. Có thế mới biết con tạo xoay vần, ông Lịch ngồi rung đùi thầm nghĩ. Ông lại nghĩ không chừng ông bà mình linh thiệt, tết này phải mua một con heo thật lớn để cúng.

Tính toán một chặp ông quyết định ngày mai sẽ gởi một lá thơ qua tòa đại sứ Mỹ ở BangKok. Ông sẽ vu khống cho ông Lịch là cộng sản và đề nghị họ gởi trả ông Lịch về Việt Nam. Nói là làm, ông mở tủ lạnh thưởng cho mình một chai bia rồi lấy giấy bút ra thảo lá thơ.

Bà Mạnh đi làm về thì lá thơ đã được thảo xong. Bà thấy chồng hôm nay có vẻ vui hơn mọi ngày nên tưởng là ông Mạnh vừa thắng football. Nhưng nghĩ lại, bà thấy vô lý vì mùa football đã hết từ lâu. Nghe đứa con gái nói bố vừa nhận được thư ở Việt Nam, bà liền hớn hở:
- Có tin tức gì ở Việt Nam không ông"
- Có cái tin này còn hay hơn cả tin ở Việt Nam nhiều bà ơi. Tin thằng Lịch.

Mặt bà Mạnh thoáng lên một chút ngạc nhiên:
- Ông ấy lúc này thế nào ông"
- Đang ở đảo, đói quá chịu không nổi nên mới biên thư qua nhờ mình bảo lãnh.
- Ông ấy có đem vợ con theo được không ông"
- Được con khỉ, chạy lấy thân là may quá rồi, là gì còn tiền bạc mà đem con cái theo. Quân vô luân khốn nạn, chuyến này nó mới sáng con mắt ra.

Bà Mạnh ngạc nhiên vì thái độ của ông chồng, bà không hiểu ông chồng mình đã uống mấy lon bia rồi mà sao có vẻ... quá mồm. Bà nhíu mày:
- Ông nói gì lạ vậy, đàng nào cũng là bạn bè với nhau ngày xưa. Tôi không hiểu ông được.
Ông Mạnh vỗ bàn:
- Bà chả biết cái con khỉ gì cả. Thế bà còn nhớ ngày xưa lúc thằng cả thi đậu tú tài không. Tôi qua mượn tiền nó, nó lại bảo nên liệu cơm mà gắp mắm, rồi cho tôi 500 đồng bạc. Bà coi, nó làm nhục tôi đến như vậy mà bà bảo quên được à"

Thì ra vậy. Bà Mạnh sống với chồng đã lâu, ít khi thấy chồng để ý thù ai bao giờ. Hôm nay trên đất khách quê người, sau bao nhiêu năm chung sống, bà không ngờ chồng lại có một nỗi lòng ẩm ức từ đời nào mà lại giữ kỹ trong lòng, chưa hề hé răng nói cho bà biết. Bà kéo cái ghế ngồi xuống bên chồng, nhẹ nhàng hỏi:
- Thì có chuyện gì ông nói cho tôi nghe với nào, vợ chồng ăn ở với nhau đã mấy chục năm, ông có giấu tôi điều gì đâu"

Ông Mạnh lấy một lon bia, làm một hớp chi tiêu bớt giận hờn:
- Bà không nhớ hôm ấy à" Tôi nhớ lúc ấy nhà nghèo quá, thằng cả thi đỗ tú tài tôi muốn làm một bữa tiệc cho con trước là để khoe hàng xóm sau là để kiếm cho nó một con vợ. Đi qua nhà nó chầu chực, tưởng nó còn chút lương tri bạn bè, nhân thấy mình túng quẫn, nó cho mình mượn chút ít để về làm tiệc. Nó đã không cho rồi lại còn sỉ nhục giòng họ nhà mình.
- Ông ấy sỉ nhục thế nào"

Ông Mạnh phát cáu lên, không hiểu sao mụ vợ mình hôm nay lại bày đặt lý sự chất vấn đủ điều. Ông lườm bà Mạnh một phát ý chừng như muốn bảo ông đã cáu lắm rồi:
- Bà này chỉ được nước hỏi móc họng. Này nhé, nó bảo tôi nên liệu cơm mà gắp mắm, rồi còn “mo ran” cho tôi một bài học về cách xài tiền. Đù mẹ tiên sư bố nhà nó. Tôi nghèo tôi xài tiền thế nào kệ bố tôi, có mắc mớ gì đến nó mà nó phải dạy dỗ cho tôi"

Bà Mạnh bỗng bật cười lên một tiếng nhỏ. Ông Mạnh thấy thế thì lại càng sôi gan lên, ông toan mở miệng thì bà đã cướp lời:
- Thế nếu ông Lịch hôm ấy dúi vào tay ông một mớ tiền cho ông mượn thì ông ấy là người bạn tốt hay sao"

Ông Mạnh khựng người lại, không trả lời được câu hỏi kỳ quặc của vợ mình. Bà Mạnh tiếp:
- Nói thật với ông, tôi thấy ông ngày nào cũng đi họp với hành tham gia tổ chức này tổ chức nọ, hễ mở miệng ra là hôm nay đòi về nước, mai đòi về nước. Cái kẻ thù nguy hiểm nhất nó nằm ngay trong con người ông mà ông chưa diệt nổi thì ông đòi diệt ai"

Thấy ông Mạnh ngồi trầm ngâm như đã thấm ý, bà Mạnh tiếp:
- Tôi chỉ là hạng phụ nữ chân yếu tay mềm, đáng lẽ ra chỉ phải lo việc bếp núc trong nhà, còn chuyện quốc gia đại sự thì để cho mấy ông, nhưng thấy ông nhiều lúc vô lý không chịu được"
Ông Mạnh bực lắm, vào những ngày xưa ở Việt Nam mà bà Mạnh dám lý sự với ông như thế này là đã có chầu ăn bợp tai, nhưng bây giờ ông chỉ còn biết ngồi nghe bà Mạnh giảng luân lý.

Bà Mạnh cười khẩy:
- Ông khỏi phải lo chuyện chết không nhắm mắt được, bên Mỹ này các nhà đòn đám ma họ sẽ lo vuốt mắt, tô điểm mặt mày cho ông. Ông để tôi hỏi ông câu này, đồng ý là ông Lịch đã làm nhục ông. Ông cho đó là nhục, tại sao lúc đấy ông không chống lại hay chửi lại ông ta"
- Bà tưởng tôi ngu à" Lúc ấy nó giầu, mình nghèo, mình chống nó để chết à"
- Tôi thì nghĩ khác. Tôi nghĩ là ông hèn. Bị người làm nhục mà không dám làm gì là hèn. Chờ cho đến khi người ta thất cơ lỡ vận rồi mới lên mặt đòi trả thù thì còn hèn hơn.

Ông Mạnh không tin ở cái lỗ tai mình, không ngờ con mẹ Mạnh ngoan ngoãn ngày nào hôm nay bỗng bị quỷ ám hay uống thuốc liều hiệu gì mà dám lăng nhục ông như vậy. Trong cơn nóng giận, ông chụp lấy cái gạt tàn thuốc ném xuống sàn nhà vỡ tan tành.

Bà Mạnh đứng lên, giọng không hề có chút sợ hãi:
- Lần sau có ném thì ném cái gì quý cỡ vài trăm bạc để mình còn mua cái khác, ông ném cái gạt tàn thuốc chưa tới một đồng bạc, không gây được “tiếng vang” lại mất công mẹ con tôi dọn dẹp... Trở lại chuyện của ông, tôi thấy ông từ lúc sang đây, ông đã bao nhiêu lần bảo tôi là ông khinh những thằng ngày xưa ở Việt Nam, nghe xếp hét một tiếng là chạy xịt cứt ra quần, những thằng ngày xưa gặp người ta cách mười thước đã dở nón chào thật sâu, rồi đứng khúm núm bên lề đường nhe răng cười cầu tài quên mất cả phẩm cách mà mới sang tới Mỹ đã gọi xếp cũ là thằng này thằng nọ... vân vân. Ông thử nghĩ lại xem ông có hơn bọn nó không"

 

Trời cho mỗi người một bàn tay và ý chí, ai chịu khó làm ăn thì giầu. Vả lại sự giầu sang của ông Lịch đâu phải tự dưng mà có được, ông ấy cũng đâu phải hạng tham nhũng hại dân" Ông ghen tức chỉ vì ông thấy người ta có nhà cao cửa đẹp, còn những lúc người ta cực khổ làm ăn trong khi ông ngày ngày hai bữa sáng cắp ô đi tối cắp ô về thì ông không thấy. Nhờ trời phật phù hộ sang được đến đây rồi, thay vì tận dụng chút sức thừa còn lại của tuổi già để làm việc giúp đỡ đồng bào, ông lại xử sự như một đứa con nít. Ông phải giải phóng ông khỏi cái đầu óc nhỏ hẹp đầy tầm thường nhỏ mọn, ai nói động một câu là nhớ cho đến chết, cái lòng ích kỷ tự tôn tự đại, cái gì có tôi quyết định thì mới xong được. Nếu ông giải phóng cho ông được những chuyện đó, ông khỏi cần về nước, cứ ở lại đây thì sự có mặt của ông đã là một hãnh diện của cộng đồng Việt Nam rồi.

Bà Mạnh nói một hồi không cảm thấy mỏi miệng nhưng cảm thấy... mỏi chân, liền ngồi xuống ghế. Ông Mạnh kể từ khi lấy vợ, cứ tưởng vợ mình cù lần nên rất ít kiêng nể, hôm nay thấy vợ tự dưng xổ liền một thôi toàn những lời văn hoa lý lẽ, đầy đủ Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín như đức Khổng Tử thì đâm ra kiêng nể.

 

Ông thầm nghĩ mụ vợ mình không chừng có thể ra tranh cử chức Hội Trưởng Hội Bảo Vệ Hạnh Phúc Gia Đình tại New Orleans được, nếu kẹt lắm thì chắc cũng tóm được cái chân Tổng thư ký. Ông thò tay lấy cái lá thư “chụp mũ” vừa thảo xong vò nát đi.

Bà mạnh nhìn ông dịu dàng:
- Ông có nhớ ngày mình mới vào đất Mỹ không" Bọn Mỹ với mình, không cùng họ hàng, không cả cùng chủng tộc mà đã đối xử với mình lúc ấy là những kẻ sa cơ như những người bạn, giúp đỡ rất tận tình. Ngày hôm nay, ông Lịch, người Việt Nam đồng chủng, người bạn già của ông vừa bị ngã ngựa, con cái đứa thì chết dở trong tù, đứa thì không biết lưu lạc nơi đâu, ông thấy có chạnh lòng không" Ông Lịch là người khôn ngoan, trước khi đặt bút viết lá thư này chắc cũng đã hiểu tâm trạng của ông. Ông ấy nếu là người thường chắc chẳng bao giờ dám viết thơ đến nhờ vả ông. Đã dám viết thơ cho ông tức là ông ấy đã hạ mình, chấp nhận là kẻ hèn kém chỉ để mong chờ vào cái sự quảng đại của mình. Ông ấy tốt xấu thế nào thì mình khó mà biết, nhưng mình hẹp hòi hay độ lượng thì mình biết được mình ngay. Hơn nữa, nói thật với ông, già cả hết rồi, còn sống được bao lâu mà để hận thù nó làm đời mình mất vui đi.

Ông Mạnh ngồi cúi đầu suy nghĩ, nhớ lại lời nói của vợ, nhìn vào đáy cái khay đồng trên bàn, chợt nhận ra đầu mình đã hai màu tóc. Ông thở dài, nắm tay vợ:
- Mới ngày nào cùng thằng Lịch đánh đáo mà bây giờ tóc đã điểm sương rồi. Mau thật, Thời gian đi mau thật.

Ông quay vào nhà gọi lớn:
- Thằng út đâu, lấy cái bản đồ ra đây để tao kiếm đường ngày mai lên Hội đồng công giáo bảo lãnh bác Lịch bên đảo qua.

 

Trường Sơn Lê Xuân Nhị

Đôi Điều Suy Tư Về Mầu Nhiệm Giáng Sinh - Thiện Ý


Ðêm 24 rạng ngày 25-12 hàng năm cũng như năm nay 2018, tại thành phố Houston này, cũng như đêm qua, đêm mai tại những vùng đất có dân cư ở những múi giờ khác nhau trêm mặt địa cầu, con người nói chung, các tín đồ Thiên Chúa Giáo nói riêng, bằng nhiều hình thức, nghi lễ khác nhau, với tâm tình khác nhau, đã, đang và sẽ đón mừng kỷ niệm ngày Giáng Sinh lần thứ 2018 của một con người siêu phàm, có tên là Giêsu, đã xưng mình và đã minh chứng Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại. Như vậy, Giáng Sinh đã là một sự kiện và là một biến cố có thật trong lịch sử nhân loại, mang ý nghĩa lịch sử bên cạnh ý nghĩa mầu nhiệm tôn giáo nói chung, của Thiên Chúa giáo nói riêng.

Là một sự kiện có thật, vì quả thật trong lịch sử nhân loại đã có một con người siêu phàm tên là Giêsu sinh ra cách nay 2018 năm, trong một máng cỏ nơi một hang đá dành cho bò lừa trú ngụ, vào một mùa đông giá lạnh. Hang đá ấy có tên là Bê-lem(Bethlem), miền Giu-đê thuộc nước Do Thái cổ xưa, dưới thời đế quốc La Mã thống trị, nay cũng đã và đang diễn ra tranh chấp đẫm máu giành quyền làm chủ giữa hai dân tộc Israel và Palestin.

Là một biến cố có thật, vì sự xuất hiện của con người phi phàm Giêsu, đã làm cho vua Hê-rô-đê (Herode) lo sợ mất quyền bính, nên đã ra lệnh sát hại hàng ngàn sinh linh trẻ thơ vô tội. Biến cố ấy đã được lịch sử ghi nhận và thực tiễn đã làm thay đổi tư duy, đời sống con người và bộ mặt thế giới. Biến cố ấy cũng đã được con người chọn làm mốc thời gian năm tháng cho cuộc sống (Dương lịch). Nhưng điều hệ trọng hơn là sự kiện và biến cố ấy đã mang một ý nghĩa mầu nhiệm (miraculous) của đức tin tôn giáo, được thể hiện qua các hiện tượng lạ phát sinh từ và chung quanh con người siêu phàm mang tên Giêsu ấy.

Là một mầu nhiệm, vì để hiểu, biết và tin sự kiện “Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng Trần Cứu Chuộc nhân loại” là sự thật, con người không thể bằng tầm tri thức hữu hạn (đức lý), mà cần được trang bị bằng “cặp mắt đức tin” thuộc phạm trù tôn giáo.

Thật vậy, với tầm tri thức hữu hạn, con người làm sao có thể hiểu được và chấp nhận một hài nhi bé nhỏ, sinh ra trong cảnh nghèo hèn, bởi một trinh nữ có tên là Maria, sống chung mà không phải vợ chồng, với một người bạn có chung niềm tin, làm nghề thợ mộc có tên là Giuse. Nghĩa là Hài Nhi Giêsu ấy, đã được thụ thai trong cung lòng Trinh Nữ Maria bởi quyền năng Chúa Thánh Thần (mà ngày nay khoa học đã chứng minh được qua sự thụ thai không chỉ qua giao hợp lưỡng tính) và Hài Nhi ấy sau này lại xưng mình là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần để cứu chuộc nhân loại, đã làm nhiều phép lạ cả thể, nhất là những phép lạ xẩy ra vào ba năm cuối đời đi rao giảng Tin Mừng và mạc khải cho loài người về Thiên Chúa và Ơn Cứu Ðộ. Sau cùng đã hoàn tất chương trình cứu độ bằng một cái chết treo khổ nhục trên thập tự giá vào tuổi 33, để rồi sau ba ngày Ðức Giêsu đã sống lại và lên Trời trước mặt nhiều người đương thời.

Những người chứng kiến các phép lạ xảy ra từ và chung quanh con người phi phàm Giêsu có thể biết và tin vào mầu nhiệm Giáng Sinh, song chỉ là số ít. Còn biết bao người đương thời, cũng như con người các thời đại sau này không được tận mắt chứng kiến các phép lạ thì sao?

Hiển nhiên khó mà có lòng tin vào Mầu Nhiệm Giáng Sinh cũng như các mầu nhiệm khác thuộc quyền năng của Thượng Ðế. Tuy nhiên đây chỉ là nói theo luận lý thông thường của tầm tri thức hữu hạn của con người. Ngoài tầm tri thức hữu hạn này, con người còn tiềm ẩn một khả năng vượt trội, siêu hình, đó là Ðức Tin, một khi được khơi động sẽ có thể hiểu biết và cảm nghiệm được mọi mầu nhiệm trong thế giới siêu hình vô hạn. Các tín đồ có niềm tin nơi Thượng Ðế, chính là những con người được trang bị “cặp mắt Ðức Tin” tôn giáo, đễ có thể nhận thức được những gì vượt tầm tri thức hữu hạn của con người.

Hiện tại, sau 2018 năm Hài Nhi Giêsu ra đời, đã có hàng tỉ nhân loại tin vào ơn Cứu Ðộ qua mầu nhiệm Giáng Sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng Trần cứu chuộc nhân loại. Bằng niềm tin này, người ta có thể lý giải dễ dàng những sự kiện siêu tự nhiên từ một căn bản: Nếu đã tin và chấp nhận một tiền đề Thượng Ðế Toàn Năng đã tác tạo vũ trụ vạn vật và cho nó vận hành theo những quy luật riêng cho từng loài và quy luật chung cho mọi loài, thì không có gì Thượng Ðế không làm được.

Một điển hìnhnếu ngày nay con người đã có thể bắt chuớc quy luật cấu tạo con người của Thượng Ðế (chứ không phải “cướp quyền” Thượng Đế) bằng cách lấy chất liệu từ con người vốn là vật thụ tạo của Thượng Ðế, cho thụ thai trong ống nghiệm có điều kiện môi sinh như trong cung lòng người nữ; hay cho thụ thai trong chính cung lòng người nữ, thì đối với quyền năng Thượng Ðế, việc thụ thai của Hài Nhi Giêsu trong cung lòng trinh nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần vào 2018 năm trước đây, là điều hiển nhiên, không có gì phải tranh luận. Trinh Nữ Maria sau khi sinh Hài Nhi Giêsu vẫn còn đồng trinh là hệ quả tất nhiên do cách thụ thai ngoài sự giao hợp lưỡng tính thông thường cũng là điều hiển nhiên không cần biện giải.Vì các tín điều tôn giáo nói chung, Thiên Chúa giáo nói riêng như những định đề toán học không thể chứng minh và không cần chứng minh (Như định đề Euclide: Từ một điểm, ngoài một đường thẳng, ta chỉ có thể kẻ một đường thẳng thẳng góc hay hay song song với đường thẳng ấy” chẳng hạn). Nhưng tin hay không tin và chọn niềm tin tôn giáo nào là quyền tự do của con người không thể áp đặt.

Ðến đây vấn đề chỉ còn là mỗi con người có chấp nhận mầu nhiệm Giáng Sinh cũng như các mầu nhiệm khác của Thượng Ðế hay không. Vì đó là quyền tự do lựa chọn của mỗi con người, mà chính Thượng Ðế đuợc tin là Ðấng sáng tạo ra con người, vạn vật, vũ trụ… cũng phải tôn trọng tuyệt đối quyền tự do của con người, kể cả quyền chối bỏ hay chống lại Thượng Đế. Bởi vì chỉ với quyền tự do tuyệt đối, con người mới chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình và Thượng Ðế mới có dữ kiện xét thưởng phạt công minh về các hành vi công phúc hay tội lỗi mỗi con người khi còn sống, sau cái chết, trở về với cát bụi.

Một so sánh cụ thể và tương đối về vai trò của Thượng Ðế có thể ví như người thợ nặn tượng sau khi bán một bức tượng cho người mua, người này có toàn quyền xử dụng tự do bức tượng theo ý muốn. Người xử dụng bức tượng chỉ có hai lựa chọn khi bức tượng cũ hay hư hỏng, nếu muốn tu bổ để tiếp tục xử dụng sẽ tìm đến người thợ nặn tượng nhờ thực hiện, hoặc vứt bỏ bức tượng đó đi. Theo niềm tin tôn giáo nơi Thượng Ðế cũng vậy, một khi tạo ra thân xác con người theo quy luật truyền sinh, là trao cho linh hồn quyền tự do tuyệt đối trong việc xử dụng thân xác. Linh hồn có thể nuôi dưỡng, tu bổ thân xác độc lập tự chủ hay chậy đến cậy nhờ Thượng Ðế giúp sức (cầu nguyện…), hoặc tự hủy thân xác (tự tử, tai nạn…) là quyền tự do lựa chọn của mỗi con người. Thượng Ðế sẽ chỉ xét đoán, định công, tội nơi mỗi con người sau cái chết để được tái sinh trong “Nước Hằng Sống” cực lạc (Thiên đàng) hay nơi cực khổ đời đời (Hoả Ngục đời đời).theo niềm tin Thiên Chúa giáo.

Là những người có niềm tin nơi Thượng Ðế, đôi điều suy tư trên đây về mầu nhiệm Giáng Sinh, chúng tôi chỉ muốn xác tín rằng: Hơn 2018 năm trước đây, quả thật đã có một Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng Trần, thực hiện sứ mạng cứu chuộc con người khỏi tội nguyên tổ, tạo điều kiện cho con người tái sinh trong nước hằng sống. Nếu không có sự Giáng Sinh này, số phận con người đã khác, chắc chắn là bi thảm hơn nhiều.

Ðể cảm tạ và tri ân Thượng Ðế, đêm nay cũng như đêm qua và đêm mai, nơi các giáo đường khắp nơi trên mặt địa cầu, những con người có chung niềm tin vào mầu nhiệm Giáng Sinh đều cất cao lời ca chúc tụng, bằng mọi ngôn ngữ khác biệt của loài người. Chúc tụng và ngợi ca ơn Ngôi Hai Thiên Chúa đã giáng trần cứu độ muôn dân, đem an bình, ơn phúc và yêu thương đến cho mọi người thiện tâm, mọi dân tộc thiện chí qua các thời đại hôm qua, hôm nay và mãi mãi cho đến tận thế. Đúng như lời chúc mừng và ngợi ca Thiên Chúa của Thiên Thần vào đêm Chúa ra đời cách nay hơn 2018 năm:

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an dưới thế cho người thiện tâm”


Thin Ý
Giáng sinh 2018

Tình Sầu Đông Về - Nguyễn Duy Phước

Thursday, December 18, 2025

Từ Biệt Phủ, Mộ Phủ Đến Tên Đường Và Tham Vọng Rẻ Tiền Cá Nhân Chủ Nghĩa - LM. Đặng Hữu Nam


Sài gòn chính thức có tên đường Nguyễn Thiện Thành được đặt ở ven sông Sài Gòn. Chắc 99% người dân VN không biết ông là ai vì ông đâu có tên trong sách sử.

Nguyễn Thiện Thành là “đại tá quân đội nhân dân Việt Nam” kiêm viện trưởng bệnh viện Thống Nhất và là cha của bí thư thành ủy TP HCM hiện nay- Nguyễn Thiện Nhân.
Sài gòn bây giờ quá nhiều tên đường mà người nghe không biết nhân vật đó là ai và không biết có ý nghĩa gì ?

Khác hẳn cách đặt tên đường của Sài Gòn trước 1975. Sau khi người Pháp không còn ở VN, năm 1954 chính quyền miền Nam đã đổi tên những con đường tiếng Pháp thành tiếng Việt và cách đặt tên vô cùng khoa học, xuyên suốt chiều dài lịch sử 4000 năm của dân tộc Vn.

Bước vào cửa ngõ Sài Gòn, các con đường xa trung tâm là tên tuổi những anh hùng của các triều đại trước, càng vào gần trung tâm là tên tuổi những anh hùng của triều đại sau này và con đường nào cũng có ý nghĩa của nó nên rất dễ nhớ đường đi và rất dễ nhớ tên đường.

Như là đường đi qua tòa án tối cao có tên là Công Lý, đường đi qua bộ Y tế có tên là Hồng Thập Tự, đường đi qua nơi người Hoa ở đông nhất có tên là Khổng Tử, những đại lộ dài nhất thì được đặt tên của những vị anh hùng có công lớn đánh giặc ngoại xâm như Hai Bà Trưng - Trần Hưng Đạo - Trần Quốc Toản, đại lộ Quang Trung rất rộng nhưng lại ngắn thể hiện cuộc đời oai hùng nhưng ngắn ngủi của ông, đường Lê Lai nhỏ hơn và nằm bên cạnh đường Lê Lợi thể hiện sự hy sinh của mình để cứu vua Lê Lợi, những danh nhân có quan hệ với nhau thì những con đường đó cũng được xếp cạnh nhau như Phan Thanh Giản - Phan Liêm - Phan Ngữ . . . .

Những người ở nơi khác về Sài Gòn sinh sống chỉ cần biết lịch sử VN thì rất dễ nhớ đường đi và địa chỉ, kể cả những người đi nước ngoài mấy chục năm về lại Sài Gòn họ cũng hình dung ra được con đường nào, ở đâu và địa chỉ họ cần đến là nơi nào. Đó là điểm độc đáo của cách đặt tên đường ở Sài Gòn.

Đặc biệt là không có vị nguyên thủ nào, tướng tá nào, anh hùng nào của chế độ Việt Nam Cộng Hòa được đặt tên đường, tất cả đều là tên tuổi của tiền nhân thời xưa,chứ không phải như bây giờ toàn là tên những “anh hùng” của chế độ.
Sau năm 75 rất nhiều con đường ở Sài Gòn đã được đổi tên thành tên những “anh hùng của đảng”, thậm chí lấy tên của những anh hùng hư cấu không có thật, những anh hùng tự phong để tuyên truyền như là Lê Văn Tám, Võ Thị Sáu, Tô Vĩnh Diện, Phan Đình Giót ... bây giờ lấy cả tên cha của bí thư thành ủy đang đương nhiệm để thỏa mãn tính hám danh và kệch cởm.
 
LM Đặng Hữu Nam

Vậy mới đúng bản chất của Đảng,của tầng lớp gọi là “Vô sản, đại diện cho giai cấp công nông nghèo khổ, giai cấp bị áp bức”😃😂🤣😆😜

Hanh Van chuyển 

Sông Đời Vô Ngã - Đỗ Công Luận

Wednesday, December 17, 2025

Bệnh Đau Lòng Bàn Chân (Plantar Fasciitis) - Bác sĩ Nguyễn Khắc Đoan - Bác sĩ Nguyễn Văn Đức


Bước chân nhẹ nhàng là dấu chứng của sự khỏe mạnh. Ngược lại, chân đau khiến ta đi cà nhắc, thì dù có khỏe mạnh, bước chân cũng khó nhẹ nhàng.

Bệnh đau gót chân do viêm màng gân lót lòng bàn chân (plantar fasciitis) khiến ta tuy khỏe, song bước chân không thoải mái, kém nhẹ nhàng, và đời bớt vui. Đây là bệnh gây đau gót chân nhiều nhất.

Bệnh rất hay xảy ra cho người trên 40 tuổi. Mọi thứ đều dễ hư mòn theo thời gian.


Nguyên nhân

Bàn chân của chúng ta như một hệ thống cơ khí, phía dưới có một màng gân lót co giãn (plantar fascia) hoạt động như lớp nhún. Nhờ vào lớp nhún rất tốt này mà chúng ta đi lại, chạy nhảy nhẹ nhàng, các khớp cũng lâu hư hoại.


Màng gân lót mặt dưới bàn chân tích trữ và nhả ra năng lượng vào mỗi bước ta đi. Trong bệnh đau gót chân do viêm màng gân lót lòng bàn chân, giả thuyết được chấp nhận nhiều nhất là màng gân này bị viêm (inflammation) hoặc rách ở ngay chỗ nó gắn vào xương gót chân, khiến cho gót bị đau, nhất là lúc gót chạm vào thềm cứng. Đã rách, chỗ rách có khi lâu lành, làm căn bệnh kéo dài, có người hơn cả năm vẫn đau. Chỗ màng gân bị rách cũng có thể tạo phản ứng viêm cho vùng thịt ở mặt dưới gót chân, và đôi khi tạo ra gai xương (bone spur), tức xương chỗ mặt dưới gót chân mọc ra một gai nhỏ (mặc dù gai xương này cũng hiện diện ở một số người, dù họ chẳng bao giờ bị đau, chỉ tình cờ chụp phim thấy).


Một số yếu tố khiến chúng ta dễ bị bệnh này:

- Chạy đường dài
- Mang giầy không đúng với bàn chân
- Béo mập
- Đứng lâu
- Nhảy múa, nhất là nhảy ballet và nhảy tập thể dục aerobic
- Liên tục ngồi xuống thấp hoặc đứng trên các đầu ngón chân.


Định bệnh

Khi màng gân lót phía dưới bàn chân chỗ vùng gót chân của bạn bị hư hoại như vậy (danh từ y học: plantar fasciitis, viêm màng gân plantar fascia), bạn cảm thấy đau buốt ở mặt dưới gót chân mé phía bên trong.

Đau nhất là lúc sáng dậy, bước những bước đầu tiên, hoặc lúc đứng lên đi sau khi ngồi nghỉ một lát lâu. Đi lại một chốc, bạn thấy dễ chịu hơn, nhưng thỉnh thoảng, gót lại đau buốt lúc bạn bước chạm vào thềm cứng. Cái đau có thể nặng dần vào chiều tối, sau một ngày dài, và nhẹ đi vào ban đêm khi bạn nghỉ ngơi trong giường. Đau như vậy, sự đi lại chẳng thoải mái tí nào, đâm khó khăn và chậm chạp.

Bác sĩ khám, bấm vào mặt dưới gót chân bạn, mé phía trong, bạn thấy đau. Ngoài ra, bàn chân bạn trông không có gì khác lạ. Nếu ta chụp phim bàn chân, phim chụp bình thường, hoặc cho thấy gót chân có chút gai xương (bone spur). Song xin nhớ, gai xương này cũng hiện diện ở nhiều người chẳng bao giờ bị đau, nên không nhất thiết là nguyên nhân gây ra cái đau.


Chữa trị

Thường khi bạn đến khám bác sĩ, bạn đau đã vài tháng.

Chúng ta thử chữa trước bằng những cách giản dị: xuống cân, giảm bớt các hoạt động đi đứng chạy nhảy, nghỉ ngơi nhiều hơn, dùng thuốc giảm đau (như ibuprofen, naproxen), chườm đá (20 phút ngày 4 lần) và mang giày tốt có gót mềm. (Giày dép rất quan trọng, mang loại không đúng có thể khiến ta dễ đau gót chân, hoặc đang đau sẵn, lâu lành.) Ta có thể lót thêm vào gót giày miếng lót gót (heel insert, bằng silicone thì tốt) hoặc một dụng cụ nâng gót chân (heel cup) để chỗ đau khỏi chạm đất nhiều, bớt thốn khi đi lại. Trong nhà chúng ta cũng không nên đi chân đất hoặc mang dép mỏng lẹp kẹp, song nên đi dép tốt, chắc chắn để nâng đỡ bàn chân.

 

Vật lý trị liệu (physical therapy) và những thể dục nhắm mục đích làm giãn (stretching exercises) màng gân lót mặt dưới bàn chân có thể khiến chỗ tổn thương mau lành.
Chữa như vậy, bạn vẫn không hết đau, có lẽ ban đêm lúc ngủ, bạn cần mang thêm một dụng cụ (night splint) giữ cho bàn chân hơi ngửa (ngửa 5 độ, dorsiflexion 5 degrees) giúp giữ cho màng gân lót lòng bàn chân giãn ra. Nếu cũng không ăn thua, bác sĩ sẽ khuyên bạn bó bột (cast) trong một thời gian ngắn. 

http://www.thegioimoionline.com/wp-content/uploads/2015/03/y-2.jpg

Chữa bằng cách chích thuốc có chất steroid vào chỗ đau ở gót chân cũng giúp ích cho một số người. Tuy vậy, không nên chích nhiều lần quá, vì thuốc có thể khiến màng gân lót lòng bàn chân chỗ đau rách hẳn, mòn đi, về lâu về dài không tốt: màng gân chỗ này hoạt động như một lớp đệm, nay đã mòn rách, khi đi lại, các khớp bàn chân dễ bị hư hoại.


Với những cách chữa trên, khoảng 80% người đau gót do bị viêm màng gân lót lòng bàn chân (plantar fasciitis) sẽ bớt đau. Số còn lại không mấy thuyên giảm, dù đã hơn cả năm. Giải pháp cuối cùng, tuy hiếm khi phải dùng đến, là giải phẫu, cắt đi một nửa màng gân lót (plantar fascia release), và có khi phải cắt đi cả gai xương mọc ra nếu thấy nó lớn quá. Thời gian hồi phục sau giải phẫu là 6 tuần đến 3 tháng. Giải phẫu mang lại hiệu quả tốt cho hơn 80% số người được giải phẫu.

Ôi, cuộc đời, đau cái gì cũng khổ. Cái gót chân bé tí, song khi nó đau, khiến ta buồn phiền không ít. Muốn đi bộ lanh quanh, hít thở hương Xuân, vui hưởng tự do dân chủ, cũng khó khăn. Được cái sự chữa trị thường hiệu quả, giúp ta yêu đời trở lại.


Bs. Nguyễn Khắc Đoan - Bs. Nguyễn Văn Đức

Good Bye!

 

A Father put his 3year old daughter to bed, told her a story and listened to her prayers which ended by saying, "God bless Mommy, God bless Daddy, God bless Grandma and good-bye Grandpa."

The father asked, 'Why did you say good-bye Grandpa?'

The little girl said, "I don't know daddy, it just seemed like the thing to do."

The next day grandpa died.

The father thought it was a strange coincidence.


A few months later the father put the girl to bed and listened to her prayers which went like this, "God bless Mommy, God Bless Daddy and good-bye Grandma."

The next day the grandmother died.

"Holy crap" thought the father, "this kid is in contact with the other side."

Several weeks later when the girl was going to bed the dad heard her say, "God bless Mommy and good-bye Daddy."

He practically went into shock. He couldn't sleep all night and got up at the crack of dawn to go to his office.

He was nervous as a cat all day, had lunch and watched the clock.. He figured if he could get by until midnight he would be okay.

He felt safe in the office, so instead of going home at the end of the day he stayed there, drinking coffee, looking at his watch and jumping at every sound. Finally midnight arrived; he breathed a sigh of relief and went home.


When he got home his wife said, "I've never seen you work so late. What's the matter?"

He said, "I don't want to talk about it, I've just spent the worst day of my life."

She said, "You think you had a bad day, you'll never believe what happened to me. This morning my boss died in the middle of a meeting!"😜😝


[Fun Funky]

Tiếng Sóng - Lâm Chương


(Sau tháng 4/1975, cả miền Nam lâm vào hoàn cảnh hết sức nghiệt ngã. Nhiều gia đình phân ly tan vỡ. Tôi, sau 10 năm tù rạc, trở về gặp người bạn cũ và kể lại chuyện này. Phần cuối của chuyện, tôi mượn triết lý “Câu Chuyện Dòng Sông” - Hermann Hesse - Phùng Thăng dịch, để nói lên cái quan niệm sống của bạn tôi.)

1.

Phạm Văn Gầm nhìn đời bằng một con mắt. Từ ngày anh nhìn theo cái kiểu này thì đời cũng liên tiếp quất cho anh những đòn chí tử. Đau nhất là đòn của vợ anh. Ngón đòn ê ẩm thấu tim gan. Có lúc uất quá, anh muốn giết người. Cũng may, anh kịp dằn lòng. Nếu không, chắc đời đã nghiền nát anh rồi.

Muốn rõ ngọn ngành, phải kể dông dài đầu đuôi câu chuyện.

Gầm là tay có học, nhưng trong thời bát nháo, kẻ không dựa vào thế lực người khác ắt khó được đời trọng dụng. Chán mớ đời, lại đang tuổi động viên không chạy đàng trời nào cho khỏi. Anh vào lính Nghĩa Quân lẩn quẩn ở quê nhà. Những ngày gần cuối tháng Tư, năm 1975, tình hình quân sự rất bi đát. Những đơn vị bạn đã thoái binh từ hai ngày trước. Đồn Nghĩa Quân không còn ai yểm trợ. Bị cô thế, thằng cha trung đội trưởng Nghĩa Quân dẫn anh em chạy bỏ đồn, tìm nơi kháng cự. Trên mặt đất có nhiều đường chạy. Trời xui đất khiến thế nào lại chạy vào ngõ cụt, phía bờ sông Vàm Cỏ Đông. Chui vô khu rừng tràm. Cố thủ trong một nơi sình lầy nước đọng. Địa thế tác chiến bất lợi trăm bề. Trước mặt là đồng ruộng, sau lưng là con sông lớn. Nếu bị tấn công, rút lui ngả nào?

Nói cố thủ cho oai, chứ thật ra chả đánh đấm mẹ gì. Quân chính quy Bắc Việt đang dồn nỗ lực về thủ đô. Ở đây, chỉ còn le hoe một số du kích địa phương. Du kích đứng từ bìa làng, phóng loa kêu gọi Nghĩa Quân đầu hàng.

Trung đội trưởng nói với anh em: “Cố thủ, chờ quân mình phản công. Tên dép râu nào xông vô, bắn bể đầu cho tao.”

Kêu gọi không được, du kích dùng súng cối 60 bắn vào khu rừng tràm. Súng mới lấy được của một đơn vị thoái binh nào đó bỏ lại. Du kích chưa quen sử dụng nên trái rớt bên đông, trái rớt bên tây. Cũng có trái lọt vào rừng tràm. Chính trái đạn quái ác này văng miểng làm bị thương con mắt trái của Gầm. Vết thương không trầm trọng, nhưng do điều kiện thiếu vệ sinh nên nhiễm trùng, gây đau nhức khó chịu.

Sau mấy ngày cố thủ, hết lương thực mà viện binh không thấy, cũng không liên lạc vô tuyến được với đơn vị bạn. Túng thế, anh em Nghĩa Quân cho Gầm đi một mình ra đầu hàng, mục đích để được chữa thương. Lúc đó, anh mới biết lệnh đầu hàng đã tuyên bố từ ba hôm trước. Du kích bảo anh quay trở lại rừng tràm, báo tin này cho anh em Nghĩa Quân. Khi tất cả Nghĩa Quân chịu buông súng trở ra thì con mắt của Gầm đã vô phương cứu chữa. Một y tá địa phương giúp anh múc tròng mắt hư bỏ đi. Từ đó, Gầm nhìn đời bằng một con mắt.

Cuộc đời chung, vốn nhiều xấu xa bỉ ổi. Nhìn rõ mặt đời quá, nhiều khi lại đâm ra chán đời. Thà nhìn bằng một con mắt, may ra còn thấy đời mờ mờ hư ảo dễ thương. Gầm tự an ủi như thế, và quyết tâm làm lại cuộc đời riêng của mình. Xây dựng một mái ấm gia đình, vợ con hạnh phúc. Chẳng phải Gầm vẫn mong một ngày đất nước bình yên, vất cây súng, nắm lấy tay cày bừa sinh sống hay sao? Đêm đêm, không còn nghe tiếng súng, ngủ khỏi giật mình là sướng rồi.

Việt Cộng vào, tự xưng cách mạng. Gầm là lính trơn, chỉ phải học tập chính sách mới một tuần, được cách mạng cho về làm ăn. Xóa bỏ hận thù, xóa bỏ những tàn tích cũ, cùng nhau xây dựng lại một xã hội yên bình tốt đẹp hơn. Tổ chức ngăn nắp, quy củ rõ ràng. Có nhóm, có tổ, có khóm, có phường. Người ta bảo tổ chức như thế để giúp đỡ nhau khi tối lửa tắt đèn. Cách giải thích nghe có lý có tình, nhưng thật ra là để dòm ngó kiểm soát lẫn nhau. Vợ Gầm cũng tích cực tham gia hoạt động xã hội mới. Bây giờ, chị là hội viên Hội Phụ Nữ của xã. Cứ vài hôm, lại đi họp một lần. Chẳng biết khi họp, họ nói với nhau những gì. Về nhà, trông chị phấn khởi yêu đời thấy rõ. Gầm mừng. Vợ vui là anh vui. Người đàn ông nào cũng muốn đem lại hạnh phúc cho vợ. Gầm cũng thế. Càng thương hơn nữa, chị không hề chê anh khuyết tật. Mọi người bình đẳng, theo cách nói “con người vốn quý” của cách mạng.

Niềm vui trong gia đình kéo dài không lâu. Sau này, vợ Gầm đi họp thường xuyên hơn. Lắm khi, chị đi đến khuya lắc mới về. Và chị về không phải với gương mặt tươi tắn yêu đời như anh hằng mong đợi. Chị hay kiếm cớ gây sự, mắng mỏ anh nhiều câu hỗn láo, cho rằng kết duyên với anh là một lầm lỗi lớn trong đời chị. Chuyện gối chăn, cũng không còn đậm tình chồng vợ. Chị tỏ ra thờ ơ lạnh nhạt, khước từ lảng tránh ái ân.

Sau chiến tranh, đất nước lâm vào nỗi nghèo nàn cơ cực. Muốn nâng cao phúc lợi toàn dân, phải có kế hoạch lâu dài. Cách mạng phát động phong trào thi đua lao động. Làm thủy lợi, đắp đập đào mương, dẫn thủy nhập điền. Là lính Nghĩa Quân của chế độ cũ, dĩ nhiên Gầm được chọn làm đối tượng “lao động là vinh quang” của chế độ mới. Cái khẩu hiệu mới nghe có vẻ sáng ngời, nhưng đủ sức vắt cạn tinh lực con người đến chết. Ngoài việc thủy lợi như bao nhiêu người dân khác, những kẻ được liệt vào thành phần ngụy quân ngụy quyền còn được cách mạng tận tình chiếu cố, làm thêm công tác tháo gỡ mìn bẫy nơi các đồn bót cũ. Mìn chôn dưới mặt đất, ló lên cái ngòi kích hỏa như sợi râu con dế lẫn trong cỏ, khó nhìn thấy. Phương tiện dò mìn là chiếc gậy nhọn đầu, chọt chĩa khều móc theo những hàng rào kẽm gai. Trái mìn nào nổ, coi như xong. Trái nào chưa nổ, phải tìm cách moi lên và vô hiệu hóa. Đã có nhiều người bỏ mạng, hoặc sút tay gãy gọng vì công tác này rồi. Gầm may mắn, không bị hề hấn gì. Trước sự việc này, cách mạng lý luận, các anh gài mìn thì các anh phải tháo gỡ thôi. Hết chiến tranh, còn duy trì những thứ chết người đó làm chi? Cũng đúng thôi! Lý của cách mạng, bao giờ mà chả đúng? Mỗi chuyến công tác chừng mươi bữa nửa tháng. Về nhà chưa nóng đít, Gầm lại có lệnh đi công tác nữa.

Thời gian này, Gầm nghe lời đồn đãi bóng gió về chuyện lén lút lăng nhăng của vợ anh với viên xã ủy. Anh hỏi vợ. Chị lồng lên, xỉa xói vào mặt anh bằng đủ thứ ngôn từ chanh chua của mấy mụ chuyên môn ăn cắp vặt ở những khu chợ đông người. Mồm miệng nào mà đấu khẩu cho lại con vợ điêu ngoa? Gầm nhịn. Càng về sau, chị càng lộng hành công khai đi lại với viên xã ủy, coi chồng chẳng ra chi. Gầm tức, toan giết kẻ gian dâm với vợ anh, nhưng con gà thất thế, muốn vói lên mổ con chó sói là điều không dễ. Kiện thưa ư? Luật lệ địa phương nằm trong tay của viên xã ủy. Nó chưa triệt tiêu Gầm, đã là điều may. Đòi hỏi công lý là điều không tưởng. Chẳng làm gì được kẻ có quyền, Gầm quay ra chửi vợ. Chị cũng không vừa, rủa lại anh là thứ “voi một ngà, người ta một mắt”, ám chỉ tính hung dữ thể hiện qua sự dị hình. Bị chạm vào khuyết tật, Gầm đau như ngực bị đâm dao nhọn. Manh nha trong đầu Gầm ý tưởng tùng xẻo con vợ, rồi thắt cổ tự vận luôn. Cái lưỡi lê từ thời còn đi lính, chưa bén máu người. Lần này, nó sẽ được dùng để trừng trị một con đàn bà trắc nết. Gầm tưởng tượng vợ anh sẽ đau đớn rên la và quằn quại trên vũng máu. Một hình ảnh ghê khiếp quá, chưa thi hành mà anh đã rợn. Ngay vào thời chiến tranh, anh cũng không nhẫn tâm làm điều đó với đối phương, huống chi bây giờ hành sử với người đã từng cùng chung chăn gối? Nhiều đêm trăn trở, Gầm tự hỏi, con đàn bà lăng loàn hư đốn này có đáng để anh đánh đổi luôn mạng sống của mình? Câu hỏi, làm anh tỉnh thức. Lòng anh chùng lại. Sau cùng, anh quyết định bỏ đi. Có kẻ chê anh hèn nhát. Cũng có người thấu lẽ đời, cho thế là khôn. Anh ở lại, chẳng những không làm sứt mẻ được ai, nhiều khi còn nguy đến tính mạng. Viên xã ủy đâu muốn thấy một cái gai trước mắt? Gầm tự hiểu, và lánh mặt trước khi trở thành con sâu cái kiến bị chà đạp.

2.

Tôi trở lại quê nhà sau 10 năm tù rạc, nghe tin bằng hữu mỗi ngày một thêm tan tác. Người lẩn vào rừng sâu, sống đời hoang dã. Người uất khí hộc máu tươi, vì cường quyền áp bức. Người xiêu tán phương xa, biệt tăm không biết sống chết lẽ nào. Và người ở lại như Phạm Văn Gầm, nghe nói cũng thay đổi lạ lùng. Anh nhìn đời bằng một con mắt, và lui về nơi khuất lánh bên dòng sông, rũ hết sự đời, sống theo con nước.

Tôi mua bịch thuốc rê, chai rượu đế, lần dò đi thăm bạn. Tôi đến vào buổi xế chiều. Chòi trống. Tôi đứng ngóng ra sông, chờ Gầm. Gió thổi hiu hiu. Ánh tà dương đỏ rực mặt sông. Những cụm lục bình lờ lững trôi xuôi. Vài cánh cò chấp chới xa xa. Bên kia sông, rừng tràm bát ngát. Gầm về theo nước thủy triều lên. Trong cái lốt ngư ông áo vải nón mê, anh hoàn toàn lột xác khỏi con người ngày cũ. Dáng anh gầy gò, phong thái thong dong.

Thấy tôi, anh cười rộ theo kiểu ẩn sĩ đời xưa: “Gió lớn bốn phương, còn quay về quê cũ được sao?”

Tôi cũng cười vang trên bờ sông, như một giang hồ hiệp khách: “Thiên hạ đại loạn, còn an nhiên tự tại được sao?”

Chúng tôi dắt tay nhau vào trong chòi lá. Sau những thăm hỏi thông thường, tôi nói với Gầm về những ngày tù rạc của tôi. Anh bảo, còn sống trở về là may, thời thế không là dầu sôi lửa bỏng, nhưng hiểm nguy lúc nào cũng đang rình rập bên mình.

Buổi tối, chúng tôi bày rượu nhâm nhi chờ trăng lên. Tôi nghe Gầm kể chuyện đời, chuyện mình.

Tôi nói: “Để chữa lành một vết thương, mà chịu hãm mình cô quạnh bên một dòng sông là điều uổng phí.

Gầm bảo: ”Ở vào cái thế thúc thủ, còn vọng động tranh chấp hơn thua là chuốc họa vào thân.”

Anh cho rằng, ý nghĩa của đời sống tùy quan niệm mỗi người. Có kẻ tìm sự vui thú trong tiền tài. Có người tìm sự thỏa mãn trong quyền lực. Nhưng những thứ đó không đem lại sự bình yên trong tâm hồn. Còn anh, anh theo cái triết lý sống Ông Chài, một bài học thuộc lòng thuở nhỏ, và đọc:

Nước trong rửa ruột sạch trơn

Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.

Sớm doi tối vịnh vui vầy

Ngày dài đón gió, đêm chầy chơi trăng.

Tháng ngày thong thả làm ăn

Khỏe quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm

Nghêu ngao nay trích mai đầm

Một bầu trời rộng, vui thầm ai hay!*

Đọc xong, Gầm cười sảng khoái, nói “Phúc tại tâm không lý đến đời”.**.

Tôi hỏi điều gì đã làm anh thay đổi quan niệm sống đến tận ngọn nguồn gốc rễ?

Anh nói, hoàn cảnh và dòng sông. Hoàn cảnh đã xô anh vào đường cùng, để từ đó, anh thấy đời là bể khổ. Dòng sông đã dạy cho anh biết thế nào là sự im lặng.

Tôi hỏi: “Im lặng mà cũng phải dạy nữa sao?”

Gầm ngó ra sông nói: “Trong im lặng mình nhìn lại được chính mình”.

Trăng đã lên cao. Ngồi trong chòi, nghe tiếng sóng vỗ ngoài bờ sông.

Tôi nói: “Dòng sông đâu chỉ im lặng, còn có tiếng sóng nữa”.

“Vâng”. Gầm nói: “Tiếng sóng như tiếng vỗ về của mẹ thiên nhiên. Đi tìm an ủi ở đâu cho xa? Ngay ở đây, bên bờ sông này đã cho ta điều đó”.

Chai rượu đế chắt đến giọt cuối cùng. Đêm đã khuya lắm. Con trăng đã xế về bên kia rừng tràm. Mọi vật chìm trong tịch mịch lặng im. Chỉ còn nghe tiếng sóng triền miên như niềm an ủi bất tận của bạn tôi trong nỗi đời hiu quạnh.


Lâm Chương

* thơ Nguyễn Đình Chiểu

**thơ Tô Thùy Yên