Người Phương Nam
Pages
- Trang Chủ
- About Me
- Truyện Ngắn
- Sưu Tầm
- Sưu Tầm from 2020
- Góp Nhặt Bên Đường
- Nhạc Chọn Lọc
- Sưu Tầm Sức Khỏe
- NPN's Recipes
- Trang Người Phương Nam
- Cười Ý Nhị
- PPS + YouTube Chọn Lọc
- Những Hình Ảnh Ý Nghĩa
- Thơ
- Thơ From 2020
- Bùi Phương Lưu Niệm
- Trang Anh Ngữ
- Truyện Dài : Về Phương Trời Cũ
- Truyện Dài : Ngày Tháng Buồn Hiu
Saturday, December 20, 2025
9 Kiểu "ĂN" Dành Cho Đàn Ông
Sưu tầm
Có Một Đời Sống Bình Thường Đã Là Phước Lớn Rồi
Có những ngày, ta chỉ mong cuộc sống bình thường như trước: Một bữa cơm đơn giản bên người thân, Một buổi sáng được khỏe mạnh bước ra đường, Một tối yên lành không lo nghĩ. Thế mới hiểu, điều bình thường chính là điều quý giá nhất mà ta từng vô tâm không nhận ra.
☘ BÌNH THƯỜNG LÀ PHƯỚC - VÌ VÔ THƯỜNG LUÔN RÌNH RẬP.
Một ngày đẹp có thể hóa bão tố chỉ trong phút chốc. Người
đang cười hôm nay có thể nằm xuống ngày mai. Vô thường không hẹn trước, và
chính vì thế, điều bình thường là điều đáng biết ơn nhất.
Nếu ta biết nhìn sâu, sẽ thấy:
• Mỗi bữa cơm không thiếu món là phước.
• Mỗi giấc ngủ yên là phước.
• Mỗi lần hít thở giữa cuộc đời không sợ hãi – là phước.
“Hôm nay ta còn được sống, Là ngày hạnh phúc nhất.” (Kinh
Tăng Chi Bộ)
☘ BÌNH THƯỜNG- MÓN QUÀ VÔ GIÁ MÀ HIẾM AI NHÌN THẤY.
Khi khỏe mạnh, ta chẳng thấy ơn cuộc sống. Chỉ khi bệnh,
mới nhận ra chỉ cần thở thôi cũng là hạnh phúc.
Khi người thân còn bên cạnh, ta dễ buông lời giận hờn.
Chỉ khi họ rời xa, ta mới đau đớn hiểu rằng được ở cạnh nhau đã là phước.
Con người thường mải chạy theo điều lớn lao mà quên rằng
phước thật nằm ngay trong từng điều nhỏ nhặt của hiện tại:
• Một bữa cơm còn đủ vị.
• Một mái nhà còn tiếng nói cười.
• Một sáng thức dậy vẫn còn đôi tay, đôi chân nguyên vẹn.
Đó là phước. Đức Phật dạy: “Biết đủ là giàu có, biết an
là hạnh phúc.”
☘ KHI BIẾT DỪNG LẠI, TA MỚI THẤY PHƯỚC HIỆN HỮU.
Ta khổ không vì cuộc đời thiếu, mà vì tâm luôn muốn nhiều
hơn. Muốn được yêu hơn, được khen hơn, được sở hữu hơn. Nhưng càng muốn, lòng
càng bất an.
Người biết đủ không phải là người có nhiều, mà là người
biết dừng đúng lúc, biết trân quý những gì đang có. Bởi hạnh phúc thật không
nằm ở vật chất, mà ở cảm nhận tĩnh lặng trong tâm.
Bình thường là khi ta sống ngày hôm nay mà không tiếc quá
khứ, không lo tương lai. Là khi ta ăn cơm biết mình đang ăn, thở biết mình đang
thở. Đó là chánh niệm, là con đường Đức Phật đã chỉ dạy.
☘ BIẾT ƠN ĐIỀU BÌNH THƯỜNG - PHƯỚC SẼ THÊM ĐẦY.
Phước không đến từ những lễ nghi xa hoa, mà từ tâm biết
ơn trong từng phút sống. Khi ta biết cảm ơn cuộc đời, cảm ơn người đã giúp, cảm
ơn cả thử thách – năng lượng phước lành sẽ lan tỏa.
Người biết ơn, dù ở hoàn cảnh nào, cũng vẫn an.
Người oán trách, dù được nhiều đến đâu, cũng chẳng thấy
đủ.
❤ Bình thường mới là phước.
Vì trong cái bình thường ấy, có đủ yêu thương, đủ an
nhiên, đủ hạnh phúc. Khi ta thôi mơ
những điều xa xôi, quay về sống trọn trong giây phút hiện tại, ta sẽ nhận ra:
mỗi hơi thở yên lành chính là phép màu nhiệm mầu nhất của cuộc đời.
Hạnh phúc vốn là đơn giản
Nho nhỏ những điều quanh ta
Hạnh phúc hiện hữu đang là
Tỉnh thức sâu xa.. cảm nhận.
- Biết Sống thì nào ân hận
Khi mọi thứ.. rời sân ga.
Lặng nghe hơi thở vào, ra
Thấy đời bao la.. hạnh phúc.
(Như Nhiên-TTT)
Namo Buddhaya
Friday, December 19, 2025
Mối Tử Thù - Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Ông Trần Văn Mạnh có
một mối tử thù bất cộng đái thiên với ông Phan Văn Lịch. Ông thề trước bàn thờ
tổ tiên rằng nếu ông chết đi mà không trả được mối thù này thì con cái ông phải
trả cho ông, đứa nào không trả được thì coi như là con bất hiếu, không xứng
đáng được hưởng gia tài ông để lại, không được mang giòng họ Trần của gia tộc,
chết xuống suối vàng mà ông gặp được thì ông nhất định sẽ giộng cho một đạp…
Cậu con trai là loại
hiếu thảo nên nghe bố tâm sự não nùng như vậy thì hiểu ý ngay, từ đó không dám
đòi hỏi gì nữa, chỉ lo ăn học. Rồi sau nhiều cố gắng cậu cả đậu được cái bằng
tú tài II hạng ưu. Ngày đó là một ngày trọng đại trong đời ông Mạnh. Từ nhỏ đến
giờ ông chỉ có hai ngày trọng đại: ngày thứ nhất là ngày ông cưới bà Mạnh, ngày
thứ hai là ngày ông được mướn vào làm thư ký trong tòa hành chánh. Hôm nay sau
bao nhiêu công trình dưỡng dục, thằng con cả ông đậu tú tài, ông phải liệt ngày
này vào trong những ngày trọng đại của đời ông. Hai bố con ngồi nói chuyện với nhau,
cả hai đều đồng ý rằng nhà tuy nghèo, nhưng nên mượn tiền mở một buổi tiệc nho
nhỏ để thết đãi quý thầy cô, quý hàng xóm và bạn bè. Hai cha con đồng ý xong,
mặt mày hớn ha hớn hở, chỉ chờ sự chấp thuận của bà Mạnh là ra sau nhà giết gà
mổ lợn liền.
Hai cha con được mời
ngồi ở phòng khách nhà ông Lịch. Phòng khách sang trọng không chịu được. Ông
Mạnh suốt cả hai mươi năm qua, đây là lần đầu tiên ông bước vào phòng khách nhà
người bạn thuở xưa. Cái gì cũng mới cũng đẹp, cũng mắc tiền. Đây là hòn non bộ,
kìa là chậu cá, chỗ nọ khe nước nhân tạo chảy róc rách nghe êm tai chả khác nào
đứng bên giòng suối. Trong một giây phút động lòng ông Mạnh bỗng thấy thương
cho số kiếp của mình. Con vua thì làm vua, con thầy chùa thì đi quét lá đa. Ông
quay nhìn thằng con trưởng nam đang ngồi bên phải mình, xem thử nó có tướng
quét lá đa hay không. Ông hơi ngạc nhiên khi thấy khuôn mặt nó bình thản, không
có vẻ khúm núm như ông. Ông thầm nghĩ: “Không chừng thằng bé này lại làm được
chuyện gì cho giòng họ chăng"”.
Ông đứng dậy đi vào
nhà trong bỏ mặc bố con ông Mạnh ngồi chưng hửng nơi phòng khách. Ông Mạnh
không thể ngờ rằng thằng Lịch bạn ông ngoài mặt thì niềm nở thân thiết như thế
kia, tưởng có thể chết cho bạn bè được mà trong ruột thì khô khan keo kiệt
không thể nói được. Ông đã toan đứng dậy đi về nhưng nghĩ đến khuôn mặt của
thằng con trai, của bà vợ hiền, ông liền ráng vuốt nóng ngời chờ đợi.
Nghe xong lời dạy dỗ
của người bạn, xém tí xíu nữa thì ông Mạnh ngã té xỉu xuống nền nhà. Mắt ông
long lên, trợn tròn lại tưởng có thể bay phọt ra ngoài cắm vào cái mặt bẩn thỉu
kia. Suốt đời ông, ông đã bị hạ nhục nhiều lần, như lần đi nhậu đứng đái bậy
bên cột đèn bị thằng cảnh sát hăm he đòi bỏ bót để ông phải hạ mình năn nỉ...
nhưng chưa có ai hạ nhục ông như lần này. Trong giây phút nóng nảy, ông muốn
xông tới thò tay nắm lấy cái cổ đầy mỡ của ông Lịch mà cắn một phát cho nó phụt
máu ra rồi thiên hạ có muốn đem ông đi giết hay đi ở tù gì cũng được. Nhưng
trong lúc ngút lửa hận thù đó, bỗng tự nhiên ông trở nên bình tĩnh lạ thường.
Ông thầm nghĩ: “Mình bây giờ là kẻ nghèo, thất thế sa cơ, nếu mình đánh nó là
mình dại. Chưa biết có làm gì nổi nó không nhưng chỉ tổ khổ vợ khổ con. Vả lại,
đời xưa có nói: “Người quân tử trả thù ba năm chưa muộn”. Chi bằng bây giờ ta
cứ làm mặt tự nhiên, cầm lấy tờ giấy bạc bố thí từ tay thằng khôn này, đem về
để trên bàn thờ để nuôi chí phục thù. Ngày nào đó, ta làm ăn nên rồi sẽ bố thí
cho nó tờ giấy bạc này”.
Thế là ông vận hết nội
công để nở một nụ cười, cầm lấy tờ giấy bạc từ tay ông Lịch, cúi đầu thật sâu
để cảm ơn rồi dắt thằng con trai lớn ra về.
Đúng y như ông dự
đoán, gia đình ông Lịch thay phiên nhau đi tù. Từ ông bác sĩ, ông trung tá
xuống cho đến cậu út kỹ sư mới ra trường ai cũng ôm chiếu đi trình diện tuốt
luốt hết. Sau khi khu nhà vila sang trọng bị tịch thu làm của công cho nhân
dân, ông Lịch bỏ đi biệt tích. Ông Mạnh có ý tìm kiếm mấy lần nhưng không được,
sẵn có một chuyến vượt biên do người bạn tổ chức, ông bèn dắt vợ con phóng tuốt
lên thuyền theo bạn ra khơi, không quên đem theo tờ giấy bạc 500 đồng Việt Nam
gói rất kỹ trong xì líp chung với tờ giấy một đô la để dành. Đối với ông, mối
thù vẫn chưa được trả, nếu trời cho ông đi lọt chuyến này, ông nguyện sẽ cúng
một con heo và sẽ kiếm cho được ông Lịch để trả cho được mối thù kia…
Trời dường như cảm
thông với những khổ cực của ông, cho ông vượt biên đến nơi an toàn, tuy ông
không có cúng con heo như lời hứa ngày nào nhưng trời cũng không lấy thế làm
buồn, cứ cho ông dắt vợ con qua đất Mỹ tỵ nạn. Tính đến ngày hôm nay thì ông đã
ở thành phố New Orleans gần sáu năm, đã mua nhà mới, sắm xe mới, chiều chiều
hay xách vợt đi đánh tennis và nuôi thêm cả chó cho nó hợp thời trang. Cuộc
sống của ông bây giờ rất thoải mái nhưng không phải vì thế mà ông quên mối thù
cũ với ông Lịch. Ông thỉnh thoảng cũng có dò hỏi tin tức kẻ thù. Có người đồn
là ông Lịch đã chết, có người đồn là ông Lịch đã vượt biên rồi qua Pháp...
Ông dẹp liền cái vụ ăn
uống, rửa tay chân lên phòng khách ngồi bóc thơ ra xem. Đại khái ông Lịch tả
cảnh mấy đứa con đều đi học tập chưa về, vợ ông đã mất cách đây hai năm vì quá
đau buồn, còn ông đã bán hết gia tài được ba lượng vàng để ra đi. Nay ông Lịch
đã nằm trên đảo gần hai năm mà vẫn không được cứu xét chờ đi Mỹ vì ông không
thuộc phải thành phần quân nhân cũ, và cũng không có thân nhân gì ở Mỹ. Ông
Mạnh càng đọc đến nỗi đau khổ của ông Lịch thì ông càng cảm thấy khoái chí
trong lòng như vừa uống được một loại rượu quý. Trong đầu ông bỗng hiện về cái
hình ảnh của buổi chiều ông bị làm nhục cách đây vài chục năm nhưng ông thấy
như mới ngày nào. Có thế mới biết con tạo xoay vần, ông Lịch ngồi rung đùi thầm
nghĩ. Ông lại nghĩ không chừng ông bà mình linh thiệt, tết này phải mua một con
heo thật lớn để cúng.
Tính toán một chặp ông
quyết định ngày mai sẽ gởi một lá thơ qua tòa đại sứ Mỹ ở BangKok. Ông sẽ vu
khống cho ông Lịch là cộng sản và đề nghị họ gởi trả ông Lịch về Việt Nam. Nói
là làm, ông mở tủ lạnh thưởng cho mình một chai bia rồi lấy giấy bút ra thảo lá
thơ.
Ông Mạnh không tin ở
cái lỗ tai mình, không ngờ con mẹ Mạnh ngoan ngoãn ngày nào hôm nay bỗng bị quỷ
ám hay uống thuốc liều hiệu gì mà dám lăng nhục ông như vậy. Trong cơn nóng
giận, ông chụp lấy cái gạt tàn thuốc ném xuống sàn nhà vỡ tan tành.
Trời cho mỗi người một
bàn tay và ý chí, ai chịu khó làm ăn thì giầu. Vả lại sự giầu sang của ông Lịch
đâu phải tự dưng mà có được, ông ấy cũng đâu phải hạng tham nhũng hại dân"
Ông ghen tức chỉ vì ông thấy người ta có nhà cao cửa đẹp, còn những lúc người
ta cực khổ làm ăn trong khi ông ngày ngày hai bữa sáng cắp ô đi tối cắp ô về
thì ông không thấy. Nhờ trời phật phù hộ sang được đến đây rồi, thay vì tận
dụng chút sức thừa còn lại của tuổi già để làm việc giúp đỡ đồng bào, ông lại
xử sự như một đứa con nít. Ông phải giải phóng ông khỏi cái đầu óc nhỏ hẹp đầy
tầm thường nhỏ mọn, ai nói động một câu là nhớ cho đến chết, cái lòng ích kỷ tự
tôn tự đại, cái gì có tôi quyết định thì mới xong được. Nếu ông giải phóng cho
ông được những chuyện đó, ông khỏi cần về nước, cứ ở lại đây thì sự có mặt của
ông đã là một hãnh diện của cộng đồng Việt Nam rồi.
Bà Mạnh nói một hồi
không cảm thấy mỏi miệng nhưng cảm thấy... mỏi chân, liền ngồi xuống ghế. Ông
Mạnh kể từ khi lấy vợ, cứ tưởng vợ mình cù lần nên rất ít kiêng nể, hôm nay
thấy vợ tự dưng xổ liền một thôi toàn những lời văn hoa lý lẽ, đầy đủ Nhân
Nghĩa Lễ Trí Tín như đức Khổng Tử thì đâm ra kiêng nể.
Ông thầm nghĩ mụ vợ
mình không chừng có thể ra tranh cử chức Hội Trưởng Hội Bảo Vệ Hạnh Phúc Gia
Đình tại New Orleans được, nếu kẹt lắm thì chắc cũng tóm được cái chân Tổng thư
ký. Ông thò tay lấy cái lá thư “chụp mũ” vừa thảo xong vò nát đi.
Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Đôi Điều Suy Tư Về Mầu Nhiệm Giáng Sinh - Thiện Ý
Ðêm 24 rạng
ngày 25-12 hàng năm cũng như năm nay 2018, tại thành phố Houston này, cũng như
đêm qua, đêm mai tại những vùng đất có dân cư ở những múi giờ khác nhau trêm mặt
địa cầu, con người nói chung, các tín đồ Thiên Chúa Giáo nói riêng, bằng nhiều
hình thức, nghi lễ khác nhau, với tâm tình khác nhau, đã, đang và sẽ đón mừng kỷ
niệm ngày Giáng Sinh lần thứ 2018 của một con người siêu phàm, có tên là Giêsu,
đã xưng mình và đã minh chứng Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người để
cứu chuộc nhân loại. Như vậy, Giáng Sinh đã là một sự kiện và là một biến cố có
thật trong lịch sử nhân loại, mang ý nghĩa lịch sử bên cạnh ý nghĩa mầu nhiệm
tôn giáo nói chung, của Thiên Chúa giáo nói riêng.
Là một sự kiện có thật, vì quả thật
trong lịch sử nhân loại đã có một con người siêu phàm tên là Giêsu sinh ra cách
nay 2018 năm, trong một máng cỏ nơi một hang đá dành cho bò lừa trú ngụ, vào một
mùa đông giá lạnh. Hang đá ấy có tên là Bê-lem(Bethlem), miền Giu-đê thuộc nước
Do Thái cổ xưa, dưới thời đế quốc La Mã thống trị, nay cũng đã và đang diễn ra
tranh chấp đẫm máu giành quyền làm chủ giữa hai dân tộc Israel và Palestin.
Là một biến cố có thật, vì sự xuất hiện của
con người phi phàm Giêsu, đã làm cho vua Hê-rô-đê (Herode) lo sợ mất quyền
bính, nên đã ra lệnh sát hại hàng ngàn sinh linh trẻ thơ vô tội. Biến cố ấy đã
được lịch sử ghi nhận và thực tiễn đã làm thay đổi tư duy, đời sống con người
và bộ mặt thế giới. Biến cố ấy cũng đã được con người chọn làm mốc thời gian
năm tháng cho cuộc sống (Dương lịch). Nhưng điều hệ trọng hơn là sự kiện
và biến cố ấy đã mang một ý nghĩa mầu nhiệm (miraculous) của đức tin tôn
giáo, được thể hiện qua các hiện tượng lạ phát sinh từ và chung quanh con người
siêu phàm mang tên Giêsu ấy.
Là
một mầu nhiệm, vì để hiểu, biết và tin sự kiện “Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng Trần Cứu
Chuộc nhân loại” là sự thật, con người không thể bằng tầm
tri thức hữu hạn (đức
lý), mà cần được trang bị bằng “cặp mắt đức tin” thuộc
phạm trù tôn giáo.
Thật vậy, với tầm tri
thức hữu hạn, con người làm sao có thể hiểu được và chấp nhận một hài nhi bé
nhỏ, sinh ra trong cảnh nghèo hèn, bởi một trinh nữ có tên là Maria, sống chung
mà không phải vợ chồng, với một người bạn có chung niềm tin, làm nghề thợ mộc
có tên là Giuse. Nghĩa là Hài Nhi Giêsu ấy, đã được thụ thai trong cung lòng
Trinh Nữ Maria bởi quyền năng Chúa Thánh Thần (mà ngày nay khoa học đã chứng minh được
qua sự thụ thai không chỉ qua giao hợp lưỡng tính) và Hài Nhi ấy
sau này lại xưng mình là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần để cứu chuộc nhân loại,
đã làm nhiều phép lạ cả thể, nhất là những phép lạ xẩy ra vào ba năm cuối đời
đi rao giảng Tin Mừng và mạc khải cho loài người về Thiên Chúa và Ơn Cứu Ðộ.
Sau cùng đã hoàn tất chương trình cứu độ bằng một cái chết treo khổ nhục trên
thập tự giá vào tuổi 33, để rồi sau ba ngày Ðức Giêsu đã sống lại và lên Trời
trước mặt nhiều người đương thời.
Những
người chứng kiến các phép lạ xảy ra từ và chung quanh con người phi phàm Giêsu
có thể biết và tin vào mầu nhiệm Giáng Sinh, song chỉ là số ít. Còn biết bao
người đương thời, cũng như con người các thời đại sau này không được tận mắt chứng
kiến các phép lạ thì sao?
Hiển
nhiên khó mà có lòng tin vào Mầu Nhiệm Giáng Sinh cũng như các mầu nhiệm khác
thuộc quyền năng của Thượng Ðế. Tuy nhiên đây chỉ là nói theo luận lý thông thường
của tầm tri thức hữu hạn của con người. Ngoài tầm tri thức hữu hạn này, con người
còn tiềm ẩn một khả năng vượt trội, siêu hình, đó là Ðức Tin, một khi được khơi
động sẽ có thể hiểu biết và cảm nghiệm được mọi mầu nhiệm trong thế giới siêu
hình vô hạn. Các tín đồ có niềm tin nơi Thượng Ðế, chính là những con người được
trang bị “cặp
mắt Ðức Tin” tôn giáo, đễ có thể nhận thức được những gì vượt tầm
tri thức hữu hạn của con người.
Hiện
tại, sau 2018 năm Hài Nhi Giêsu ra đời, đã có hàng tỉ nhân loại tin vào ơn Cứu
Ðộ qua mầu nhiệm Giáng Sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng Trần cứu chuộc nhân
loại. Bằng niềm tin này, người ta có thể lý giải dễ dàng những sự kiện siêu tự
nhiên từ một căn bản: Nếu đã tin và chấp nhận một tiền đề Thượng Ðế Toàn
Năng đã tác tạo vũ trụ vạn vật và cho nó vận hành theo những quy luật riêng cho
từng loài và quy luật chung cho mọi loài, thì không có gì Thượng Ðế không làm
được.
Một
điển hình, nếu
ngày nay con người đã có thể bắt chuớc quy luật cấu tạo con người của Thượng Ðế (chứ
không phải “cướp quyền” Thượng Đế) bằng cách lấy chất liệu từ con
người vốn là vật thụ tạo của Thượng Ðế, cho thụ thai trong ống nghiệm có điều
kiện môi sinh như trong cung lòng người nữ; hay cho thụ thai trong chính cung
lòng người nữ, thì đối với quyền năng Thượng Ðế, việc thụ thai của Hài Nhi
Giêsu trong cung lòng trinh nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần vào 2018 năm trước
đây, là điều hiển nhiên, không có gì phải tranh luận. Trinh Nữ Maria sau khi
sinh Hài Nhi Giêsu vẫn còn đồng trinh là hệ quả tất nhiên do cách thụ thai
ngoài sự giao hợp lưỡng tính thông thường cũng là điều hiển nhiên không cần biện
giải.Vì các tín điều tôn giáo nói chung, Thiên Chúa giáo nói riêng như những định
đề toán học không thể chứng minh và không cần chứng minh (Như định đề Euclide: Từ một điểm, ngoài
một đường thẳng, ta chỉ có thể kẻ một đường thẳng thẳng góc hay hay song song với
đường thẳng ấy” chẳng hạn). Nhưng tin hay không tin và chọn niềm
tin tôn giáo nào là quyền tự do của con người không thể áp đặt.
Ðến
đây vấn đề chỉ còn là mỗi con người có chấp nhận mầu nhiệm Giáng Sinh cũng như
các mầu nhiệm khác của Thượng Ðế hay không. Vì đó là quyền tự do lựa chọn của mỗi
con người, mà chính Thượng Ðế đuợc tin là Ðấng sáng tạo ra con người, vạn vật,
vũ trụ… cũng phải tôn trọng tuyệt đối quyền tự do của con người, kể cả quyền chối
bỏ hay chống lại Thượng Đế. Bởi vì chỉ với quyền tự do tuyệt
đối, con người mới chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình và Thượng Ðế mới có
dữ kiện xét thưởng phạt công minh về các hành vi công phúc hay tội lỗi mỗi con
người khi còn sống, sau cái chết, trở về với cát bụi.
Một so sánh cụ thể và
tương đối về vai trò của Thượng Ðế có thể ví như người thợ nặn tượng sau khi bán một
bức tượng cho người mua, người này có toàn quyền xử dụng tự do bức tượng theo ý
muốn. Người xử dụng bức tượng chỉ có hai lựa chọn khi bức tượng cũ hay hư hỏng,
nếu muốn tu bổ để tiếp tục xử dụng sẽ tìm đến người thợ nặn tượng nhờ thực hiện,
hoặc vứt bỏ bức tượng đó đi. Theo niềm tin tôn giáo nơi Thượng Ðế cũng vậy, một
khi tạo ra thân xác con người theo quy luật truyền sinh, là trao cho linh hồn
quyền tự do tuyệt đối trong việc xử dụng thân xác. Linh hồn có thể nuôi dưỡng,
tu bổ thân xác độc lập tự chủ hay chậy đến cậy nhờ Thượng Ðế giúp sức (cầu
nguyện…), hoặc tự hủy thân xác (tự tử, tai nạn…) là quyền
tự do lựa chọn của mỗi con người. Thượng Ðế sẽ chỉ xét đoán, định công, tội nơi
mỗi con người sau cái chết để được tái sinh trong “Nước Hằng Sống” cực lạc (Thiên
đàng) hay nơi cực khổ đời đời (Hoả Ngục đời đời).theo niềm
tin Thiên Chúa giáo.
Là
những người có niềm tin nơi Thượng Ðế, đôi điều suy tư trên đây về mầu nhiệm
Giáng Sinh, chúng tôi chỉ muốn xác tín rằng: Hơn 2018 năm trước đây, quả thật
đã có một Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng Trần, thực hiện sứ mạng cứu chuộc con người
khỏi tội nguyên tổ, tạo điều kiện cho con người tái sinh trong nước hằng sống.
Nếu không có sự Giáng Sinh này, số phận con người đã khác, chắc chắn là bi thảm
hơn nhiều.
Ðể
cảm tạ và tri ân Thượng Ðế, đêm nay cũng như đêm qua và đêm mai, nơi các giáo
đường khắp nơi trên mặt địa cầu, những con người có chung niềm tin vào mầu nhiệm
Giáng Sinh đều cất cao lời ca chúc tụng, bằng mọi ngôn ngữ khác biệt của loài
người. Chúc tụng và ngợi ca ơn Ngôi Hai Thiên Chúa đã giáng trần cứu độ muôn
dân, đem an bình, ơn phúc và yêu thương đến cho mọi người thiện tâm, mọi dân tộc
thiện chí qua các thời đại hôm qua, hôm nay và mãi mãi cho đến tận thế. Đúng như
lời chúc mừng và ngợi ca Thiên Chúa của Thiên Thần vào đêm Chúa ra đời cách nay
hơn 2018 năm:
Thursday, December 18, 2025
Từ Biệt Phủ, Mộ Phủ Đến Tên Đường Và Tham Vọng Rẻ Tiền Cá Nhân Chủ Nghĩa - LM. Đặng Hữu Nam
Sài gòn chính thức có tên đường Nguyễn Thiện Thành được đặt ở ven sông Sài Gòn. Chắc 99% người dân VN không biết ông là ai vì ông đâu có tên trong sách sử.
Wednesday, December 17, 2025
Bệnh Đau Lòng Bàn Chân (Plantar Fasciitis) - Bác sĩ Nguyễn Khắc Đoan - Bác sĩ Nguyễn Văn Đức
Bước chân nhẹ nhàng là dấu chứng của sự khỏe mạnh. Ngược lại, chân đau khiến ta đi cà nhắc, thì dù có khỏe mạnh, bước chân cũng khó nhẹ nhàng.
Bệnh đau gót chân do viêm màng gân lót lòng bàn chân (plantar fasciitis) khiến ta tuy khỏe, song bước chân không thoải mái, kém nhẹ nhàng, và đời bớt vui. Đây là bệnh gây đau gót chân nhiều nhất.
Bệnh rất hay xảy ra cho người trên
40 tuổi. Mọi thứ đều dễ hư mòn theo thời gian.
Nguyên nhân
Bàn chân của chúng ta như một hệ thống
cơ khí, phía dưới có một màng gân lót co giãn (plantar fascia) hoạt động như lớp
nhún. Nhờ vào lớp nhún rất tốt này mà chúng ta đi lại, chạy nhảy nhẹ nhàng, các
khớp cũng lâu hư hoại.
Màng gân lót mặt dưới bàn chân tích
trữ và nhả ra năng lượng vào mỗi bước ta đi. Trong bệnh đau gót chân do viêm
màng gân lót lòng bàn chân, giả thuyết được chấp nhận nhiều nhất là màng gân
này bị viêm (inflammation) hoặc rách ở ngay chỗ nó gắn vào xương gót chân, khiến
cho gót bị đau, nhất là lúc gót chạm vào thềm cứng. Đã rách, chỗ rách có khi
lâu lành, làm căn bệnh kéo dài, có người hơn cả năm vẫn đau. Chỗ màng gân bị
rách cũng có thể tạo phản ứng viêm cho vùng thịt ở mặt dưới gót chân, và đôi
khi tạo ra gai xương (bone spur), tức xương chỗ mặt dưới gót chân mọc ra một
gai nhỏ (mặc dù gai xương này cũng hiện diện ở một số người, dù họ chẳng bao giờ
bị đau, chỉ tình cờ chụp phim thấy).
Một số yếu tố khiến chúng ta dễ bị
bệnh này:
Định bệnh
Khi màng gân lót phía dưới bàn chân chỗ vùng gót chân của bạn bị hư hoại như vậy (danh từ y học: plantar fasciitis, viêm màng gân plantar fascia), bạn cảm thấy đau buốt ở mặt dưới gót chân mé phía bên trong.
Đau nhất là lúc sáng dậy, bước những bước đầu tiên, hoặc lúc đứng lên đi sau khi ngồi nghỉ một lát lâu. Đi lại một chốc, bạn thấy dễ chịu hơn, nhưng thỉnh thoảng, gót lại đau buốt lúc bạn bước chạm vào thềm cứng. Cái đau có thể nặng dần vào chiều tối, sau một ngày dài, và nhẹ đi vào ban đêm khi bạn nghỉ ngơi trong giường. Đau như vậy, sự đi lại chẳng thoải mái tí nào, đâm khó khăn và chậm chạp.
Bác sĩ khám, bấm vào mặt dưới gót
chân bạn, mé phía trong, bạn thấy đau. Ngoài ra, bàn chân bạn trông không có gì
khác lạ. Nếu ta chụp phim bàn chân, phim chụp bình thường, hoặc cho thấy gót
chân có chút gai xương (bone spur). Song xin nhớ, gai xương này cũng hiện diện ở
nhiều người chẳng bao giờ bị đau, nên không nhất thiết là nguyên nhân gây ra
cái đau.
Chữa trị
Thường khi bạn đến khám bác sĩ, bạn
đau đã vài tháng.
Chúng ta thử chữa trước bằng những
cách giản dị: xuống cân, giảm bớt các hoạt động đi đứng chạy nhảy, nghỉ ngơi
nhiều hơn, dùng thuốc giảm đau (như ibuprofen, naproxen), chườm đá (20 phút
ngày 4 lần) và mang giày tốt có gót mềm. (Giày dép rất quan trọng, mang loại
không đúng có thể khiến ta dễ đau gót chân, hoặc đang đau sẵn, lâu lành.) Ta có
thể lót thêm vào gót giày miếng lót gót (heel insert, bằng silicone thì tốt) hoặc
một dụng cụ nâng gót chân (heel cup) để chỗ đau khỏi chạm đất nhiều, bớt thốn
khi đi lại. Trong nhà chúng ta cũng không nên đi chân đất hoặc mang dép mỏng lẹp
kẹp, song nên đi dép tốt, chắc chắn để nâng đỡ bàn chân.
Chữa bằng cách chích thuốc có chất
steroid vào chỗ đau ở gót chân cũng giúp ích cho một số người. Tuy vậy, không
nên chích nhiều lần quá, vì thuốc có thể khiến màng gân lót lòng bàn chân chỗ
đau rách hẳn, mòn đi, về lâu về dài không tốt: màng gân chỗ này hoạt động như một
lớp đệm, nay đã mòn rách, khi đi lại, các khớp bàn chân dễ bị hư hoại.
Ôi, cuộc đời, đau cái gì cũng khổ.
Cái gót chân bé tí, song khi nó đau, khiến ta buồn phiền không ít. Muốn đi bộ
lanh quanh, hít thở hương Xuân, vui hưởng tự do dân chủ, cũng khó khăn. Được
cái sự chữa trị thường hiệu quả, giúp ta yêu đời trở lại.
Bs. Nguyễn Khắc Đoan - Bs. Nguyễn Văn Đức
Good Bye!
The father asked, 'Why did you say good-bye Grandpa?'
The little girl said, "I don't know daddy, it just seemed like the thing to do."
The father thought it was a strange
coincidence.
The next day the grandmother died.
"Holy crap" thought the father, "this kid is in contact with the other side."
When he got home his wife said, "I've never seen you work so late. What's the matter?"
He said, "I don't want to talk about it, I've just spent the worst day of my life."
[Fun Funky]
Tiếng Sóng - Lâm Chương
(Sau tháng 4/1975, cả miền Nam lâm vào
hoàn cảnh hết sức nghiệt ngã. Nhiều gia đình phân ly tan vỡ. Tôi, sau 10 năm tù
rạc, trở về gặp người bạn cũ và kể lại chuyện này. Phần cuối của chuyện, tôi mượn
triết lý “Câu Chuyện Dòng Sông” - Hermann Hesse - Phùng Thăng dịch, để nói lên
cái quan niệm sống của bạn tôi.)
1.
Phạm Văn Gầm nhìn đời bằng một con mắt.
Từ ngày anh nhìn theo cái kiểu này thì đời cũng liên tiếp quất cho anh những đòn
chí tử. Đau nhất là đòn của vợ anh. Ngón đòn ê ẩm thấu tim gan. Có lúc uất quá,
anh muốn giết người. Cũng may, anh kịp dằn lòng. Nếu không, chắc đời đã nghiền
nát anh rồi.
Muốn rõ ngọn ngành, phải kể dông dài đầu
đuôi câu chuyện.
Gầm là tay có học, nhưng trong thời bát
nháo, kẻ không dựa vào thế lực người khác ắt khó được đời trọng dụng. Chán mớ đời,
lại đang tuổi động viên không chạy đàng trời nào cho khỏi. Anh vào lính Nghĩa
Quân lẩn quẩn ở quê nhà. Những ngày gần cuối tháng Tư, năm 1975, tình hình quân
sự rất bi đát. Những đơn vị bạn đã thoái binh từ hai ngày trước. Đồn Nghĩa Quân
không còn ai yểm trợ. Bị cô thế, thằng cha trung đội trưởng Nghĩa Quân dẫn anh
em chạy bỏ đồn, tìm nơi kháng cự. Trên mặt đất có nhiều đường chạy. Trời xui đất
khiến thế nào lại chạy vào ngõ cụt, phía bờ sông Vàm Cỏ Đông. Chui vô khu rừng
tràm. Cố thủ trong một nơi sình lầy nước đọng. Địa thế tác chiến bất lợi trăm bề.
Trước mặt là đồng ruộng, sau lưng là con sông lớn. Nếu bị tấn công, rút lui ngả
nào?
Nói cố thủ cho oai, chứ thật ra chả đánh
đấm mẹ gì. Quân chính quy Bắc Việt đang dồn nỗ lực về thủ đô. Ở đây, chỉ còn le
hoe một số du kích địa phương. Du kích đứng từ bìa làng, phóng loa kêu gọi
Nghĩa Quân đầu hàng.
Trung đội trưởng nói với anh em: “Cố thủ,
chờ quân mình phản công. Tên dép râu nào xông vô, bắn bể đầu cho tao.”
Kêu gọi không được, du kích dùng súng cối
60 bắn vào khu rừng tràm. Súng mới lấy được của một đơn vị thoái binh nào đó bỏ
lại. Du kích chưa quen sử dụng nên trái rớt bên đông, trái rớt bên tây. Cũng có
trái lọt vào rừng tràm. Chính trái đạn quái ác này văng miểng làm bị thương con
mắt trái của Gầm. Vết thương không trầm trọng, nhưng do điều kiện thiếu vệ sinh
nên nhiễm trùng, gây đau nhức khó chịu.
Sau mấy ngày cố thủ, hết lương thực mà
viện binh không thấy, cũng không liên lạc vô tuyến được với đơn vị bạn. Túng thế,
anh em Nghĩa Quân cho Gầm đi một mình ra đầu hàng, mục đích để được chữa
thương. Lúc đó, anh mới biết lệnh đầu hàng đã tuyên bố từ ba hôm trước. Du kích
bảo anh quay trở lại rừng tràm, báo tin này cho anh em Nghĩa Quân. Khi tất cả
Nghĩa Quân chịu buông súng trở ra thì con mắt của Gầm đã vô phương cứu chữa. Một
y tá địa phương giúp anh múc tròng mắt hư bỏ đi. Từ đó, Gầm nhìn đời bằng một
con mắt.
Cuộc đời chung, vốn nhiều xấu xa bỉ ổi.
Nhìn rõ mặt đời quá, nhiều khi lại đâm ra chán đời. Thà nhìn bằng một con mắt, may
ra còn thấy đời mờ mờ hư ảo dễ thương. Gầm tự an ủi như thế, và quyết tâm làm lại
cuộc đời riêng của mình. Xây dựng một mái ấm gia đình, vợ con hạnh phúc. Chẳng
phải Gầm vẫn mong một ngày đất nước bình yên, vất cây súng, nắm lấy tay cày bừa
sinh sống hay sao? Đêm đêm, không còn nghe tiếng súng, ngủ khỏi giật mình là sướng
rồi.
Việt Cộng vào, tự xưng cách mạng. Gầm là
lính trơn, chỉ phải học tập chính sách mới một tuần, được cách mạng cho về làm
ăn. Xóa bỏ hận thù, xóa bỏ những tàn tích cũ, cùng nhau xây dựng lại một xã hội
yên bình tốt đẹp hơn. Tổ chức ngăn nắp, quy củ rõ ràng. Có nhóm, có tổ, có
khóm, có phường. Người ta bảo tổ chức như thế để giúp đỡ nhau khi tối lửa tắt
đèn. Cách giải thích nghe có lý có tình, nhưng thật ra là để dòm ngó kiểm soát
lẫn nhau. Vợ Gầm cũng tích cực tham gia hoạt động xã hội mới. Bây giờ, chị là hội
viên Hội Phụ Nữ của xã. Cứ vài hôm, lại đi họp một lần. Chẳng biết khi họp, họ
nói với nhau những gì. Về nhà, trông chị phấn khởi yêu đời thấy rõ. Gầm mừng. Vợ
vui là anh vui. Người đàn ông nào cũng muốn đem lại hạnh phúc cho vợ. Gầm cũng
thế. Càng thương hơn nữa, chị không hề chê anh khuyết tật. Mọi người bình đẳng,
theo cách nói “con người vốn quý” của cách mạng.
Niềm vui trong gia đình kéo dài không
lâu. Sau này, vợ Gầm đi họp thường xuyên hơn. Lắm khi, chị đi đến khuya lắc mới
về. Và chị về không phải với gương mặt tươi tắn yêu đời như anh hằng mong đợi.
Chị hay kiếm cớ gây sự, mắng mỏ anh nhiều câu hỗn láo, cho rằng kết duyên với
anh là một lầm lỗi lớn trong đời chị. Chuyện gối chăn, cũng không còn đậm tình
chồng vợ. Chị tỏ ra thờ ơ lạnh nhạt, khước từ lảng tránh ái ân.
Sau chiến tranh, đất nước lâm vào nỗi
nghèo nàn cơ cực. Muốn nâng cao phúc lợi toàn dân, phải có kế hoạch lâu dài.
Cách mạng phát động phong trào thi đua lao động. Làm thủy lợi, đắp đập đào
mương, dẫn thủy nhập điền. Là lính Nghĩa Quân của chế độ cũ, dĩ nhiên Gầm được
chọn làm đối tượng “lao động là vinh quang” của chế độ mới. Cái khẩu hiệu mới
nghe có vẻ sáng ngời, nhưng đủ sức vắt cạn tinh lực con người đến chết. Ngoài
việc thủy lợi như bao nhiêu người dân khác, những kẻ được liệt vào thành phần
ngụy quân ngụy quyền còn được cách mạng tận tình chiếu cố, làm thêm công tác
tháo gỡ mìn bẫy nơi các đồn bót cũ. Mìn chôn dưới mặt đất, ló lên cái ngòi kích
hỏa như sợi râu con dế lẫn trong cỏ, khó nhìn thấy. Phương tiện dò mìn là chiếc
gậy nhọn đầu, chọt chĩa khều móc theo những hàng rào kẽm gai. Trái mìn nào nổ,
coi như xong. Trái nào chưa nổ, phải tìm cách moi lên và vô hiệu hóa. Đã có nhiều
người bỏ mạng, hoặc sút tay gãy gọng vì công tác này rồi. Gầm may mắn, không bị
hề hấn gì. Trước sự việc này, cách mạng lý luận, các anh gài mìn thì các anh phải
tháo gỡ thôi. Hết chiến tranh, còn duy trì những thứ chết người đó làm chi?
Cũng đúng thôi! Lý của cách mạng, bao giờ mà chả đúng? Mỗi chuyến công tác chừng
mươi bữa nửa tháng. Về nhà chưa nóng đít, Gầm lại có lệnh đi công tác nữa.
Thời gian này, Gầm nghe lời đồn đãi bóng
gió về chuyện lén lút lăng nhăng của vợ anh với viên xã ủy. Anh hỏi vợ. Chị lồng
lên, xỉa xói vào mặt anh bằng đủ thứ ngôn từ chanh chua của mấy mụ chuyên môn
ăn cắp vặt ở những khu chợ đông người. Mồm miệng nào mà đấu khẩu cho lại con vợ
điêu ngoa? Gầm nhịn. Càng về sau, chị càng lộng hành công khai đi lại với viên
xã ủy, coi chồng chẳng ra chi. Gầm tức, toan giết kẻ gian dâm với vợ anh, nhưng
con gà thất thế, muốn vói lên mổ con chó sói là điều không dễ. Kiện thưa ư? Luật
lệ địa phương nằm trong tay của viên xã ủy. Nó chưa triệt tiêu Gầm, đã là điều
may. Đòi hỏi công lý là điều không tưởng. Chẳng làm gì được kẻ có quyền, Gầm
quay ra chửi vợ. Chị cũng không vừa, rủa lại anh là thứ “voi một ngà, người ta
một mắt”, ám chỉ tính hung dữ thể hiện qua sự dị hình. Bị chạm vào khuyết tật,
Gầm đau như ngực bị đâm dao nhọn. Manh nha trong đầu Gầm ý tưởng tùng xẻo con vợ,
rồi thắt cổ tự vận luôn. Cái lưỡi lê từ thời còn đi lính, chưa bén máu người. Lần
này, nó sẽ được dùng để trừng trị một con đàn bà trắc nết. Gầm tưởng tượng vợ
anh sẽ đau đớn rên la và quằn quại trên vũng máu. Một hình ảnh ghê khiếp quá,
chưa thi hành mà anh đã rợn. Ngay vào thời chiến tranh, anh cũng không nhẫn tâm
làm điều đó với đối phương, huống chi bây giờ hành sử với người đã từng cùng
chung chăn gối? Nhiều đêm trăn trở, Gầm tự hỏi, con đàn bà lăng loàn hư đốn này
có đáng để anh đánh đổi luôn mạng sống của mình? Câu hỏi, làm anh tỉnh thức.
Lòng anh chùng lại. Sau cùng, anh quyết định bỏ đi. Có kẻ chê anh hèn nhát.
Cũng có người thấu lẽ đời, cho thế là khôn. Anh ở lại, chẳng những không làm sứt
mẻ được ai, nhiều khi còn nguy đến tính mạng. Viên xã ủy đâu muốn thấy một cái
gai trước mắt? Gầm tự hiểu, và lánh mặt trước khi trở thành con sâu cái kiến bị
chà đạp.
2.
Tôi trở lại quê nhà sau 10 năm tù rạc,
nghe tin bằng hữu mỗi ngày một thêm tan tác. Người lẩn vào rừng sâu, sống đời hoang
dã. Người uất khí hộc máu tươi, vì cường quyền áp bức. Người xiêu tán phương
xa, biệt tăm không biết sống chết lẽ nào. Và người ở lại như Phạm Văn Gầm, nghe
nói cũng thay đổi lạ lùng. Anh nhìn đời bằng một con mắt, và lui về nơi khuất
lánh bên dòng sông, rũ hết sự đời, sống theo con nước.
Tôi mua bịch thuốc rê, chai rượu đế, lần
dò đi thăm bạn. Tôi đến vào buổi xế chiều. Chòi trống. Tôi đứng ngóng ra sông, chờ
Gầm. Gió thổi hiu hiu. Ánh tà dương đỏ rực mặt sông. Những cụm lục bình lờ lững
trôi xuôi. Vài cánh cò chấp chới xa xa. Bên kia sông, rừng tràm bát ngát. Gầm về
theo nước thủy triều lên. Trong cái lốt ngư ông áo vải nón mê, anh hoàn toàn lột
xác khỏi con người ngày cũ. Dáng anh gầy gò, phong thái thong dong.
Thấy tôi, anh cười rộ theo kiểu ẩn sĩ đời
xưa: “Gió lớn bốn phương, còn quay về quê cũ được sao?”
Tôi cũng cười vang trên bờ sông, như một
giang hồ hiệp khách: “Thiên hạ đại loạn, còn an nhiên tự tại được sao?”
Chúng tôi dắt tay nhau vào trong chòi
lá. Sau những thăm hỏi thông thường, tôi nói với Gầm về những ngày tù rạc của tôi.
Anh bảo, còn sống trở về là may, thời thế không là dầu sôi lửa bỏng, nhưng hiểm
nguy lúc nào cũng đang rình rập bên mình.
Buổi tối, chúng tôi bày rượu nhâm nhi chờ
trăng lên. Tôi nghe Gầm kể chuyện đời, chuyện mình.
Tôi nói: “Để chữa lành một vết thương,
mà chịu hãm mình cô quạnh bên một dòng sông là điều uổng phí.
Gầm bảo: ”Ở vào cái thế thúc thủ, còn vọng
động tranh chấp hơn thua là chuốc họa vào thân.”
Anh cho rằng, ý nghĩa của đời sống tùy
quan niệm mỗi người. Có kẻ tìm sự vui thú trong tiền tài. Có người tìm sự thỏa mãn
trong quyền lực. Nhưng những thứ đó không đem lại sự bình yên trong tâm hồn.
Còn anh, anh theo cái triết lý sống Ông Chài, một bài học thuộc lòng thuở nhỏ,
và đọc:
Nước trong rửa ruột sạch trơn
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Sớm doi tối vịnh vui vầy
Ngày dài đón gió, đêm chầy chơi trăng.
Tháng ngày thong thả làm ăn
Khỏe quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm
Nghêu ngao nay trích mai đầm
Một bầu trời rộng, vui thầm ai hay!*
Đọc xong, Gầm cười sảng khoái, nói “Phúc
tại tâm không lý đến đời”.**.
Tôi hỏi điều gì đã làm anh thay đổi quan
niệm sống đến tận ngọn nguồn gốc rễ?
Anh nói, hoàn cảnh và dòng sông. Hoàn cảnh
đã xô anh vào đường cùng, để từ đó, anh thấy đời là bể khổ. Dòng sông đã dạy
cho anh biết thế nào là sự im lặng.
Tôi hỏi: “Im lặng mà cũng phải dạy nữa
sao?”
Gầm ngó ra sông nói: “Trong im lặng mình
nhìn lại được chính mình”.
Trăng đã lên cao. Ngồi trong chòi, nghe
tiếng sóng vỗ ngoài bờ sông.
Tôi nói: “Dòng sông đâu chỉ im lặng, còn
có tiếng sóng nữa”.
“Vâng”. Gầm nói: “Tiếng sóng như tiếng vỗ
về của mẹ thiên nhiên. Đi tìm an ủi ở đâu cho xa? Ngay ở đây, bên bờ sông này
đã cho ta điều đó”.
Chai rượu đế chắt đến giọt cuối cùng.
Đêm đã khuya lắm. Con trăng đã xế về bên kia rừng tràm. Mọi vật chìm trong tịch
mịch lặng im. Chỉ còn nghe tiếng sóng triền miên như niềm an ủi bất tận của bạn
tôi trong nỗi đời hiu quạnh.
Lâm Chương
* thơ Nguyễn Đình Chiểu
**thơ Tô Thùy Yên










