Người Phương Nam
Pages
- Trang Chủ
- About Me
- Truyện Ngắn
- Sưu Tầm
- Sưu Tầm from 2020
- Góp Nhặt Bên Đường
- Nhạc Chọn Lọc
- Sưu Tầm Sức Khỏe
- NPN's Recipes
- Kịch Vui
- Cười Ý Nhị
- PPS + YouTube Chọn Lọc
- Những Hình Ảnh Ý Nghĩa
- Thơ
- Thơ from 2020
- Bùi Phương Lưu Niệm
- Trang Anh Ngữ
- Truyện Dài : Về Phương Trời Cũ
- Truyện Dài : Ngày Tháng Buồn Hiu
Tuesday, May 21, 2024
Hoàng Hôn Trên Biển Vắng - Trần Quang Thiệu
Quán ẩn mình dưới bóng
mát của một hàng dương trên một mảnh đất gần con đường xuyên Viêt, nơi du
khách thường dừng lại nghỉ ngơi đón gió biển vì từ đó về tới Sài Gòn cũng còn
mất vài giờ lái xe.
Trước đây quán rất
đông khách nhưng từ ngày kinh tế khó khăn xe du lịch qua lại không nhiều, chỉ
còn bọn trẻ địa phương thỉnh thoảng ra tắm biển, khi mệt nằm dài trên bãi cát
trước quán. Đôi lúc họ cũng vào quán mua vài lon nước ngọt, nhưng hình như họ là
sinh viên nên không tiêu xài rộng rãi như những du khách, nhất là du khách Việt
kiều. Những buổi chiều vắng lặng bà chủ quán chỉ biết buồn buồn thở dài, và cô
tiếp viên cũng buồn không kém, hết đứng lại ngồi, phủi bụi bàn ghế ngoài mái
hiên, mặc dù chúng vẫn sạch sẽ vì mới được lau chùi.
Ông ta thường tới vào
những lúc hoàng hôn, ngồi tại cái bàn ngoài cùng gần bãi cát và chỉ gọi độc
nhất một món cà phê sữa. Ông ta ngồi đó nhìn ra biển, trầm lặng đến u buồn, và
hầu như không biết đến người xung quanh. Ly cà phê nhiều khi còn nguyên vẹn khi
ông ta đứng lên ra về.
Khi ông ta tới lần đầu
tiên Liễu tường ông ta cũng chỉ là một du khách như mọi người. Ông ta đi chậm
chạp, tay cầm cây gậy ngắn vì đã có tuổi. Thế nhưng khi ông ta trở lại nhiều
lần sau đó thì Liễu biết rằng ông ta chỉ là một người khách địa phương. Kể ra
cũng lạ, chỗ này hẻo lánh, không có mấy khách sang trọng như ông ta. Chiếc
Toyota đen bóng đậu lại bên đường, người tài xế nhanh nhẹn mở cửa xe đỡ ông ta
xuống, cúi đầu khi ông ta nhỏ nhẹ cám ơn, và yên lặng đứng nhìn ông ta ngồi hẳn
xuống ghế rồi mới đem xe đi đậu ở một chỗ nào đó, một vài giờ sau mới trở lại
đón ông ta về.
Ông ta trở thành thân
quen đến độ thấy ông ta là Liễu tự động pha cà phê mang ra, không cần ông ta
gọi, và lần nào cũng thế, ông ta chỉ nhỏ nhẹ cám ơn. Ông ta ngồi lâu hơn bất cứ
người khách nào nhưng bà chủ cũng như Liễu không bao giờ phiền lòng vì quán
vắng, và khi đứng lên ông ta luôn luôn để lại một món tiền cho Liễu, đôi khi
nhiều hơn cả giá của ly cà phê.
Một lần thấy ông ta
khó khăn cúi lượm cây gậy rơi dưới đất, Liệu chạy lại nhặt dùm, và đỡ ông ta
ngồi ngay ngắn lại trên ghế. Ông ta mỉm cười:
- Cám ơn cô nhé. Có
tuổi rồi nên làm cái gì cũng khó khăn.
Liễu vội vàng:
- Dạ, không có chi.
Được dịp, Liễu hỏi
thăm người khách quen nhưng vẫn còn rất xa lạ:
- Bác ở gần đây?
Ông ta gật đầu:
- Cũng gần, ngay ngoại
ô Phan Rang đây thôi.
Lần đầu tiên nghe ông
khách nói nhiều, Liễu ngạc nhiên nhận ra giọng nói của ông ta không phải là của
người điạ phương:
- Quê bác chắc không
phải ở vùng này?
Ông ta ngước mắt nhìn
Liễu mỉm cười, một tay vẫn vịn đầu gậy, một tay chìa ra chỉ chiếc ghế trống:
- Nếu cô không bận,
mời cô ngồi.
Liễu cám ơn và rụt rè
ngồi xuống chiếc ghế đối diện. Nụ cười của ông ta thật hiền từ, nhưng giọng nói
thoáng buồn:
- Quê tôi tuốt ngoài
Bắc Ninh. Về thăm một lần đã khá lâu. Chắc là tôi chẳng bao giờ trở lại.
Liễu gật đầu:
- Cháu cũng đoán bác
là người Bắc. Chắc bác vô đây sau ngày “giải phóng”?
Ông ta lắc đầu, nụ
cười buồn trên môi:
- Không. Tôi là “bắc
kỳ 54”, gia đình tôi di cư vào Nam khi tôi còn bé tí!
- Ồ! Thế ra bác lập
nghiệp ở đây hả? Cháu ít thấy người Bắc ở vùng này, bây giờ gia đình bác ra
sao?
Liễu nghĩ tới chiếc xe
hơi mới tinh, tới người tài xế lễ phép, và đoán là nếu ông ta không phải là một
thứ “đại gia” thì cũng là một cán bộ cao cấp vừa hồi hưu, tuy nhiên Liễu ngạc
nhiên không hiểu là vùng đất khô cằn này có gì cho ông ta lưu luyến.
Đưa mắt nhìn ra khơi,
đôi mắt tinh anh sâu thẳm nhưng lúc nào cũng thoáng buồn, ông ta nhỏ nhẹ:
- Chỉ có mình tôi ở
đây.
- Sao bác lại chọn chỗ
này? Sài Gòn hay Hà Nội có phải vui hơn không.
Bất chợt ông ta hỏi:
- Cô biết bãi biển
Ninh Chữ không?
- Dạ, cháu biết.
Giọng của ông ta trầm
xuống hầu như đang nhớ tới cái gì rất xa xôi:
- Ngày xưa thời VNCH
có một duyên đoàn của Hải Quân đóng ở đó. Tôi là lính duyên đoàn, mấy năm rồi
mới đổi xuống tàu đi biển.
Liễu thở ra:
- Vậy là cháu hiểu
rồi. Bác về đây sống vì những kỷ niệm cũ.
Ông ta bật cười:
- Nghe cô nói như là
đang đọc một truyện tình.
Liễu cũng cười, chống
chế:
- Hồi học cấp ba cháu
cũng giỏi văn lắm. Chỉ tiếc là không có điều kiện theo học đại học. Mà thôi,
bác nói tiếp đi. Cháu nói vậy có đúng không?
- Cũng đúng một phần.
Tôi quả có một mối tình ở nơi này, về đây vì tôi cũng còn rất yêu biển, và cần
khí hậu ấm áp để dưỡng bệnh.
Liễu ái ngại:
- Bác bệnh gì vậy?
Trông bác quả có hơi yếu.
- Nhiều thứ lắm. Áp
huyết cao, phong thấp, mới đây lại bị “stroke”, may mắn không chết, dù đã gần
khỏi nhưng đi đứng vẫn còn khó khăn. Ở bên Mỹ các con tôi đều bận rộn với gia
đình riêng nên tôivề bên nàyđể chữa trị.
- À, bác là Việt kiều,
thảo nào…
Liễu ngập ngừng không
nói tiếp. Ông ta cũng không nói gì thêm, mắt vẫn nhìn xa vắng. Đúng lúc đó
người tài xế trở lại. Anh ta cũng đã khá nhiều tuổi, người thấp bé nhưng
còn rất tráng kiện, lúc nào cũng như cái bóng, yên lặng đứng sau lưng ông ta
đợi chờ. Ông ta vịn vào cạnh bàn đứng lên:
- Cám ơn cô nhiều lắm.
Nghe bà chủ gọi cô là cô Liễu, phải không?
Liễu cũng đứng lên:
- Dạ. Cháu chào bác.
Lần tới bác nói chuyện bên Mỹ cho cháu nghe nhé. Chắc là vui lắm.
- Ở đâu cũng có những
chuyện vui buồn. Thôi, chào cô nhé.
Người tài xế đỡ nhẹ cánh tay để ông ta đứng vững, nhưng rồi lùi lại phía sau, để mặc ông ta chậm chạp bước vì hình như ông ta quyết tâm, không muốn ai phải nâng đỡ mình. Liễu nhìn theo bóng dáng ông ta cho đến khi người tài xế mở cửa xe đỡ ông ta lên mới tần ngần xếp lại ghế ngồi, và mang đổ ly cà phê còn gần như nguyên vẹn.
******
Khi người khách trở
lại lần sau đó, Liễu rụt rẻ hỏi thăm và được biết tên ông ta là Nguyễn. Vẫn đôi
mắt nhìn xa xôi nhưng ông Nguyễn đã bớt lạnh lùng, mời Liễu ngồi và thân mật
nói chuyện đời với Liễu như thể là đã quen biết từ lâu.
“Hồi đó tôi còn trẻ
lắm,mới hơn 20 tuổi! Người ta cứ nói lính Hải Quân đa tình bay bướm, nhưng tôi
chỉ yêu một mình cô ấy, và đến tuổi này nghĩ lại những ngày hoa bướm đó tôi vẫn
cảm thấy êm đềm. Cô ấy là nữ sinh, thỉnh thoảng mặc áo dài trắng đến thăm tôi
tại đơn vị vì tôi ít khi được ra ngoài.
Lúc đó làm gì có cell
phone cho chúng tôi hẹn hò, chiều chiều nếu không bận công vụ tôi đứng bên hàng
rào doanh trại, lóng ngóng đợi chờ. Hôm nào thấy bóng cô ấy tôi vui như chưa
bao giờ vui thế. Gặp nhau cũng chỉ để ngồi với nhau trong câu lạc bộ, thủ thỉ
chuyện trò cho đến khi hoàng hôn xuống là cô ấy phải ra về.
Ngày tôi phải đổi
xuống tàu biển, tôi cuống quít cầu hôn với cô ấy, và may mà được gia đình cô ấy
bằng lòng. Mẹ cô ấy vẫn ngại đời lính tráng, và chiến tranh lúc đó đang khốc
liệt, nhưng cũng đành để tôi mang cô ấy về Sài Gòn sống với gia đình tôi, trong
lúc tôi đi biển, lâu lâu mới được về thăm nhà một lần.
ThángTư năm1975 tàu
tôi được biệt phái ra Phan Rang ngăn chặn bước tiến của Bắc quân. Pháo từ xe
tăng trên bờ bắn ra trúng đài chỉ huy, một mảnh đạn nhỏ văng trúng đầu tôi, đi
vào óc, và vẫn còn nằm trong đó đến bây giờ. Tôi chỉ bị thương nhẹ nhưng mảnh đạn
oan nghiệt đó không thể lấy ra vì giải phẫu óc rất nguy hiểm. Lâu lâu tôi vẫn
có những cơn đau buốt tưởng như không chịu được nhưng trông tôi vẫn bình
thường, và tôi vẫn làm việc như thể là chưa bao giờ bị thương.
Cũng may mắn là dù bị
bắn, tàu tôi cũng giải cứu được một đơn vị bộ binh, đưa họ về Sài Gòn, và tôi
kịp đón gia đinh di tản vào cuối tháng Tư. Lúc đó chúng tôi đã có đứa con trai
đầu lòng mới sinh được vài tháng. Cha mẹ tôi không chịu đi theo chúng tôi vì cứ
sợ qua Mỹ không biết làm gì để nuôi nhau!
10 năm sau tôi mới đón
được bố mẹ sang, sau khi tôi đã tốt nghiệp một trường cao đẳng chuyên nghiệp,
và đi làm cho Cisco, một hãng hi-tech tại thành phố San Jose, California. Tôi
may mắn gia nhập công ty từ thuở ban đầu,công ty lớn mạnh và cũng như bao nhiêu
nhân viên khác, tôi được tưởng thưởng một số cổ phần, trở nên sung túc, và sớm
thành một triệu phú ở nơi xứ lạ quê người. Chúng tôi cũng có thêm hai cháu gái,
và cả ba cháu bây giờ đã tốt nghiệp đại học, có gia đình riêng và đều có một
cuộc sống trung lưu khá vững vàng. Thế nhưng trời cho cái này thì lấy đi cái
khác cô Liễu à. Cơn đau trong óc càng ngày càng mãnh liệt và xảy ra thường
xuyên hơn. Những lúc như vậy tôi chỉ muốn chết. Nhà tôi thương tôi nhưng cũng
không biết làm gì hơn là ngồi trước bàn thờ, đọc kinh cứu khổ cứu nạn, mong
Phật Bà Quan Thế Âm thương xót tôi mà xoa dịu bớt cơn đau. Có nhiều hôm tôi
thiếp đi, khi tỉnh dậy vẫn thấy nhà tôi ngồi im lìm cúi đầu, hai tay chắp trước
ngực, cầu nguyện cho tôi suốt đêm thâu.
Tôi bỏ việc làm, và
nhà tôi cũng vậy, để ở nhà chăm sóc tôi. Tôi được bệnh viện Stanford cho thử
nghiệm một thứ thuốc mà họ mới phát minh nhưng chưa rõ hiệu quả ra sao. Tôi
tình nguyện vì nghĩ rằng ít ra cũng có chút hy vọng dù không rõ hậu quả của
thuốc có gì tai hại hay không. Thuốc làm tôi hết đau nhưng chỉ được vài giờ, và
tôi phải uống vài lần mỗi ngày. Mỗi lần uống xong tôi muốn như mê đi, nhưng dù
sao cũng giúp tôi sinh hoạt gần như bình thường. Nhà tôi vẫn cầu nguyện, nhưng
không còn phải thức suốt đêm như xưa, cho đến một ngày…
Cơn đột quỵ đến bất
thình lình, không biết có phải vì hậu quả của thuốc hay không, tôi ngã gục ngay
lúc sáng sớm, khi vừa ra khỏi giường. May mà nhà tôi gọi được xe cấp cứu, đưa
tôi vào bệnh viện điều trị nên tôi sống sót, nhưng cũng phải tập luyện cả năm
mới đi lại được như bây giờ. Sau cơn bạo bệnh đó tôi thấy cái chết như gần kề,
tôi bỗng nhớ quê hương, nhớ đường biển xưa, nhớ nơi tôi đã có một mối tình vĩnh
cửu, nên tìm về chỗ này. Người già sống với dĩ vãng cô ạ. Cô thấy tôi thường ra
đây ngắm biển, vì lúc nào tôi cũng tưởng nhớ đến những ngày tháng êm đềm năm
xưa.”
Liễu ngắt lời ông
Nguyễn:
- Bác gái đâu, có về
VN với bác không?
Ông Nguyễn lắc đầu:
- Không. Nhà tôi ở lại
bên đó trông nom đứa cháu ngoại mới sanh vì con gái út của tôi không được khoẻ.
- Ồ, thế thì ai chăm
sóc bác ở bên này?
- Có đứa cháu gái bên
vợ, và anh Hiệp, người lái xe cho tôi.
Ngừng lại một phút,
ông Nguyễn thở dài nói tiếp:
- Tôi cũng đã bình
phục gần như xưa, dù chậm chạp nhưng có thể tự chăm sóc vệ sinh cho chính mình.
Khi tôi đòi về VN sống, nhà tôi cũng băn khoăn lắm nhưng nhờ có tài chính đầy
đủ và lương hưu, nên chúng tôi xoay sở cũng dễ dàng. Vài tháng tôi lại qua Mỹ
một lần, thăm con cháu và khám bệnh lại cho nhà tôi yên tâm.
- Bác vẫn còn uống
thuốc giảm đau mà bệnh viện đang thí nghiệm?
Ông Nguyễn gật đầu:
- Biết làm sao bây
giờ. Không có thuốc tôi như người chết dở. Được ngày nào hay ngày ấy, cô ơi.
******
Ông Nguyễn trở thành
người bạn vong niên của Liễu. Thoáng thấy bóng chiếc xe hơi là cô vội vã chạy
ra, phụ với anh Hiệp mở cửa xe cho ông, và mỗi lần ông ra về, cô theo ra tận
xe, quyến luyến đứng nhìn cho đến khi chiếc Toyota khuất bóng. Chiếc bàn nơi ông
Nguyễn ngồi lúc nào cũng sạch bóng, và cô muốn dành riêng cho ông, không bao
giờ đưa khách lạ tới đó. Ông Nguyễn vẫn tới đó rất đều đặn, vẫn xa vắng nhìn ra
biển khơi, thỉnh thoảng nói với Liễu về những bến bờ xa lạ mà ông ta đã có dịp
ghé qua hơn một lần.
Ông cũng cho Liễu xem
tấm hình đứa cháu gái lên 10 đang ngồi chơi Piano. Liễu hỏi con bé có biết nói
tiếng Việt không, ông lắc đầu, cười tủm tỉm:
- Nó chỉ nói được ba
tiếng: “Ông”, “Bà” và... “Phở”.
Liễu bật cười, và ông
Nguyễn cũng cười.
Cứ như thế, ngày nào
Liễu cũng chờ ông khi trời vừa tắt nắng. Thế nhưng hơn tuần nay không thấy ông
Nguyễn tới. Liễu băn khoăn nhưng đoán là trái gió trở trời, ông ta đau ốm nên
nằm nhà. Mỗi lần nghe tiếng xe hơi ngoài xa lộ là Liễu đưa mắt nhìn. Những chiếc
xe vụt qua như bóng thời gian, hơn tháng trời, mới lại thấy chiếc xe Toyota đen
bóng. Không đợi cho xe ngừng hẳn, Liễu chạy vụt ra nhưng rồi chợt thấy hụt hẫng
vì chỉ có chú Hiệp lái xe, không thấy ông Nguyễn ở băng sau, chỗ ông thường
ngồi.
Hiệp mất hẳn vẻ nhanh
nhẹn thường ngày, chập chạp ra khỏi xe, cúi đầu khi gặp ánh mắt dò hỏi của
Liễu. Chừng như lâu lắm chú mới khẽ thở dài:
- Ông cụ về Mỹ rồi.
Liễu hỏi tới:
- Rồi bao giờ trở lại?
Hiệp lắc đầu:
- Không trở lại nữa
đâu... ông cụ mất rồi.
Liễu thảng thốt đưa
tay che miệng:
- Trời!
Hiệp buồn bã:
- Hơn tháng trước bỗng
dưng những cơn đau càng ngày càng dồn dập. Thuốc uống hầu như liên tục, cuối
cùng ông cụ quyết định trở về Mỹ để giải phẫu. Bà cụ đã ngăn cản ông cụ nhiều
năm vì sợ nguy hiểm, nhưng cuối cùng cũng đành. Giải phẫu xong ông cụ đi vào
hôn mê, và vài ngày sau thì mất.
Liễu đứng thẫn thờ
trong lúc Hiệp cố ngăn niềm xúc động, nói như thì thầm:
- Ông cụ tốt với tôi
lắm, thường cho tôi tiền để tôi gửi về Bắc tặng mẹ tôi. Nguyên tôi là bộ đội
phục viên, nghèo không nuôi nổi thân, lang bạt đến tận nơi này, may được người
nhà ông cụ mướn lái xe. Ông cụ coi tôi như người nhà, kể chuyện đời mình, tôi
cũng chẳng giấu ông cụ, nói cho ông cụ biết là tháng Tư năm 75 tôi là người lái
xe tăng tiến quân qua vùng này. Tăng của chúng tôi bắn vào chiếc chiến hạm của
VNCH đang ủi bãi vớt người, và có thể tôi là người đã gây ra mảnh đạn oan
nghiệt đó trong đầu ông cụ. Tôi thật là ân hận.
Nghe tôi nói thế ông
cụ chỉ cười, vỗ vai tôi: “Đâu có phải lỗi tại chú. Chúng mình đều là chiến
binh... Chiến tranh ngày đó đã qua rồi.”
Hiệp dụi mắt, móc
trong túi quần đưa cho Liễu một phong bì dầy:
- Ông cụ để lại di
chúc, tặng tôi chiếc xe này để tôi chạy taxi, làm kế sinh nhai. Ông cụ cũng nhờ
tôi đưa tặng cô ít tiền, để cô đi học đại học, và cám ơn cô đã bầu bạn với ông
cụ những ngày qua.
Liễu đưa tay nhận
chiếc phong bì, lòng nặng trĩu u buồn:
- Cám ơn chú. Gia đình
có đưa ông cụ về an táng tại VN không chú?
Hiệp lắc đầu:
- Nói chuyện điện
thoại với gia đình bên đó tôi mới được biết là ông cụ đã được hỏa táng, tro rắc
ngoài biển… Thôi thế cũng là xong.
- Có liên lạc qua bên
đó chú cho Liễu gửi lời phân ưu tới bà cụ, và xin cám ơn tấm lòng rộng lượng
của ông cụ cùng gia đình.
- Vâng. Thế nào tôi
cũng sẽ chuyển lời. Bây giờ tôi về nhé. À, còn một ít sách vở của ông cụ, tôi
biết là ông cụ rất muốn để lại cho cô. Tôi sẽ mang ra đây để cô giữ làm kỷ
niệm.
- Cám ơn chú.
Hiệp gật đầu chào, lủi
thủi chui vào xe. Khi xe đã lăn bánh và mất hút trên xa lộ Liễu mới buồn bã đi
tới cái bàn và ngồi xuống cái ghế ông Nguyễn thường ngồi. Cô đưa mắt nhìn ra
biển và nói như thể là ông Nguyễn đang ngồi bên:
- Cuối cùng thì bác
cũng về với biển, nơi chốn bác yêu thương.
Liễu mở chiếc phong
bì. Xấp tiền có lẽ thừa cho cô theo đuổi mộng văn chương ở đại học như cô từng
ước mơ, thế nhưng cô không thấy vui. Cô cúi mặt, và một giọt nước mắt ứa ra,
đọng nơi khoé mắt cùng với tiếng thở dài.
Trần Quang Thiệu
Monday, May 20, 2024
Đi Ăn Ở Hà Nội" - Đỗ Duy Ngọc
Hà Nội có nhiều món ngon; chuyện ấy ít người cãi. Nhưng
món ăn ngon Hà Nội tập trung ở Phố cổ; mà nhà ở Phố cồ thì bé tẻo teo, thế nên
hàng quán bày bán đầy vỉa hè, muốn ăn thì ngồi ngay đường đi, ghế thấp lè tè,
toàn ghế nhựa. Món ăn cũng bày tràn ra đường mặc cho bụi đường và vi trùng ồ ạt.
Hà Nội nổi tiếng là thành phố ô nhiễm bậc nhất cho nên thức ăn cũng thế thôi.
Ra Hà Nội tìm món ăn ngon của một thời trong văn của Thạch
Lam, của Vũ Bằng và cả ông Nguyễn Tuân, những người được cho là sành ăn, thế
nhưng khi thấy mọi người chen chúc ở vỉa hè và món ăn bày tràn cả lề đường thì
ngại ngùng. Cũng có một số quán bán trong nhà, nhưng chật chội và bẩn cộng với
muỗng đũa nhầy nhụa cả mỡ. Căn nhà ám khói và tràn giấy lau bay như bướm, trắng
cả sàn. Chủ tiệm và người phục vụ có lẽ đắt khách quá nên chẳng cần lịch sự với
khách. Họ trả lời cứ nhấm nha nhấm nhẳng. Chủ và tớ nhễ nhại mồ hôi cứ thế
mà bưng bê thức ăn. Đặc biệt khi đi ăn ở các quán ăn Hà Nội, nhớ tuyệt đối đừng
bao giờ đi vệ sinh, bởi đã vào đấy đi ra thì không thể ra ăn tiếp được vì nhà vệ
sinh quá xá bẩn, bẩn tới phát khiếp.
Một lần tui vào Phở Thìn ở Phố Lò Đúc, ngồi một lát chẳng
thấy ai hỏi mà quán thì nóng hầm hập, người chen chúc. Bàn ăn của quán là
một dãy dài, ngồi chung chạ nhau. Đợi một hồi thấy chả có ai hỏi dù đã ra dấu
nhiều lần với người phục vụ, nhưng các cậu ấy cứ tảng lờ. Ông khách ngồi chung
bàn thấy thế mới bảo:
- “Ông phải ra ngoài kia gọi phở và trả tiền thì nó mới
bưng vào.”
À ra thế! Gọi mấy bát phở, bảo chín, gầu. Cậu
phục vụ lắc đầu:
- “Ở đây chỉ có một món tái lăn. Một bát 60 ngàn.”
Khi tô phở bưng ra, tui thử một muỗng nước lèo, đầy bột
ngọt, thế là chỉ ăn được một vệt. Nhìn lui, một cặp vợ chồng trẻ và đứa con
đang đứng chờ ngay sau lưng, tui đành đứng dậy. Ở đây không bán nước uống.
Thôi thì để miệng nham nháp bột ngọt mà đi ra khỏi quán.
Người ta bảo Phở Bát Đàn ngon, tui lại không thích quán
đó, dù có ngon, bởi cái kiểu cầm tô xếp hàng và thái độ khinh khi khách của tên
lùn múc phở là tui không chịu được. Lại nghe Phở Dư, Phở Sướng, Phở Hàng Da… ăn
cũng được lắm (?) Tui thuê xe đi ngang qua các quán này lại không dám vào
vì quán nào cũng chen chúc, chỗ nào cũng chật chội.
Không ăn phở thì ăn bánh cuốn vậy! Nghe bảo ở Hàng
Gà có bánh cuốn ngon, chợt nhớ cô bạn nhắn bảo ở phố Hàng Cót có quán bánh cuốn
ăn được lắm. Tui hí hửng đi lộn về, gọi một dĩa nhưng rất thất vọng. Chạy
qua Thanh Vân ở Hàng Gà, quán sạch sẽ, có quầy thu tiền ở cửa. Được giới thiệu
“dĩa combo” gồm bánh cuốn và hai miếng chả cắt xéo giá 60 ngàn. Tui gọi ngay một
đĩa, rồi cũng đành bỏ vì ăn không ngon; có lẽ khẩu vị của tui khác chăng? Tui bị
cái tật là cảm thấy không ngon là bỏ, không ăn. Thà nhịn đói chứ không chịu ăn
thứ dở.
Tui đành kêu cuốc xe trở về khách sạn. Đi ngang hàng
quán bún, miến, cháo, gà, vịt, ngan, bún thang, bún ốc, chân gà, lòng lợn, cua,
ốc, giò, nộm, chả cá… đẩy phố, nhưng thấy quán chiếm chật vỉa hè đành nhịn
mà đi.
Một tối tui đi ăn bún chả gần khách sạn tui đang ở,
đương nhiên là ngồi vỉa hè rồi. Đang ăn chợt thấy trước mặt, chị giúp việc
rửa tô bằng cách nhúng vào một xô nước lợn cợn bún và rau, rồi cầm một cái khăn
đã ngã màu theo tháng năm lau quanh, sắp thành chồng. Nhìn thế, tui phát nhợn,
không ăn tiếp được.
Buổi sáng thức dậy sớm, một anh bạn người Hà Nội đem xe
chở tui đi về làng Ước Lễ, nơi còn có cái cổng làng chụp hình. Anh bảo ghé Lý
Thường Kiệt mua mấy gói xôi xéo ăn sang. Theo anh, đây là nơi bán xôi
ngon nhất Hà thành. Tới nơi, thấy xôi, hành phi, giò chả để ngay dưới đất trên
lối đi của người đi bộ, không sạp, không bàn ghế là đã thấy oải. Có ngon cũng
thành dở.
Hà Nội vẫn có nhiều nhà hàng lịch sự và vệ sinh, nhưng
người Hà Nội bảo rằng các món ăn ở đó không ngon, không đúng chất Hà Nội. Ăn ở
các nơi đó là chưa thưởng thức được món ăn Hà Nội và chứng tỏ là không biết ăn.
Có lẽ Hà Nội là nơi có nhiều quán lề đường nhất nước và
cũng có lẽ đó là phong cách ẩm thực của người Hà Nội. Tui ra Hà Nội rất nhiều lần
từ thập niên 90 đến nay, nhận thấy cung cách mua bán hàng ăn ở Hà Nội không đổi
mà ngày càng xô bồ và nhếch nhác hơn.
Đây là ý kiến và cách nhìn của một cá nhân, có thể chưa
bao quát hết, nhưng cũng là nhận định của một người phương xa yêu Hà Nội viết vội
về việc ăn ở Hà Nội.
Đỗ Duy Ngọc
Một Bản Tin Đáng Buồn Về Chữ Hiếu - Đào Văn Bình
Cha và mẹ của học sinh 15 tuổi ở Michigan đã bị tòa tuyên án từ 10 tới 15 năm tù vì tội đã mua súng cho con trai và cậu bé này đã dùng nó để thảm sát bốn học sinh tại Oxford High School. Còn cậu bé bị án tù chung thân không ân xá. Công tố viên đã buộc tội cặp vợ chồng này đã không để súng tại một nơi có khóa an toàn và không có hành động ngăn cản khi có biểu hiện con mình sẽ có hành động điên cuồng.
Đúng
là “Con dại cái mang”. Đẻ con ra cưng như cứng trứng, hứng như hứng hoa, mong
cho nó khôn lớn nên người. Ngờ đâu mới 15 tuổi mà nó đã hung hăng, tiêm nhiễm bởi
những phim ảnh bạo lực, xách súng vào trường giết luôn bốn bạn học chỉ vì một
xích mích nhỏ nhặt. Không biết kiếp trước cặp vợ chồng này đã làm gì nên tội mà
oan hồn đầu thai vào nhà để báo oán? Sau 15 năm tù cặp vợ chồng này còn gì? Có
khi bỏ nhau chỉ vì tranh cãi tại ông hay tại bà quá nuông chiều con. Vị
thẩm phán đã lau nước mắt nhiều lần khi tuyên đọc bản án này.
Rồi một
thảm kịch rơi nước mắt khác là một cậu con trai ở Florida đang học lớp dự bị y
khoa đã dùng dao đâm mẹ mình 70 nhát khiến bà là một giáo viên dạy Lớp Hai, gục
chết với lý do rất giản dị “ Bà ấy làm tôi bực mình”.
Hiện
nay có một hiện tượng đáng sợ là con cái giết cha mẹ ở nước Mỹ cũng như ở Việt
Nam. Thông thường vợ chồng sinh con thì mừng rỡ biết bao. Thế nhưng theo giáo
lý nhà Phật thì con cái chưa hẳn là hạnh phúc mà có khi là tại họa. Nó thành
công chưa chắc mình được hưởng mà hễ nó làm bậy một cái thì cha mẹ gánh hết. Thế
giới ngày hôm nay tiến quá nhanh, trẻ con được luật pháp bảo vệ và nuông
chiều. Trong khi đó thì trên hệ thống liên mạng toàn cầu, có quá nhiều hình ảnh
tác động tới trẻ con, tốt thì ít mà xấu thì nhiều. Có thể nói trẻ con ngày nay
rất tự ái, nóng nảy, tinh khôn và hung dữ. Chính vì lo lắng về thảm họa này khiến
nhiều cặp vợ chồng trẻ đã không chịu sinh con…vừa bận bịu, tốn kém và trách nhiệm
rật nặng nề. Luật bảo vệ thiếu nhi đã khiến nhiều cha mẹ ngồi tù vì con cái.
Là phụ
huynh thuộc tầng lớp cổ hủ và lạc hậu, chúng ta phải làm sao đây để cứu vãn?
Nhà thờ, trường học, gia đình đã hoàn toàn bất lực. Thống kê mới nhất tại Tiểu
Bang Missouri cho thấy đa số giáo chức muốn bỏ nghề vì lương thấp, áp lực và nhất
là học sinh rất hỗn hào. Học sinh ngày nay chẳng coi dạy học là chức
năng cao quý mà chỉ là một nghề để kiếm sống mà thôi, chẳng có “tôn sư trọng đạo”
gì hết. Cãi lại thầy/cô, túm tóc đánh cô giáo ngay trong lớp học là chuyện thường.
Chúng ta cứ lên án Khổng Tử là lạc hậu thế mà dưới sự giáo dục của Nho gia, đất
nước Việt Nam và Trung Hoa xưa đã sản sinh bao nhà tư tưởng, trạng nguyên, tiến
sĩ, cử nhân đã đem tài ra giúp nước qua đạo Tu Thân-Tề Gia-Trị Quốc-Bình Thiên
Hạ và biết bao người con hiếu thảo. Nho gia ngày xưa coi thầy còn trên cha mẹ
mình. Tiến sĩ về làng phải xuống ngựa. Nhiều khi thầy chết học trò phải để
tang. Chúng ta chê trách và khinh thường Đạo Khổng vậy thì ngày nay chúng ta
xây dựng đao gì để: Con cái hiều thảo biết vâng lời cha mẹ, học trò biết kinh
trọng thầy cô và coi trường học là lò giáo dục và đào tạo con người? Dường như
chẳng có đạo nào để thay thế Đạo Nho cả mà chỉ có đạo bạo lực và đạo nhố nhăng
trên Internet mà thôi. Nước Mỹ có ngày Mother’Day và Father’s Day nhưng không bao
giờ dạy dỗ về lòng hiếu thảo, “Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra”.
Tôi
năm nay đã 82 tuổi rồi, nhưng nhớ lại thuở xưa, vẫn kính trọng và biết ơn tất cả
thầy/cô đã dạy dỗ tôi từ bậc Tiểu Học tới Đại Học. Thế nhưng quan điểm này nếu
nói với bọn trẻ ngày hôm nay, chúng nó sẽ nhún vai và tự hào về một nền văn
minh và lối sống mới của chúng nó. Chúng ta biết làm sao? Thôi thì quay lại với
lời dạy của Đức Phật, vạn hữu vốn vô thường. Thời mạt thế thì hiền thánh ẩn phục
hoặc im hơi lặng tiếng, đạo lý suy đồi còn các tầng lớp của thời đại mới
thì hãnh diện với thời trang, nhạc Pop, nhạc Rap, Football, biết rành rẽ những
trò chơi quái đản trên facebook, twitter, tiktok và hễ trái ý một cái thì
rút súng ra bắn chết liền dù đó là cha mẹ, anh em, thầy cô, bạn bè, bạn đồng sự…và
chấp nhận án tù chung thân hay tử hình để thỏa mãn Cái Tôi vĩ đại.
Đào Văn Bình
(California,
9/4/2024)
https://vietbao.com/p302901a318719/2/mot-ban-tin-dang-buon-ve-chu-hieu
Gió Đã Đổi Chiều? Câu Chuyện 48 Năm Sau…GS. Nguyễn Văn Lục
Cách đây 48 năm, trên chiến hạm chỉ huy Blue Ridge cùng với 30
chục chiến hạm đủ loại của hạm đội 7 đang đậu ở ngoài khơi bờ biển VN, cách
Vũng Tàu khoảng 30 dặm vào lúc miền Nam đang hấp hối.
Họ đang chờ đợi để đón lính Mỹ và người Việt từ đất liền. Sứ mạng
lần này không giống với 21 năm về trước tại vịnh Hạ Long.
Trên phòng chỉ huy của viên đô đốc Hạm đội thứ bảy, người
ta thấy tề tựu đông đủ các ký giả nhà báo Mỹ đã từng có mặt trên các chiến trường
VN như Stanley Karnov, David Halberstam, Neil Sheehan, John Kenneth Galbraith
và nhiều người khác v.v… Dầu vậy được biết còn 125 người nhà báo trong số họ, đủ
quốc tịch tình nguyện ở lại để chứng kiến cơn hấp hối của miền Nam Việt Nam.
Bên cạnh đó còn có phụ tá Trùm mật vụ là Frank Snepp đã từ
Đài Loan đến đây được vài giờ sau khi hộ tống ông cựu tổng thống NVT ra đi trước
đó mấy ngày. F. Snepp đến đây để đón tiếp một nhân vật quan trọng nhất- đại diện
cho nước Mỹ- trong giờ phút này:
Đó là đại sứ Martin. Ông là người Mỹ cuối cùng rời VN
mà trên tay chỉ ẵm theo một gói nhỏ: Đó là lá cờ nước Mỹ. Lá cờ đã được cuốn
lên có nghĩa là nước Mỹ đã không còn ở đó nữa.
Ngay khi vừa đặt chân lên boong tàu vào lúc 2 giờ 47, giờ
Sàigòn, ông đại sứ nhận được một điện tín chúc mừng của H.Kissinger với nội
dung như sau: Với lời khen ngợi nồng nhiệt vì ông đã chu toàn toàn trách nhiệm.
Nước Mỹ đến như thế nào thì lúc ra đi cũng như thế!!!
Nhìn từ
trên boong tàu, các ký giả ngoại quốc đã thấy hàng ngàn những chiếc thuyền nhấp
nhô như lá tre trôi trên biển. Đó là những thuyền đủ loại, đủ cỡ của những người
Việt Nam đầu tiên bỏ chạy Cộng Sản. Họ là ai, số phận họ sẽ ra sao sau này? Chẳng
ai trong số những ký giả trên và ngay cả những người ngồi trên những chiếc thuyền
đó có thể tiên đoán đuợc điều gì.
Chỉ biết
bỏ chạy đã. Chữ bỏ của chạy lấy người diễn tả đúng trong hoàn cảnh như thế này.
Số phận họ ra sao không ai dám nghĩ tới, ngay cả đối với kẻ lạc quan nhất. Và
đã có hơn 100.000 ngàn người trong số 250.000 ngàn người như thế đã được vớt đi
định cư từ các chiến hạm của hạm đội 7. Cuộc ra đi thật bi tráng và tuyệt vọng
đến tức tưởi.
Số phận họ có khác gì những con thuyền lênh đênh trên biển cả
như những lá tre? Vâng những lá tre trên một đại dương mà lẽ sống chết đang chờ
đợi họ. Bằng mọi giá họ đã ra đi mà nếu nay ngồi nghĩ lại, nhiều người không mường
tượng nổi, họ đã có thể làm một điều như vậy. Nhưng cái “sô” vớt người trên biển
trong tuần lễ cuối cùng của tháng tư và đầu tháng năm của người Mỹ cũng nói lên
được cái gì:
Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, ngay cả việc trốn chạy.
Nhận xét trên ăn khớp với điều mà Sir Robert Thompson, một
chuyên gia về du kích dưới thời đệ nhất cộng hòa đưa ra lời tiên đoán trước đó
vào ngày 23 tháng 3.1975 như sau: “Chúng ta sắp chứng kiến một cuộc đầu hàng
chiến lược của Hoa Kỳ… Cuộc triệt thoái của người Mỹ khỏi Đông Dương là cuộc
rút lui lớn nhất mà thế giới nhìn thấy từ khi Napoléon rút lui khỏi Moscow”.
Cuộc rút lui
chiến lược ấy lôi kéo hàng trăm ngàn người Việt đi theo. Đó là những thuyền
nhân Việt Nam đầu tiên chạy trốn làn gió chướng ở giờ thứ 25 từ trong đất liền
đã thổi giạt họ ra biển..
Nhìn cảnh tượng đó,- cảnh tượng quá bi tráng- Stanley Karnov
quay sang David Haberstam vừa cười vừa nói một cách mỉa mai: Công việc đang xảy
ra trước mắt chúng ta đây, ngày hôm nay, chúng ta như những chứng nhân lịch sử
vào những giờ phút cuối cùng của miền Nam, tôi nghĩ rằng trong đó có phần đóng
góp của ông đấỵ!
Haberstam trả lời:
– Ông nói không sai, nhưng chỉ xin xác định cho rõ tôi chỉ là một
ký giá làm việc cho quyền lợi nước Mỹ trên mảnh đất nghèo nàn và khốn
khổ này. Mỗi người Mỹ đến đây hẳn mang theo mình một trách nhiệm, một sứ mệnh.
Ông cũng đồng ý chứ, ông bạn của tôi? Chẳng hạn sứ mệnh của E. Lansdale và tôi-
mặc dầu khác nhau- Nhưng tất cả, chúng ta đều làm vì nước Mỹ!!
– Như thế
chắc là ông hãnh diện lắm.
– Đương nhiên, vì thế mà tôi có mặt ở đây trong giời phút này.
Thôi, mời ông nhìn xem cảnh tượng dưới kia như màn chót của tấn bi kịch mà
chúng ta đã dựng lên, tốn kém hằng trăm tỉ đô la.
Ông cứ tưởng tượng, trong số hằng trăm ngàn người dưới kia, ít
ra cũng đến phân nửa ở tuổi vị thành niên. Cái hình ảnh ngưới lếch thếch, lang
thang với từng đoàn người người nối đuôi nhau chạy trốn. Nếu tôi là họa sĩ, tôi
chỉ vẽ lên cái cảnh này đũ diễn tả cái hiện trạng người Việt bỏ chạy. Và nếu cần
nói một điều gì về lúc đó, về tâm trạng những người bỏ chạy thì có thể tóm tắt
trong một câu: Tất cả đều hoang mang và không có một chút hy vọng gì về
tương lai cả.
Những điều nhận
xét của ký giả Haberstam sau này chỉ đúng có nữa phần đầu của câu chuyện.
Trong lúc đó, một sĩ quan đang trình với viên đô đốc chỉ huy chiến
hạm 7 là có một vị tướng lãnh VN vừa đáp trực thăng của ông xuống boong tàu muốn
được gặp. Vị đô đốc ra lệnh một cách gắt gỏng là: Ông nói với ông ta là tức
khắc cởi bộ quân phục, lột bỏ lon của ông ấy ra và không được tuyên bố điều
gì.
Đây là nước Mỹ trên biển chứ không phải là VNCH nữa.
Nhiều người sau này cho biết là viên tướng VN sau đó đã quỳ xuống,
ngữa mặt lên trời và hét to lên: Ta thề với trời đất là ta sẽ trở về…
Sau này được biết là ông đã giữ đúng lời thề, ông đã về.
Ông đã về theo cái cách mà Phạm Duy đã về!!
Vấn đề không
phải là cởi bỏ bộ quân phục, cởi bỏ lon chậu vốn chỉ là cái bề ngoài. Câu
chuyện viết về ông tướng có thể chỉ là một câu chuyện hư cấu. Vấn đề hôm nay,
chính là nhiều người đã cởi bỏ cái danh xưng người Việt Quốc gia- cái biểu tượng
của 48 năm nay -.
Và cứ như thế, không phải chỉ có đêm 29 tháng tư, mà tiếp câu
chuyện đêm nay còn được tiếp diễn dài dài. Các con số thuyền nhân trốn khỏi Việt
Nam càng gia tăng theo nhịp độ của những chính sách tàn bạo và trả thù của Hànội
như “đi vùng kinh tế mới”. “học tập cải tạo”, “đánh tư sản, mại bản”, và cuối
cùng “đi bán chính thức” nhằm vào giới Hoa Kiều.
Cứ mỗi một đợt chính sách lại thêm số người trốn ra đi
khỏi nước.
Tổng cộng đã có gần hai triệu người trốn đi như thế. Đấy là còn chưa kể những nguời để lại xác trên biển cả. Con số này chẳng ai biết là bao nhiêu? Và cũng chẳng ai có thì giờ tìm hiểu làm gì. Người chết thì đã chết.
Phải vậy không? Tiếc nuối rồi cũng khuây khoa, người Việt đến được
xứ người đều quyết tâm cật lực để lo sinh kế, miếng ăn trước đã.
Tất cả những chính sách vừa kể trên là nhằm đánh vào
những thành phần phản động, ngụy quân, ngụy quyền, tay sai Mỹ Ngụy. Nước nhà đã
độc lập, nay bỏ nước ra đi thì không phản động thì còn là cái gì?
Nhưng
chính thức thì có thể quả quyết rằng, nhà nước không cưỡng bức một ai phải bỏ xứ
ra đi, và cũng không giữ một ai muốn ra ra nước ngoài sinh sống. Và cuối cùng để
giữ thể diện, vừa loại bỏ được những thành phần “rác rưởi” muốn vứt, vừa
kiếm được tiền hoặc để trao đổi trong thương thuyết, nhà nước Cộng Sản đã đồng
ý với Liên Hiệp Quốc theo một chương trình “ra đi trong vòng trật tự”
(Orderly Departure Program).
Thảm cảnh thuyền nhân trên biển vì thế đã giảm mức độ đi nhiều.
Tất cả câu chuyện, những thảm cảnh trên biển cả nay đảo ngược trở
thành cái mà Michel Tauriac trong Hồ sơ đen của Cộng sản (Le dossier noir du
Communisme) (*1) tóm tắt đầy đủ ý nghĩa tóm gọn trong một câu “Những
con bò sữa thuyền nhân”.
Gió đã đổi chiều, gió chướng đã thổi họ ra biển, nay
ngọn gió nào đã đưa họ về ?
Hình ảnh thật
biểu tượng và gợi hình. Thật vậy, tất cả những con bò sữa thuyền nhân đã ra đi
với hai bàn tay trắng để lại tiền bạc, nhà cửa ruộng vườn. Họ đã vắt được bao
nhiêu sữa ở những con bò đó: Vắt lúc ra đi và nhất là vắt lúc trở về.
Nói chi đâu xa, tôi có căn nhà kiểu biệt thự ở số 224B Nguyễn Huỳnh
Đức, quận Phú Nhuận. Căn nhà đó lúc mua là 5 triệu 300 ngàn trước 75. Tính theo
trị giá vàng thời đó là khoảng 80 chục cây. Ra đi hợp pháp, có giấy tờ hẳn hoi,
đi bằng cửa chính ra Tân Sơn Nhứt.
Giấy tờ xuất cảnh có thể chỉ là tấm giấy nhỏ viết tay nguệch ngoạc mấy
chữ là: Nhà này do nhà nước quản lý!! Quản lý là trông coi, giữ dùm mà thật
ra là tịch thu, là hôi của! Cả miền Nam, hai triệu người bỏ nước ra đi đã bị
“quản lý” như thế. Nói toạc ra là đã “bị cạo lông” sạch như thế .
Việc ra
đi theo diện người Hoa, bán chính thức hay việc quản lý nhà cửa đất đai, tài sản
nằm trong tay Bộ nội vụ. Công việc bộ này là đảm trách và tổ chức nhằm “nhổ sạch
lông” những bọn người lưu vong này. Kẻ dỗi hơi ngồi tính nhẩm chuyện nhổ sạch
lông này đem lại cho nhà nước ít nhất là 25 tấn vàng. Tôi không tin vào con số,
đúng sai khó đoán vì không biết tính toán. Nhưng ấn tượng trong đầu tôi là nhiều
lắm, nhiều lắm lắm. Nhưng 25 tấn vàng vẫn là chuyện nhỏ. Vẫn là chuyện vắt đi.
Vắt lại mới là quan trọng.
Và để gọi những thuyền nhân thì có nhiều tên gọi tùy theo thời kỳ: lúc đầu là bọn bán nước, bọn tay sai. Bán được bao nhiêu nhà nước thu cả. Cho mãi đến năm 1990 cũng còn có người gọi Việt kiều là những tên Việt gian. Nói chung họ coi đó là thành phần rác rưởi của chế độ cũ, muốn thải loại, muốn tống đi cho rảnh mặt. Và gọi một cách vô tội vạ nhất là người nước ngoài. Nghĩa là có sự phân biệt đối xử giữa người trong nước và ngoài nước. Sau này chữ được dùng hơn cả là Việt Kiều.
Rồi cứ như thế sau thời kỳ mở cửa mà số lượng người Việt về nước
cũng như kiều hối đã bắt buộc mọi người phải thay đổi lại thế nhìn, thế bắn.
Không ai có thể từ chối được những món quà, không phải 10 đô la trong ngày lễ
Noel mà là 13 tỉ đô la. 13 tỉ đô la!
Không phải chỉ 13 tỉ đô mà nay nhiều lần hơn, chiếm tỉ trọng một
phần ba ngân sách nhà nước. Nhờ đó tình nghĩa hàn gắn những vết sứt sẹo, những
lời nói mà bình thường chỉ được coi như kẻ thù. Gió đã đổi chiều nên ngôn ngữ
cũng đã đổi theo.
Những chiếc thảm đỏ đã trải dài từ phi trường Tân Sơn Nhứt đến Nội
Bài chạy thẳng vào Bắc bộ Phủ. Thật là trớ trêu đến nực cười ra đi trốn chui,
trổn nhủi, lúc trở về thảm đỏ dưới chân.
Những thành phần rác rưởi ta vừa nói ở trên, những con bò sữa đã
vắt cạn chẳng bao lâu sau trở thành rác quý mà người ta có thể chế biến thành
những sản phẩm, những vật liệu để xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh. Đã chẳng
ai ngờ điều đó đã xảy ra.
Rác rưởi cứ thể đổi hình đổi dạng mà tính ra tiền bằng
những sản phẩm mới.
Những anh thuyền chài có thể ra đi vỏn vẹn chiếc quần đùi nay chễm
trệ ngồi Mercedes. Những mệnh phụ nói tiếng Mỹ oe oé mà nếu không có cuộc đổi đời
này thì cùng lắm chỉ là những người đàn bà làm vợ, làm mẹ, là nội trợ bình thường
trong gia đình.
Nhưng kể làm gì đến những chuyện nhỏ nhoi đó.
Đã có rất nhiều thay đổi mà không ai tiên đoán trước được-
những thay đổi tràn đầy hy vọng như thế đối với giới người Việt di tản-nhất là
nơi người trẻ.
Họ không còn là cô nữ sinh cười e lệ, hỏi không dám mở lời mà
nay là những chuyên viên hàng đầu của xã hội Mỹ. Có những người trong bọn họ đã
làm ra số vốn bạc tỷ. Có người trong bọn họ cùng với bạn đầu tư nửa tỷ đô la tại
nơi mà trước đây được coi là thánh địa của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Củ Chi với
những địa đạo, nơi tự hào về cuộc chiến thần thánh trong tương lai trở thành biểu
tượng “thung lũng của ngành tin học”.
Đã chẳng ai từ hai phía, người trong nước cũng như người nước
ngoài nhìn thấy được điều đó ngay từ đầu.
Chuyện kể ra như một giấc mơ hay như câu chuyện thần
thoại.
Và cái kim chỉ đường cho người Việt tương lai là hãy nhìn vào giới
trẻ đang lên. Họ chiếm đa phần. Tương lai thuộc về họ, đời sống thuộc về họ, cộng
đồng VN là họ. Không phải do một thiểu số những người lớn tuổi như tôi. Những
người bỏ nước ra đi đã chỉ nhớ cái phần đầu câu chuyện mà chưa thuộc hết phần
cuối.
Đó là những người không biết kể chuyện và những câu chuyện kể
càng ngày càng nhạt phèo như nước ốc. Thời của họ đã hết. Ngay cả Thời của
Thánh thần hay Thiên đường mù của những kẻ bất đồng chính kiến cũng bị bỏ quên
lãng.
Những người còn bám víu vào quá khứ có thể được coi là những người
không thức thời? Nhưng nếu không bám víu vào đó thì họ còn gì là họ? Quá khứ là
chính họ là cái làm nên bản thân họ. Họ bị coi như loài “củi mục” trong đám cây
rừng đang xanh lá. Củi mục thì làm gì? Đốt làm củi cũng không xong.
Nhưng chắc hẳn nhiều người như tôi không nghĩ như thế. Bản thân
tôi cũng thế- không chấp nhận được lối xếp loại ấy -.
Trong 48 năm qua, chúng ta- những người Việt di tản-
đã không ngừng tranh đấu không ngơi nghỉ cho điều mà tôi gọi là trận chiến cho
một biểu tượng, trận chiến cho một hình ảnh (bataille de l’image) là người Quốc
Gia.
Bao nhiêu công sức đã bỏ vào đấy!! Bao nhiêu thời giờ còm cõi ngồi
trơ trọi một mình trên bàn máy điện tử để viết!!
Mặc dầu thâm tín và phải nhìn nhận rằng quá khứ định hình và làm
nên người Việt di tản thế hệ thứ nhất thì tương lai sẽ định hình thế hệ người
việt thứ hai, thứ ba, nghĩa là con cháu chúng ta!!
Còn lại vấn đề kế thừa là vấn đề bi quan nhất của người
Việt hiện nay!!
Nhưng cho dù
bi quan đến đâu, cho dù vứt bỏ vấn đề chính tri, lịch sử xã hội qua một
bên thì vẫn còn lại vấn đề nhân cách, vấn đề đạo lý con người. Và lúc ấy cho thấy
rằng: Củi mục thì cũng vẫn là củi.
Người khác cho rằng nhìn cây thì thấy rừng, nhưng nhìn
củi mục thì thấy gì?
Họ nghĩ rằng
thà là như anh thuyền chài, thà là như chị X, Y nói tiếng Mỹ oe éo. Thà là như
thế. Phải nhớ rằng cuộc ra đi bất hạnh đã trở thành đại hạnh cho chính mình,
cho con cháu mình, cho cái nơi mình đi tới và cả cái nơi mà từ đó mình đã ra
đi.
Tháng tư đen thật ra chính là tháng hy vọng!!
Hành lý quá khứ
mang đi càng nhẹ thì họ về VN càng nhanh .
Hãy nhìn vào những con số để nhận ra câu chuyện thần thoại về
người Việt di tản. Năm 1987, có 8 ngàn người về thăm quê hương, đến năm 1993
thì con số tăng lên 160 ngàn người, đến năm 2002 là 380 ngàn người. Con số tự
nó nói lên điều gì rồi và người ta bắt đầu vỡ lẽ ra.
Bên cạnh đó, kiều hối đem lại một sốn tiền tươi là 2 tỷ 6 đôla
trong năm 2003. Hãy làm một so sánh cho rõ. Năm 2003, Việt Nam xuất khẩu được
20 tỉ đôla, trừ vốn liếng cho sản xuất, lời ròng của 20 tỷ vị tất đã được 5 tỷ?
Có một điều, nhiều người vô tình quên là năm nay có 2 triệu lượt
khách đến Việt Nam. Cứ giả dụ, mỗi người khách tiêu 2000 đô la đầu người. Số tiền
thu được sẽ là bao nhiêu? Trong số 300.000 người Việt về thăm quê hương, cứ cho
là vừa tiêu xài, vừa cho bà con họ hàng, ở từ hai tuần đến một tháng, mỗi người
đổ đồng chi tiêu 4000 đô la cho một chuyến về thăm quê hương, cán cân ngân sách
cũng như nền kinh tế Việt Nam đã được kích cầu lên không nhỏ.
Tiềm năng thật lớn. Tương lai cũng đầy hứa hẹn.
Điều đáng nói hơn nữa là nay có một số Việt Kiều về nước kinh
doanh đầu tư với hàng trăm dự án được chấp nhận với số vốn lên đến trên một tỉ
đô la..
Những Việt kiều như Nguyễn Chánh Khê với phát minh chế tạo thành
công than Nano áp dụng vào việc sản xuất mực không phải là hiếm. Dự án khu
khách sạn Vinpearl Resort- Spa, 5 sao, tại đảo Hòn Tre, Nhatrang đã khánh thành
với số tiền đầu tư là 500 tỉ đồng. Phần lớn các số tiền đầu tư này tập trung
vào lĩnh vực công nghiệp, tin học, lắp ráp, du lịch.
Cũng vì thế, nhà nước đã chẳng tiếc lời gọi Việt Kiều là những
người con của đất nước.
Những lời lẽ trân trọng mật ngọt đã hẳn là không thiếu. Gió chướng
đã không còn nữa.
Gió đã đổi chiều, ngôn ngữ đổi chiều, giọng lưỡi
đổi giọng. Không còn có chữ nghĩa làm đau lòng nhau nữa. Trên tất cả các sách
báo, trên các trang nhà, không còn có thể tìm thấy bất cứ thứ chữ nào nói xa
nói gần đến chế độ miền Nam trước đây nữa. Những chữ như bọn ngụy quân, ngụy
quyền và bọn tay sai đã không tìm thấy trong tự điển của bộ chính trị nữa. Ngược
lại không thiếu những chữ mật ngọt như “Tổ quốc Việt Nam, quê hương thân thiết
luôn giang rộng vòng tay chào đón những người con xa xứ.”
Nhà nước lại còn trích dẫn câu nói của ông Hồ mà không ai tự hỏi
xem ông nói lúc nào và bao giờ: “Tổ quốc và chính phủ cũng luôn luôn nhớ
thương đồng bào, như bố mẹ thương nhớ những người con đi vắng. Đất nước hòa
bình..” – bác nói với kiều bào ở Thái lan về nước năm 1960.
Kiều bào năm 1960 thì không phải là người di tản!!
Thật rõ chán.
Hình như người ta đã quên cái cảnh bồng bế xô đẩy nhau lên máy
bay và bằng bất cứ giá nào phải đi bằng được. 48 năm sau, câu chuyện kể về thuyền
nhân chỉ còn là dĩ vãng mà cả bên này bên kia đều đã quên hoặc cố tình quên.
Nhưng còn những người như tôi sẽ không quên. Never.
Never!!!
Thật ra không hẳn là như vậy. Nhà nước chính quyền hoan hỉ nhận
những đồng tiền Đôla từ mọi nơi gửi về cũng như người Việt mang tiền về nước. Mang
tiền về thì được chứ đừng mang chữ về. Chữ hiểu theo nghĩa rất rộng là sách
báo, tư tưởng, âm nhạc, nghệ thuật. Từ khi có nhà nước Cộng Sản đến nay.
Chữ vẫn là độc quyền tuyệt đối nằm trong tay đảng. Nó nằm trong
một hệ thống khép kín: Chủ nghĩa hay ý thức hệ – bạo lực khủng bố – và một
chính quyền toàn trị. (ideology, terror and totalitarian government).
Chẳng lạ gì, trước khi về VN, người ta thường khuyên có một điều
duy nhất: anh muốn làm gì thì làm:
– chẳng hạn anh có thể cờ bạc, chơi bời đủ kiểu, tắm đủ kiểu, phòng trà đủ kiểu, âm nhạc đủ kiểu, cà phê đủ kiểu, gái đủ kiểu, sex đủ kiểu, ngủ trưa đủ kiểu, ngủ tối đủ kiểu, ăn đủ kiểu, vừa ăn vừa chơi đủ kiểu, đĩ điếm đủ kiểu, hối lộ đủ kiểu, lưu manh lường gạt đủ kiểu, gian trá đủ kiểu, buôn bán mánh mung đủ kiểu, làm giầu đủ kiểu, đầu cơ đủ kiểu, công an đủ kiểu, phường khóm đủ kiểu, công ty đủ kiểu, cơ quan đủ kiểu, chính quyền địa phương đủ kiểu, chính quyền trung ương đủ kiểu, luật pháp đủ kiểu, thằng ăn cắp xử thằng ăn cướp đủ kiểu và cuối cùng xã hội loạn đủ kiểu.
Ta có quyền đủ kiểu hết, miễn là đừng đụng đến chính trị.
Vì trên hết, vẫn có một nhà nước toàn trị ở trên tất cả những đủ
kiểu đó. Trước khi lên máy bay về nước, còn dặn với theo: nhớ nhé đừng đụng
đến chính trị.
Mặc dầu vậy, ngày nay, có nhiều bà con Việt Kiều tính về ở hẳn
VN. Có người trong đám này về Việt Nam dưỡng già với xe hơi SUV.
Có những ông già lấy tiền xã hội của Mỹ về tậu nhà, tậu cửa, líu
lưỡi khen ngọng và hãnh diện nói: mấy chục năm không sáng tác được, nay về ở VN
nhờ đó mới hoàn thành được tác phẩm. Có ông Nhà văn “tiến bộ” nay trở
thành thứ “Chim hót trong lồng”.
Tất cả đều thuộc loại người không biết ngượng, quên cái trận chiến
biểu tượng, hình ảnh.
Trong vòng 10 năm nữa, khi xa lộ đông tây hoàn thành, khi 6 tuyến
xe điện ngầm xây dựng xong, khi đường hầm Hải Vân nối liền Nam Bắc nay đã hoàn
tất, thành phố Sàigòn sẽ thay mặt đổi tên chẳng còn ai nhận ra nó nữa.
Nay ở Sàigòn, đã có những khu nhà “Làng Việt Kiều “. Người ta dự
trù có 4 khu như thế, với những biệt thự sang trọng, đủ tiện nghi như ở Mỹ,
Canada. Người ta thấy những Việt Kiều lái những chiếc xe SUV, hay ngồi nhâm nhi
ly rượu cocktail bên bờ sông Sàigòn. Những căn nhà có những bãi cỏ xanh, mái
nhà mầu cam kiểu California, những hồ bơi với những cây dừa với những hàng chữ
tiếng Anh Welcome.
Một anh khác tên Hoàng Tiến, chả bù cho lúc ra đi lếch thếch,
lang thang, nay anh trở thành chủ nhà thầu đang có những kế hoạch xây cất nhà
cho Việt Kiều với những dự án “thành phố xanh” (Green city).
Cái điều oái ăm đến quái gở là khi ở Mỹ, người ta tìm
cách đặt tên Little Saigon, Phở Bắc, bánh mì Tân Định, bánh cuốn Đakao,
Restaurant Hoài Hương để nhớ về; nay ở Việt Nam thì người ta lại muốn đặt tên
cho những khu thương xá là “tiểu Cali”, “tiểu Fairfax” để nhớ đến. Và cứ như thế,
sẽ có một số người Việt gốc Mỹ sống riêng biệt trong những tiểu quốc của họ bên
cạnh những người Việt bản xứ.
Riêng Nguyễn Anh, năm nay mới 35 tuổi về Việt Nam làm việc cho một
công ty nước ngoài. Ra đi từ nhỏ, kể như không biết gì về Việt Nam, anh cũng
không có ý ở hẳn VN. Nhưng anh cũng có một vài nỗi khổ vặt khác. Nguyễn Anh sững
sờ khi làm một việc gì giúp người khác không nhận được một tiếng thanh kiu,
thanh kiếc gì hết. Anh cũng khó chịu khi mọi người chen lấn không xếp hàng khi
trả tiền. Nhất là các cô thiếu nữ trông khả ái, dịu hiền, nhưng cũng huých tay
chân như ai.
Gần như mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy sống chen lấn chụp giựt.
Nguyễn Anh có hơi buồn về con người Việt Nam vốn có tâm hồn, vốn thương người
mà một tai nạn xe cộ xảy ra đến chết người mà mọi người dửng dưng.
Quả thực, tuy là người Việt Nam, nhưng anh lại không hiểu gì về người mình.
Hình như cái gì ở Việt Nam cũng có thể trở thành
cờ bạc. Lại một điều nữa, Nguyễn Anh không hiểu được.
Nguyễn Anh thì chỉ thích đi đánh golf. Nhưng muốn chơi ngon,
Nguyễn Anh phải lấy vé máy bay ra Phan Thiết chơi, vì ở đó có sân chơi nổi tiếng
là đẹp. Ít ra thì điều đó cũng làm Nguyễn Anh vui lòng.
Nhưng có người thấy như thế thì lấy làm kỳ cục. Họ chép miệng, tội
tình gì mà phải cất công như thể để chơi Golf. Chơi đâu chả được. Phí tiền nữa.
Nguyễn Anh không đáp lại, vì anh có cái lý của anh.
Đúng là anh thấy người Việt mê đá banh một cách kỳ cục. Nhưng
ngược lại, họ cũng thấy anh không giống ai.
Còn về thanh niên, thiếu nữ thì chửi thề không biết ngượng mồm,
nhất là thanh niên, thiếu nữ gốc Bắc. Mở mồm ra là “địt”. Sáng ra, chỉ hỏi
giá cả món hàng đã bị một người con gái xinh đẹp phạng cho một câu.
Tự nhiên bật ra một câu hỏi: Nhưng nhân dân là ai mới được cơ chứ
?
Nhưng tôi cho rằng lịch sự trớ trêu có những bài học không bao
giờ chúng ta học hết được.
Chiếc soái hạm Blue Ridge 37 năm trước trong vai trò chở binh
lính Mỹ và người tỵ nạn VN ra khỏi miền Nam thì hiện nay đang đậu ở bãi Tân Sa,
Hải Phòng!! Đố ai biết được ngày hôm nay vai trò của Blue Ridge đến VN với mục
đích gì? 37 năm trước và 37 năm sau có điều gì khác biệt?
Gió đã đổi chiều. Gió nữa lên …
—————–
(1*) Cuốn sách Le livre noir du Communisme, Hắc thư về chủ nghĩa cộng sản, do nhà Robert Laffont xuất bản, Paris, năm 1997, 846 trang do Stephane Courtois cầm đầu với 11 tác giả.
Sunday, May 19, 2024
Chiếc Cầu Thời Thơ Ấu - Bút Ký Quan Dương
Mỗi khi lái xe qua chiếc cầu Causeway
dài 40 cây số bắc qua hồ Pontchartrain của tiểu bang Louisiana nơi tôi đang
sinh sống thì tôi đều nhớ đến chiếc cầu Dinh ngẳn củn dài chưa đầy 100 mét bắc
qua thị trấn Ninh Hòa là nơi tôi được sinh ra đời . Chiếc cầu Causeway được xây
vô cùng hiện đại và kiên cố nối liền hai thành phố Metarie và Mendevill, Chiếc
cầu Dinh xây bằng xi măng bắt qua sông nối liền xóm chợ và Vĩnh Phú.
Cầu Dinh trấn thủ giữa phố Ninh Hòa như một cái rốn trên vuông bụng của một thiếu nữ xuân thì và chính vì vị trí toạ lạc biệt đó mà nó trở thành hình tượng quê hương. Nhờ có nó nằm gác mình từ phía bên này phố chợ nên tôi mới có thể bước qua bên kia Vĩnh Phú để những lá thư tình có cớ tuôn về Phước Đa rồi quẹo lên Cầu Sắt, Quang Đông. Nó cũng là cái cớ cho tất cả những nhà văn thơ Ninh Hòa đem vào sáng tác.
Vào mùa hè lòng sông cạn rong xanh đọng
lại thành những mãng rêu màu xanh đậm trôi lềnh bềnh, mùi nước nồng mùi cá biển.
Cái mùi kỳ cục thật trừu tượng ngửi được mà không tả được . Những ngày đầu tiên
đến Mỹ suốt ngày ru rú trong nhà với máy lạnh có lần vừa mở cửa bước ra, không
khí ập đến đã cho tôi cái cảm giác rất đột ngột. Tôi ngửi được cái mùi đó và bất
giác kêu lên "mùi cầu Dinh". Sau này cái mùi cầu Dinh đại trà phổ
quát hơn, tôi ngửi được khắp mọi nơi, trong những cơn mưa bất chợt làm con đường
khuya thêm u ám khi lái xe một mình âm thầm đến hãng vào giờ ca ba , trong những
giấc mơ nhất là vào những ngày giáp tết. Nói cho cùng chiếc cầu ngắn củn bé nhỏ
ở tận nơi cùng trời cuối đất toạ lạc ở một địa thế gần như vô danh tên gọi là
Ninh Hòa giống y như cái ngăn đông đá trong tủ lạnh mỗi khi bất chợt tay chạm
phải , hơi lạnh chuyền đột ngột qua các sợi tế bào trên từng ngón tay rồi chuyển
lẹ làng vào tim vào óc. Mỗi lần chạm phải như thế tôi phát giác ra một điều
chân lý, đó là chiếc cầu với rong rêu trôi lềnh bềnh vào những mùa nước cạn
không có chút gì thơ mộng kia chính là cái tủ lạnh kiên cố đặt sâu trong tiềm ức.
Nó gắn liền với cuộc sống , những khi vui vẻ yên lành thì tôi quên bén nó đi, mỗi
khi trái gió trở trời thì hơi lạnh quê nhà tỏa ra làm da dẽ nổi đầy gai góc.
Tôi lừng khừng lớn lên trong cái xóm nhỏ
khoảng hai, ba chục gia đình trú ngụ tên gọi là "Đường luồng cây Thị"
. Xóm nằm trong hẽm rộng vừa lọt một chiếc xe đạp. Những gia đình chen lấn san
sát nhau không ngày nào là không xảy ra chuyện để nói, và vì có quá nhiều chuyện
để nói nên thét rồi được mọi người xem như chẳng có nói chuyện gì. Người lớn
ban ngày kiếm một cái gì đó bưng ra chợ để buôn bán, chiều về mạnh nhà ai nấy ở,
thỉnh thoảng chửi mắng nhau vì chuyện không đâu xem như là một cách để thay đổi
không khí . Lách ra khỏi hẻm là con đường Võ Tánh rộng hơn, nhưng cũng đủ vừa
hai chiếc xe đạp tránh né. Giáp góc đường cạnh nhà bác Hai Thiện có một trụ điện
với bóng đèn 80 watt trên cao tỏa xuống vàng vọt . Đám con trai ban đêm thường
tụ tập để chia phe bắn lộn với " đám Tàu " xóm chợ. Tụi tôi bẻ gấp
đôi cọng phượng lại rồi dùng dây thun bắn nhau, đứa nào cũng muốn trở thành anh
hùng. Đọc sử ký thấy Tàu đô hộ Việt Nam cả ngàn năm đó là kẻ thù . Xóm chợ là
nơi ở của người Tàu cho nên thù thì phải trả . Nghe nói đứa nào trả được thù
thì mới là anh hùng . Trở thành anh hùng rồi thì diện mạo tự nhiên sẽ trở thành
khôi ngô tuấn tú và không cần phải lo chuyện ăn uống , thậm chí không phải cả
chuyện đi cầu mà vẫn oai phong . Thuở đó xóm tôi nghèo nên không nhà nào là có
cầu tiêu . Mỗi lúc đau bụng cả đám kéo nhau chạy một lèo đến những lùm bụi cạnh
Lăng Bà Vú cách đó chừng 500 mét . Thét rồi Lăng Bà trở thành căn cứ cho đám
con nít chúng tôi tập họp để bàn luận chuyện đánh Tàu.
Lăng Bà Vú được vua Gia Long sau khi đoạt
ngôi từ Tây Sơn ra lệnh xây lên để ghi ơn người đàn bà đã chứa chấp khi người
còn là bại tướng bị truy đuổi . Nội tôi khi còn sống thường kể về nhiều huyền
thoại linh thiêng của Lăng Bà . Nhưng trong trí óc non nớt của tôi đó chỉ là một
cái gò có bờ thành xây bằng vôi bao bọc chung quanh , cỏ và cây cối không người
cai quản mọc chen chúc nhau um tùm . Hai con kỳ lân xây bằng vôi ngồi chồm hổm
trên bờ thành theo truyền thuyết vào những đêm rằm biến thành kỳ lân thực xuống
tắm quậy nước ầm ầm trong ao sen . Đám nhóc chúng tôi nghịch ngợm trèo đầu cỡi
cổ mà hai con kỳ lân chẳng dám có phản ứng gì. Trong các huyền thoại tôi teo nhất
về chuyện một cặp rắn thần sống từ mấy trăm năm nay , một con có mồng màu xanh.
một con có mồng màu đỏ tía nằm giữ mộ . Bợm bãi cách mấy đứa nào cũng ngán rắn
cắn cho nên mỗi khi bất chợt đau bụng thì rũ nhau cả bầy đi cầu tập thể cho vui
. Trẻ con vô tư lự, ngồi xếp hàng nhìn chim nhau cười khúc khích. Sau này lớn
thêm một chút, đến tuổi biết mắc cở không còn cái thú đi cầu tập thể nữa nhưng
máu muốn trở thành anh hùng thì không hề nguội lạnh . Bới vì thế giới có nhiều
kẻ xấu nên làm anh hùng mới có ý nghĩa . Anh hùng chưa kịp thấy đâu chỉ biết
nhiều đêm mò ra xóm chợ bị tụi tàu phục kích đánh cho tơi tả, ôm đầu chạy không
kịp thở. Chỉ tội nghiệp những cây phượng ở sân trường tiểu học Ninh Hoà bên
Vĩnh Phú bị chúng tôi leo lên bẻ cọng làm vũ khí không kịp mọc lá non.
Năm đó tôi lên lớp đệ tứ . Đám con trai
tự cho là mình đã trưởng thành, đứa nào cũng bước vào đời với điếu thuốc ngất
ngưỡng trên môi . Năm này thì xóm tôi xảy ra một biến cố vô cùng trọng đại, đó
là sự xuất hiện của Phan với gia đình từ Tu Bông dọn vào ở . Phan có mái tóc
quăn cắt ngắn úp vào khuôn mặt thanh tú với nút ruồi bên gò má bên phải trông
thật bắt mắt . Nhất là thân hình đang chớm nẫy nỡ ở tuổi dậy thì với hai cái vú
tròm ủm chưa biết mặc xú chiêng . Phan dọn đến không tuyên bố chiến tranh cũng
không kêu gọi hòa bình nhưng phe ta tự nhiên hoàn toàn tan rã. Đứa nào cũng bận
rộn theo Phan để thành thi sĩ nên không còn nghĩ đến chuyện đánh nhau. Con đường
vào tình yêu là con đường ăn không no, mặc không ấm, nhưng không hiểu sao đứa
nào cũng thích. Dù chiến tranh bạo lực không còn nhưng đứa nào cũng âm thầm tiến
hành cuộc chiến tranh lạnh với phe mình để mong lọt vào đôi mắt của Phan.
Cuối cùng trong cuộc tuyển chọn không hiểu
sao tôi được Phan chấm trúng . Tôi vốn học không giỏi lại không siêng, yêu Phan
tôi lại càng thêm phần lười biếng. Ba má tôi suốt ngày ngoài chợ đâu có rỗi
rãnh mà kềm kẹp đám con. Tôi như được tháo cũi xổ lồng. Những mãng rêu xanh dưới
dòng sông Dinh bình thường trông dơ dáy như thế, nhưng có tình yêu vào rồi ban
đêm nhìn xuống dưới ánh trăng trông lấp lánh như màu ngọc bích . Tôi và Phan trốn
cha, trốn mẹ, trốn cả bạn bè hẹn nhau mỗi đêm ở sân đánh tenis Trường Tàu, ngồi
ngay dưới gốc cây phượng mà mới hôm nào suốt ngày tôi giống như con khỉ đu trên
đó . Cái sân tráng xi măng vô cùng sạch sẽ lý tưởng, bốn phía đều có thành bao
bọc kín đáo, ở đây mặc sức tôi và Phan thề non hẹn biển.
Mãi đến sau này trong những ngày lầm
than của đất nước, ở tù về cứ mỗi lần đứng xếp hàng ở bến xe Ninh Hoà đợi mua
được cái vé đi Nha Trang phản ứng của tâm ức vẫn còn xui khiến hai con mắt tôi
bâng khuâng nhìn về hướng đó, nơi của tôi và Phan với mối tình đầu . Sân tenis
thành bao quanh bốn phía chỉ thấy được những cành khẳng khiu chĩa ngang chĩa dọc
của cây phượng già in dưới màu trời đen thẩm . Thỉnh thoảng đôi khi hai đứa tôi
đổi chổ, đạp xe đèo nhau chun rào vô sân trường Trần Bình Trọng, ngồi ở những
mé thềm trước những lớp học nào khuất ánh sáng . Phan thua tôi hai lớp, học
cùng trường nên tất cả ngóc ngách chung quanh hai đứa tôi rành như đường chỉ
tay trong lòng bàn tay. Chúng tôi mê mẫn dọ dẫm bằng một tình yêu ở ngưỡng cửa
dậy thì không so tính xem như bổn phận của hai đứa khi trời xui đất khiến gặp
nhau là phải yêu nhau vậy. Có thể nói tôi hãy còn quá nhỏ để có thể hội đủ
trình độ lắng nghe để còn phân tách cái cảm giác lãng mạn mà tôi vẫn thường gặp
trong tự lực văn đoàn . Chỉ biết khi kề cận bên nhau , được hôn phớt lên gò má
trắng ngần ẩn hiện nhiều sợi lông tơ của Phan là trong lòng tôi vô cùng rộn rã
.Tôi chưa bao giờ nghĩ đến lúc bị Phan bỏ hoặc là tôi phụ bỏ Phan . Như là Phan
vĩnh viễn thuộc về tôi . Trời có sập xuống, biển có thể trồi lên nhưng Phan
không thể là của người khác. Dưới nhiều cặp mắt của người lớn tôi đúng là thằng
con nít ranh, là con chim chưa dập bụng cứt , không lo học hành bày đặt mọc
lông làm người lớn . Dưới những cặp mắt bạn bè đồng trang lứa thì tôi là thằng
ngáp phải ruồi, Phan đui nên mới chấm trúng tôi. Tôi không thích ai xem tôi còn
con nít, nhưng lại không dám tự cho mình đã là người lớn . Tôi lươn ươn ở trạng
thái dùng dằng làm con nít không xong mà làm người lớn không được. Hình như
ngay cả chính má tôi cũng không khẳng định được lằn ranh đó , bởi vì mỗi khi
sai tôi làm hư một chuyện gì thì thế nào cũng bị mắng " lớn đầu rồi mà cái
chuyện bé tí tẹo đó làm không được " Còn hễ mỗi khi bắt gặp tôi lén la lén
lút chải tóc sắp sửa trốn đi mèo thì câu mắng quẹo liền một góc 180 độ " còn
con nít con nôi không lo học hành chỉ lo trai gái đàn đúm .. "
Tôi và Phan yêu nhau ở lứa tuổi học trò
chỉ là yêu để gọi là yêu . Giản dị vậy thôi . Yêu nhau giống như hai con ngựa bị
bịt mắt đi giữa đám rừng thì thế nào cũng có ngày đầu tột vô góc cây . Chuyện
lao vào nhau không cần tính toán tương lai đó đến một hôm thì bị ông già của
Phan phát giác . Một trong những lá thư tình Phan giắt cạp quần bị sơ ý rớt xuống
đất, ông già lượm được thế là ông nổi trận lôi đình, tên tôi được liệt kê đầu sổ
phong thần. Tôi teo quá trốn biệt, đi học không dám hiên ngang đạp xe cái vù
ngang qua trước cửa nhà Phan như trước nữa mà phải vòng qua đường luồn nước mía
của chú sáu Dẹo . Cái kiểu vưa cầm cự mê gái vừa cầm cự với bài vở ở trường
không cần diễn tả ai cũng biết sức học của tôi tệ lậu đến chừng nào vậy mà
không bị đội sổ hoặc ở lại lớp, đúng là phước đức ông bà ba đời để lại
Năm tôi leo lên lớp đệ nhị vì sợ rớt tú
tài bị nắm đầu đi trung sỉ, tôi hối hả lao vào ôn bài vở. Thư từ qua lại của
hai đứa tôi vì thế mà thưa hơn trước vả lại cộng thêm sự kiểm soát chặt chẻ của
ba Phan đám bạn bè chim xanh không đứa nào dám hó hé. Cuối năm đó hú hồn tôi
thi đậu tú tài chưa kịp leo lên võng về làng báo tin mừng thì Phan sau mấy
tháng xa mặt cách lòng hát bản tình xa .Tôi chưa kịp vui thì cõi lòng đã nặng
trĩu nỗi buồn. Mỗi một người, mỗi một ngày đều đứng trước nhiều sự lựa chọn
khác nhau . Nếu không biết bỏ đi những thứ yếu để nhanh tay lẹ chân chụp giựt
riêng mình những thứ cần thiết thì sẽ vĩnh viễn thất bại . May mắn không đến với
đời người hai lần nhất là may mắn của tình yêu, mà tình yêu thì khó mà chơi màn
chụp giựt cho nên tôi đành thất bại. Tôi đã thất bại vì hồn quá còn non nớt
không dự trù sẽ ra sao nếu có một ngày bỗng nhiên Phan biến mất khỏi đời mình .
Tôi đi tìm Phan để hỏi xem như để giải tỏa một ấm ức, nhưng Phan trốn biệt. Đến
nước này thì đã rõ ràng, tôi là thằng bị bồ đá.
Khi những thứ còn trong tầm tay thì mình
không biết quí, đến khi nó mất đi thì mới thấy cần thiết, cái chân lý cũ mèm bất
cứ ai học i tờ trong bài vỡ lòng của tình yêu cũng đều biết được vậy mà tôi lại
vấp té thiệt đúng là vô duyên. Trong nỗi buồn sâu thẳm tôi ngửi được mùi tóc
mùi hương con gái phảng phất đâu đây. Tôi ôm khoảng không khí trống rỗng trước
mặt vẫn có cảm giác đang ôm Phan với hơi ấm da thịt ngọt ngào còn sót lại. Tôi
vừa kịp trưởng thành để có thể chính chắn nói chuyện tương lai thì tôi không
còn gì nữa hết .Tôi đau khổ tựa chừng bị ai đâm cho nhiều nhát dao . Đường đời
có trăm vạn hướng đi, tôi không biết phải đi theo đường nào, cuối cùng tôi chọn
con đường vào lính . Chỉ có vào lính ký thác đời mình cho sương gió thì mới có
thể rời xa Ninh Hoà với mối tình học trò không còn muốn nhớ . Không có sự đau
buồn khi phải chia tay thì làm sao hiểu được niềm vui khi sum họp , nhưng tôi
thì không còn hy vọng có một ngày được gặp lại Phan . Tôi ra đi bỏ lại Ninh Hoà
với bờ sông Dinh đỏ thấm giọt máu đầu đời với lòng ấm ức là Phan chia tay không
một lời giải thích, thậm chí không nói một câu giã từ.
Thế rồi biến cố tháng 4/75 ập đến . Tôi
bị phe thắng trận bắt đi ở tù . Năm 1985 sau khi được thả ra vì đói quá tôi đi
buôn lậu cà phê từ Ninh Hoà vào Sài Gòn . Mỗi chuyến đi buôn chừng 5 ký cà phê
nếu trót lọt tiền lời chỉ vừa đủ mua vài ký gạo nhưng bầm dập trầy trụa bao
phen . Trời xui đất khiến sao đó tôi gặp lại Phan trên đường Phan Thanh Giản .
Phan cũng xơ xác te tua vì chạy chợ trời kiếm tiền nuôi chồng đang bị ở tù
ngoài Bắc chưa về . Chồng của Phan cấp bậc thiếu tá xuất thân từ Thủ Đức khoá
đàn anh của tôi . Hai chúng tôi nhìn nhau ngậm ngùi . Mọi oán trách của thuở đầu
đời không còn nữa thay vào đó là một thứ tình cảm khoan dung phủ trùm lên thứ
tình yêu trai gái . Chồng của Phan và tôi là những kê thất thế bị thời cuộc đẩy
vào cùng khốn . Chúng tôi là những quân nhân cùng màu cờ sắc áo là chiến hữu với
nhau . Tôi và Phan ngồi bên nhau như hai người bạn tri âm tri kỷ kể về một con
sông chảy qua thị trấn nơi chúng tôi lớn lên . Đồng thời cũng gặp đám bạn Tàu
ngày xưa cũng thua trận vừa mới ra tù . Tụi tôi kể cho Phan nghe lúc phe ta
đang đánh nhau chí choé ngon lành bỗng có Phan xuất hiện nên chiến tranh chấm dứt
ngang xương . Phan rơi nước mắt khi nghe chúng tôi nhắc chuyện cũ . Chúng tôi
cũng cười khi mấy thằng gốc Tàu nhắc đến Tàu thì tụi nó còn ghét Tàu hơn cả tôi
. Thấy thương tất cả chúng tôi những người chiến bại của một đất nước khốn khổ
. Chúng tôi là những chứng nhân của lịch sử từ chết tới bị thương
Giờ đây tôi không còn bơi trên dòng sông
Dinh của thị trấn Ninh Hoà bé nhỏ hiền hoà nữa mà bơi qua biển Thái Bình Dương
. Tôi đã trở thành người biệt xứ . Những giây phút an bình hạnh phúc hay những
lúc gian nan khốn nhục thì cây cầu hiền lành kia vẫn lừng lững xuất hiện trong
giấc mơ . Bên này cầu là bờ dĩ vãng bên kia cầu là bến tương lai . Trong chiêm
bao tôi thấy mình đang khập khễnh bước lên . Ngày xưa lúc còn đi học thầy dạy
té ngã từ chổ nào thì nên đứng dậy từ chổ đó, nhưng từ nơi tôi đứng dậy hành
trang đầy nặng trĩu hình bóng của quê nhà . Tôi còn đang mệt mỏi khom mình thì
một cái vèo như chớp mắt, người lính năm nào nay đã là một gã thất thập cổ lai
hy
Mảnh đất hồn em, tôi cất chòi ở lậu
Bị bắt quả tang nên tống cổ ra ngoài
Quan Dương
* Hình Cầu Causeway dài 40 cây số là chiếc
cầu bắc qua biển dài nhất thế giới hiện nay.