Vận nước chuyển đổi, sau ngày 30 tháng 4, 1975 cuộc chiến tranh
giữa Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) kết thúc! Thay vì hòa
hợp, hòa giải dân tộc để cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam phú cường thì ngược
lại nhà cầm quyền Hà Nội say men chiến thắng, tạo dựng lên hằng trăm nhà tù lớn,
nhỏ với mỹ từ “cải tạo” để giam giữ: Quân, Dân, Cán, Chính. Ðảng phái, tôn
giáo, giới trí thức, văn nghệ sĩ,… của Việt Nam Cộng Hòa còn ở lại trong nước
vì nhiều lý do khác nhau.
Qua thông cáo của Ủy Ban Quân Quản Saigon và các địa phương họ
đã ra lệnh tập trung thành phần trên trong thời hạn một tháng để học tập chính
sách của đảng Cộng Sản. Bản chất Cộng Sản đã lộ nguyên hình khi họ ấn định thời
gian ngắn hạn là “một tháng” để đánh lừa sự thành tâm của các viên chức và sĩ
quan của miền Nam Việt Nam muốn thi hành đúng đắn mọi yêu cầu của kẻ chiến thắng
để rồi an phận trở về với công việc canh tác, sản xuất,… của người công dân
trong thời hậu chiến.
Nhưng tiếc thay, họ đã tráo trở lợi dụng cơ hội nầy để giam giữ
những người chiến bại một cách dài hạn “không bản án” và được mệnh danh “trại tập
trung cải tạo.” Thời gian bị tù đã kéo dài ít nhất là 3 năm, còn lại đa số chịu
đựng khổ nhục trong vòng 7, 10, 18 hay 20 năm.
Trong số tù nhân có hơn 30 tướng lãnh và trên 400 đại tá. Căn bản
chính yếu để giam tù được căn cứ theo lý lịch của tù nhân để trả hận thù bằng
nhiều hình thức như bắn bỏ, tra tấn, nằm nhà cùm, giam vào ngục tối để chịu đói
lạnh, lao động khổ sai, bệnh nặng không thuốc men làm cho nhiều người phải vùi
thây dưới tầng địa ngục.
Trong vòng ba mươi năm nữa, những quân nhân thuộc vào thế hệ trẻ
nhất của cả hai bên đã tham gia vào cuộc chiến 1945-1975 sẽ lần lượt qua đời.
Thế hệ kế tiếp muốn tìm hiểu lịch sử của thời cha ông sẽ phải tìm đọc những tài
liệu, sách báo, phim ảnh có tính cách lịch sử do những người trong cuộc lưu lại.
Là tù nhân qua hai trại Kỳ Sơn và Tiên Lãnh, tôi xin ghi lại những
chuyện đau thương nhất mà chính tôi đã từng chứng kiến.
Các chuyện được hình thành không nhằm mục đích gây thêm lòng hận
thù và chia rẽ mà chỉ nêu lên những kinh nghiệm đau thương trong lịch sử cận đại
để cho các thế hệ tiếp nối học được những kinh nghiệm quý báu hầu tránh được những
lỗi lầm tai hại của những người đi trước vì thiếu đạo đức cũng như kiến thức
trong việc lãnh đạo toàn dân mà chỉ dựa trên lòng đố kỵ và mưu đồ trả thù khiến
cho tương lai của dân tộc Việt mỗi ngày một tuột xuống hàng thấp nhứt của lịch
sử nhân loại.
Cộng Quân tiến vào Ðà Nẵng:
Vào ngày 29 tháng 3, 1975, Cộng Quân tiến vào thành phố Ðà Nẵng
không gặp một sự kháng cự nào đáng kể vì những đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa (QLVNCH) đã triệt thoái bằng không và hải vận vào Nha Trang hay Sài Gòn…
Tổ chức hành chánh của thành phố Ðà Nẵng và tỉnh Quảng Nam:
Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, thành phố Ðà Nẵng trực thuộc Trung
Ương còn hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín được biệt lập. Khi Cộng quân cưỡng chiếm
thành phố Ðà Nẵng và 2 tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín, họ đã sát nhập lại gọi là tỉnh
Quảng Nam Ðà Nẵng.
Các trại tù tại Quảng Nam Ðà Nẵng:
Những trại tù mang tên của những địa danh: Hội An, Vĩnh Ðiện, Hiếu
Ðức, Hòa Cầm, Phú Túc, Thượng Ðức, An Ðiềm, Kỳ Sơn, Tiên Lãnh,… là nơi ngục tù
của các sĩ quan và viên chức Việt Nam Cộng Hòa.
Lừa bịp ngay ngày đầu:
Cưỡng chiếm các thành phố miền Nam, Ủy Ban Quân Quản kêu gọi những
viên chức, sĩ quan của chế độ cũ mang theo tiền ăn 1 tháng để học tập. Nhưng tại
Ðà Nẵng vào sáng ngày 5 tháng 4, 1975 Ủy Ban Quân Quản thông báo: “Ðúng 8 giờ
sáng hôm nay, tất cả sĩ quan chế độ cũ tập trung đầy đủ, không chậm trễ tại số
2, Ðống Ða để nghe nói chuyện tình hình đất nước.” Tập đoàn Cộng Sản đã dùng
nơi nầy như cái “nôm” để tóm gọn các sĩ quan. Ðến tối họ chuyển tất cả những
người đã đến trình diện về Vĩnh Ðiện, Hội An để giam giữ.
Không đưa tù quan trọng ra Bắc:
Cuối năm 1975, Trung Ương ra lệnh chuyển ra Bắc tất cả các sĩ
quan chế độ cũ trước đây giữ chức vụ quan trọng đang bị giam giữ tại Kỳ Sơn,
Tiên Lãnh và An Ðiềm. Viên Tỉnh Ủy Quảng Nam Ðà Nẵng liền trình xin Trung Ương
giữ tại chỗ các cải tạo viên qua các lý do sau đây:
– Quân đội Mỹ đã chọn Ðà Nẵng để đổ bộ đầu tiên 2 Tiểu Ðoàn Thủy
Quân Lục Chiến vào ngày 8 tháng 3, 1965.
– Quảng Nam Ðà Nẵng đi đầu trong công tác diệt Mỹ cứu nước.
– Bộ đội, công an Quảng Nam Ðà Nẵng có đủ khả năng, kinh nghiệm
để quản lý cải tạo tốt, làm ra nhiều của cải vật chất để nuôi tù, cung cấp cho
tỉnh và đóng góp về trung ương.
Trung ương đã chấp thuận đề nghị trên.
Trại tù “cải tạo” Kỳ Sơn (Hình minh họa)
Kỳ Sơn là tên của một xã thuộc huyện Tam Kỳ gần mỏ vàng Bông Miêu chừng 3 cây số,
có đường trải nhựa và sông Bông Miêu chảy qua, rừng già âm u, thời tiết rất lạnh,
có nhiều thung lũng để canh tác. Kỳ Sơn có 4 trại tù: trại 1, 2, 3 và 4 giam giữ
toàn sĩ quan từ cấp chuẩn úy đến cấp đại tá, phần đông phục vụ tại Quân Ðoàn I.
Các trại trên trực thuộc Tổng Trại 2 do bộ đội quản lý. Trung Tá Việt Cộng Ngô
Câu làm tổng trại trưởng. Ðến ngày 28 tháng 9, 1978, tổng trại chuyển giao tù
còn lại cho công an quản lý tại hai trại Tiên Lãnh và An Ðiềm.
Sau đây là những chuyện đau buồn nhất đã xảy ra tại địa ngục Kỳ Sơn:
Trung Tá Lê Ðình Ái, Ðại Úy Nguyễn Văn Lộc vượt thoát khỏi trại tù Kỳ Sơn.
– Trung Tá Lê Ðình Ái, sinh ngày 12 tháng 3, 1943 tại Huế, khóa 13 Ấp Chiến Lược,
sĩ quan trừ bị Thủ Ðức, quận trưởng quận Tiên Phước.
– Ðại Úy Nguyễn Văn Lộc, số quân 58/600.570, sinh tháng 10, 1938 tại Ðịnh Tường,
Trường Không Quân Việt Nam, phi công quan sát Sư Ðoàn 1 Không Quân.
Hai anh Ái và Lộc bị tù trại 1 Kỳ Sơn. Tuy khác tổ trong lao động thường gặp
nhau trò chuyện, cả hai đồng tâm muốn trốn trại nên bàn kế hoạch vượt thoát.
Móc nối được người thân cung cấp cho giấy tờ. Ðúng 9 giờ sáng ngày 20 tháng 11,
1975, hai người trốn khỏi nơi lao động gặp nhau tại điểm hẹn rồi tức tốc di
chuyển nhanh bằng xe Honda chờ sẵn ra khỏi khu vực, băng theo đường rừng vượt
thoát về hướng Nam. Hay tin tù trốn, Tổng Trại 2 bủa vây lục kiếm suốt 2 tuần
không tìm được. Cuộc vượt thoát hết sức gian nan. Hai anh biết rất rõ địa thế rừng
núi của 2 tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngãi vì thường hành quân trước đây. Bài học
mưu sinh thoát hiểm lúc học sĩ quan được áp dụng để sống còn.
Qua 27 ngày len lỏi trong rừng già khi ra đồng trống hết sức mừng vui nhìn thấy
xe chạy ở Quốc Lộ 1 nên bàn nhau ra lộ đón xe đò đi tiếp. Tắm rửa, cạo râu,
thay quần áo dân sự xong điền tên vào giấy tờ, nghĩ lấy lại sức rồi đến cầu Bà
Di, Ðập Ðá Bình Ðịnh đón xe. Khi xe ngừng xui ơi là xui! Lại gặp ngay đoàn xe
chở công an từ Bắc vào công tác trong Nam. Lỡ rồi, hai anh vẫn lên xe tự nhiên.
Phụ xe cho ngồi ghế xếp phía sau. Qua cặp mắt nghi ngờ của tên công an ngồi cạnh.
Ðến trạm kiểm soát Cam Ranh tên công an ngồi cạnh báo nhân viên kiểm soát để
xét giấy tờ. Kiểm soát giấy thấy không nghi ngờ nên tiếp tục cho đi. Hú hồn !
Hai anh vui mừng không xiết kể.
Về đến Saigon, anh Lộc tìm đường vượt biển. Thật tội nghiệp về sau nghe tin anh
Lộc đã mất tích trên biển cả. Còn anh Ái gia nhập Mặt Trận Quốc Gia Giải Phóng
Việt Nam. Ðến ngày 27 tháng 12, 1977 lại bị bắt, tiếp tục ăn cơm tù. Tháng
9,1986 được thả ra rồi tổ chức vượt biển thành công. Tháng 4, 1990 cả gia đình
định cư tại Hoa Kỳ.
(Tuy cuộc vượt thoát của anh Ái thành công song những đau thương tan vỡ gia
đình rồi tù tội từ ngày về lại Saigon qua câu chuyện dài chính anh Ái kể lại hết
sức thương tâm cho một chiến hữu VNCH đã gãy súng theo vận nước).
*Y Sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương tự tử sau một năm trong tù!
Thiếu Tá Phạm Văn Lương số quân 54/226-453, sinh vào tháng 11, 1934 tại Quảng
Trị, xuất thân khóa 4 Cương Quyết Thủ Ðức, sau theo học ngành Quân Y. Nguyên
bác sĩ trưởng khu Ngoại Thương, Tổng Y Viện Duy Tân Ðà Nẵng.
Trước 1975, qua hệ thống truyền thông và báo chí khá đông người miền Nam biết đến
Thiếu Tá Phạm Văn Lương qua các việc ông đã làm:
– Mang lựu đạn đến tiền đình Hạ Viện yêu cầu Hạ Viện điều tra làm sáng tỏ việc
bắn chết Y Sĩ Ðại Úy Hà Thúc Nhơn, người bạn cùng khóa Quân Y, phục vụ tại Quân
Y Viện Nguyễn Huệ Nha Trang đã can đảm đứng lên chống bọn tham nhũng giết một
sĩ quan tố tham nhũng tại bãi biển Nha Trang.
– Thực hiện thành công cuộc giải phẫu lấy đầu đạn M79 ghim trong người quân
nhân Ðinh Né.
– Trách nhiệm tổ chức việc gom tử thi trên đại lộ Kinh Hoàng (Mùa Hè Ðỏ Lửa
1972) đưa về mai táng, lập bia kỷ niệm tại Quảng Trị.
– Xây dựng làng Ðồng Thạnh tại Hội An, Quảng Nam định cư đồng bào phía Bắc Quân
Khu 1 lánh nạn Cộng Sản (ngân khoản do Bác Sĩ Phan Quang Ðán, Quốc Vụ Khanh,
tài trợ).
– Ngày 29 tháng 3, 1975, Cộng Quân cưỡng chiếm Ðà Nẵng, Bác Sĩ Lương cùng một số
bác sĩ khác ở lại nhiệm sở Tổng Y Viện Duy Tân cứu chữa đồng bào và thương
binh. Cùng lúc Ðài BBC Luân Ðôn loan tin Bác Sĩ Phạm Văn Lương đã được Cộng Sản
cử làm thị trưởng Ðà Nẵng.
– Ngày 5 tháng 4, 1975, Cộng quân tập trung các bác sĩ đưa vào giam tại Hội An,
trong số có Bác Sĩ Lương, rồi di chuyển đến Tổng Trại 2 Kỳ Sơn, Quảng Tín. Các
bác sĩ đều bị đưa về trạm xá Kỳ Sơn làm việc chuyên môn ngoại trừ Bác Sĩ Vương
Ngọc Lâm cho đi lao động bởi gia đình ông chống Cộng triệt để.
– Ngày 25 tháng 8, 1975, có thêm Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Văn Cơ (gốc Y Sĩ Dù)
nguyên chỉ huy trưởng Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương Huế từ trại giam Hiếu Ðức
chuyển lên trạm xá.
Qua một năm trong trạm xá Tổng Trại 2 tù Kỳ Sơn, Bác Sĩ Lương cùng các bác sĩ
khác tận tình cứu chữa các bệnh nhân gồm bộ đội, tù binh và dân chúng trong
vùng.
– Chủ Nhật, 28 tháng 3, 1976, bà Ðỗ Khánh Niệm lên thăm chồng, trong dịp nầy
Bác Sĩ Lương ngồi bên vợ, bà Lương sắp thức ăn mời chồng. Ông không thiết tha
việc ăn uống mà chỉ than cùng vợ: “Chắc anh khó về lắm em ơi!!! Có người tố cáo
anh cùng Bác Sĩ Phan Quang Ðán là CIA,…”
Hai vợ chồng đang bịn rịn dặn dò việc nuôi dạy các con, bỗng có tiếng la lớn của
vệ binh: “Hết giờ thăm nuôi, về lại trạm xá.” Bác Sĩ Lương và vợ đứng dậy, nước
mắt bà Lương trào ra, chân ông Lương không dỡ lên được, đàng sau lưng tên vệ
binh mang súng AK hối thúc đi về, bà Lương lau nước mắt nhìn đồng hồ lúc ấy là
12 giờ trưa. Ðó là giây phút biệt ly định mệnh của hai vợ chồng Bác Sĩ Phạm Văn
Lương. Khoảng cách giữa hai người mỗi lúc một xa thêm, rồi hình bóng Bác Sĩ
Lương khuất dần dưới ngọn đồi thăm nuôi trại Kỳ Sơn.
Một tuần sau, vào ngày 3 tháng 4, 1976, Bác Sĩ Lương đã uống nhiều viên thuốc
ngủ cùng 10 viên cloroquine làm người ông quay cuồng, lăn lộn. Bằng mọi cách
các bác sĩ tại trạm xá cố gắng cứu chữa nhưng ông Lương báo là đã uống quá nhiều
thuốc nên không thể cứu được. Sau khi thốt lên lời từ biệt mọi người, mắt ông từ
từ nhắm lại.
Tin Bác Sĩ Lương tự tử được loan truyền nhanh chóng trong anh em tù, ngược lại
Ban Chỉ Huy Trại cho biết Bác Sĩ Lương chết vì trúng gió!
Ít ngày sau, thân nhân thăm nuôi đưa tin về Ðà Nẵng: Bác Sĩ Lương đã tự tử chết.
Nhận được hung tin, bà Lương lên trạm xá khóc lóc đòi biết rõ nguyên nhân cái
chết của chồng mình. Lúc đầu cán bộ trạm xá cho biết không có chuyện Bác Sĩ
Lương chết nhưng bà tiếp tục than khóc và la ầm lên. Thiếu Tá Việt Cộng Ðinh
Văn Nhất là trưởng Trại 1 liền tới cho bà biết: Bác Sĩ Lương chết vì trúng gió.
Viên y sĩ Việt Cộng nói thêm là đã chôn cất Bác Sĩ Lương cẩn thận. Số ván dự
trù để đóng bàn mổ cho Bác Sĩ Lương sử dụng lại được dùng vào việc đóng quan
tài cho ông. Bà Lương xin chuyển xác chồng về Ðà Nẵng nhưng trại không chấp thuận.
– 1984, mộ phần Bác Sĩ Lương được dời về Hội An, an nghỉ trong nghĩa trang gia
đình người bạn thân.
– 1985, bà quả phụ Phạm Văn Lương cùng 7 người con (4 trai, 3 gái) và các cháu
được thân nhân bảo lãnh sang định cư tại Hoa Kỳ.
Trung Tá Võ Vàng bị bắn chết như thế nào? ̣Hình minh họa)
Trung Tá Võ Vàng, số quân 60/211.412, sinh tháng 10 năm 1940 tại Quảng Ngãi,
khóa 17 Lê Lai, trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn
21/BÐQ, quân sự vụ trưởng trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, trung đoàn trưởng
Trung Ðoàn 5, Sư Ðoàn 2 Bộ Binh.
Ðược chỉ thị của Ban Chỉ Huy trại 1 Kỳ Sơn, hai vệ binh Ðinh Văn Hương và Âu
Thái Trương tức Bốn hướng dẫn toán tù binh thuộc nhà 9, khối 2 đi lao động tại
khu Cò Bay, Bông Miêu. Sau khi cắt đặt lao động, hai vệ binh gọi đích danh anh
Võ Vàng đi theo vệ binh Trương cắt đốt về làm chổi.
Ðộ chừng 15 phút, một loạt AK nổ dồn lúc ấy là 10 giờ sáng ngày 13 tháng 4,
1976. Anh em tù nghi là vệ binh Trương đã bắn anh Vàng vì ngày hôm trước có sự
sắp đặt để cãi nhau giữa vệ binh nầy và anh Vàng tại khu thăm nuôi. Quả thật liền
thấy tên Trương chạy ra hớt hải la lên: “Tên Vàng đá, đạp tôi để giật súng, may
phát hiện kịp nên bắn chết nó rồi.”
Thật ra đây là một hành động sắp xếp bắn anh Vàng để trả thù của Cộng Sản. Trước
đây Trung Tá Vàng đã chỉ huy Tiểu Ðoàn 21 Biệt Ðộng Quân tham chiến vào dịp Tết
Mậu Thân 1968 tại Huế. Ðến năm 1973, anh chỉ huy Trung Ðoàn 5, Sư Ðoàn 2, tái
chiếm cửa khẩu Sa Huỳnh. Tại hai nơi nầy đều gây tổn thất nặng cho Cộng Quân
thuộc Liên Khu 5.
Ít ngày sau bà Võ Vàng nhận được hung tin tức tốc đến trại Kỳ Sơn, tại đây Ban
Chỉ Huy trại đã báo cho bà biết là chồng bà đã đánh vệ binh, cướp súng nên bị bắn
chết. Trại có trao cho bà 1 biên bản về sự việc xẩy ra trong đó có 5 chữ ký của
đại diện trại và tù, cùng 1 biên bản kiểm kê tư trang.
Sau khi Trung Tá Vàng bị bắn chết, bà quả phụ Võ Vàng nhũ danh Lê Thị Ðường,
giáo sư trung học tại Quảng Ngãi, bị nhà trường thông báo cho nghỉ dạy (trước
1975 bà Ðường là hiệu trưởng Trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi).
Ðể tránh hậu quả của việc xét lý lịch ba đời cho các con nên bà cùng 6 con (2
trai, 4 gái) đành liều chết vượt biển qua Hồng Kông. Cuối cùng gia đình cố
Trung Tá Võ Vàng được may mắn định cư tại Hoa Kỳ vào tháng 8, 1984.
Ngôi mộ anh Vàng được cải táng vào năm 1997.
*Âm mưu ám hại Trung Tá Võ Vàng đã được nhân chứng sống, Thiếu Tá Phạm Văn Hồng,
số quân 61/203.947, sinh tháng 10-,1941 tại Nam Ðịnh (cựu SVSQ khóa 20 Nguyễn
Công Trứ Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, bị Trung Cộng bắt giữ tại Quảng Châu,
sau cuộc hải chiến với VNCH ngày 20 tháng 1, 1974 tại quần đảo Hoàng Sa) trình
bày rất chi tiết trong chương trình Huynh Ðệ Chi Binh của đài truyền hình SBTN
do nhà văn Huy Phương phụ trách vào tháng 4 năm 2008.
*Trung Tá Nguyễn Văn Tố và Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Công Anh Kiệt thoát chết
trong đêm tối
– Trung Tá Nguyễn Văn Tố, sinh tháng 5, 1930 tại Thừa Thiên. Số quân
50/201.605, khóa 2 VBÐP Huế.
+ Tham mưu trưởng Tiểu Khu Thừa Thiên
+ Phó thị trưởng thành phố Huế.
+ Tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Phú Yên.
+ Trung tâm phó Trung Tâm Ðiều Hợp Bình Ðịnh Phát Triển Quân khu 1.
– Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Công Anh Kiệt sinh tháng 6, 1940 tại Saigon, số quân
60/701.173, khóa 13 Ðệ Nhị Dương Cưu Trường HQNT. Phân cuộc trưởng Hải Cảng Sâu
Tiên Sa Ðà Nẵng (con rể ông Nguyễn Văn Kiểu, nguyên đại sứ VNCH tại Ðài Loan,
bào huynh cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu).
Vào lúc 12 giờ 30 một đêm đầu tháng 7, 1976 tại Trại 1 Kỳ Sơn, một vệ binh mang
súng AK vào nhà 9 gọi anh Nguyễn Văn Tố và sang nhà 6 gọi anh Nguyễn Công Anh
Kiệt đi nhanh ra ngoài rồi dẫn đến phía ngoài vọng gác cổng chính của trại. Nơi
đây có sẵn vệ binh Trương tức (Bốn) tay cầm AK chờ sẵn. Anh Tố và Kiệt đoán
chúng sắp đem mình đi bắn rồi vì trước đây vệ binh Bốn đã được chọn bắn Trung
Tá Võ Vàng vào ngày 13 tháng 4, 1976 tại khu Cò Bay Bồng Miêu.
Sau khi Bốn nhận 2 anh Tố và Kiệt xong chỉ tới ngồi nơi tảng đá gần đó. Tại đây
anh Tố nói nhỏ với anh Kiệt: “Chắc chúng đưa mình ra bờ rào bắn rồi hô hoán là
trốn trại. Sự tù tội chắc còn lâu dài lắm. Thôi chết sớm khỏe xác mình, vợ con
bớt khổ trong việc lặn lội lên rừng sâu, núi thẳm thăm nuôi.” Qua lời anh Tố,
anh Kiệt thở dài!!!.
Thời gian lo lắng lần đến 2 giờ 30 sáng, thấy đèn pile lập lòe sáng rồi lần hồi
một cán bộ từ Bộ Chỉ Huy xuống nói nhỏ gì với tên Bốn xong về lại. Lúc nầy hai
anh Tố và Kiệt rất hồi hộp, chắc chúng sắp đem mình đi bắn rồi. Hai anh thầm cầu
nguyện theo tôn giáo của mỗi người. Năm phút sau, tên Bốn gọi anh Tố và Kiệt đến
rồi bảo hai anh về lại nhà ngủ để mai tiếp tục lao động.
Suốt đêm nầy hai anh không sao ngủ được và cứ lo lắng mãi, kể từ sáng hôm sau
hai anh Tố và Kiệt luôn được quản giáo theo dõi sát cho đến khi chuyển qua Trại
4 rồi đến Trại Tiên Lãnh.
Ðến ngày 28 tháng 9, 1978, toàn bộ tù nhân Kỳ Sơn được chuyển đến trại Tiên
Lãnh. Ba ngày sau khi đến Tiên Lãnh, hai anh Tố và Kiệt liền vào nhà cùm cùng với
một số sĩ quan khác chúng cho là nguy hiểm.
Hai tháng sau khi đến Tiên Lãnh, một buổi chiều qua âm thanh rùng rợn của 2 tiếng
kẻng, tất cả mọi tù nhân vào phòng đóng cửa sắt. Công an trang bị vũ khí rải
canh giữ từng phòng một. Các cửa nhà cùm được mở ra, khoảng 100 tù nhân từ các
phòng biệt giam được đưa ra ngoài trói lại bằng dây dù cột vào nhau với 5 người
một do một công an canh giữ rồi chuyển đến Trại Ðồng Mộ, Nhà Trắng để giam tiếp,
trong số tù trên có hai anh Tố và Kiệt bị giam cho đến 1983.
Ðến 1988, cả hai anh Tố và Kiệt mới nhận giấy ra trại sum họp gia đình. Ngày 24
tháng 6, 1992, anh Tố cùng vợ và 4 người con được các con cháu cùng đông thân hữu
vui mừng chào đón tại phi trường Los Angeles theo diện H.O. 10.
Anh Kiệt đã sang Hoa Kỳ và định cư tại Houston, Texas. Chắc chắn hai anh Tố và
Kiệt chỉ quên đêm tối ấy tại Trại 1 Kỳ Sơn khi nào được thuyên chuyển về Vùng 5
Chiến Thuật (thế giới bên kia, hy vọng bên ấy không có hận thù).
Thiếu Tá Nguyễn Tâm Miên trốn trại thành công, thời gian sau bị
bắt lại (Hình minh họa)
Thiếu Tá Nguyễn Tâm Miên sinh tháng 1, 1946 tại Thừa Thiên, Số quân 66/100.004,
thiếu sinh quân khóa 20 Nguyễn Công Trứ/Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Khối Kế Hoạch,
tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 2 SVSQ Trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị, tiểu
đoàn trưởng Sư Ðoàn 3 Bộ Binh.
Vận nước đổi thay, Thiếu Tá Nguyễn Tâm Miên cũng như hằng trăm ngàn chiến hữu của
mình không thoát khỏi ngục tù khổ sai Cộng Sản. Chúng đưa anh vào Trại 1 Tổng
Trại 2 Kỳ Sơn Quảng Nam Ðà Nẵng.
5 tháng 9, 1976: Sau khi thả một số tù, Trại 1 giải tỏa, số tù còn lại nhập vào
Trại 4. Chúng tôi khoảng 40 người đưa vào Nhà 9, Khối 4. Ða số cấp bậc trung
tá, về thiếu tá có các anh Nguyễn Tâm Miên, Phạm Văn Hồng, Nguyễn Văn Lai và
tôi. Ðặc biệt ít ngày sau có Thiếu Úy Ông Văn Tụng nhập vào! Từ đó chúng tôi rất
dè dặt qua các câu chuyện khi có viên thiếu úy nầy!
Những chiến hữu xuất thân từ Thiếu Sinh Quân, Võ Bị Quốc Gia trong tinh thần
giúp đỡ bao bọc khắng khít nhau với các bạn đồng khóa, đồng môn bất cứ hoàn cảnh
nào nhất là trong lao tù Cộng Sản. Một phần thời gian họ học ở trường lâu dài,
hơn nữa với nội quy, chương trình học được sắp xếp rất ư khoa học để khi tốt
nghiệp trở thành cán bộ có đạo đức, văn võ song toàn. Cùng xuất thân Khóa 20 Ðà
Lạt nên hai thiếu tá Miên và Hồng chơi thân nhau, luôn chia sẻ ngọt bùi, lại có
tâm ý trùng hợp là muốn trốn trại. Ðến khi thực hiện trốn trại tiếc thay Thiếu
Tá Hồng không cùng đi được lý do bịnh hoạn kéo dài.
Sắp xếp xong với người thân qua chuyến thăm nuôi trước đó, người nhà đã đưa cho
Miên 1 thẻ bầu cử chưa điền tên với đầy đủ chữ ký, con dấu cùng vài giấy tờ
khác. Trước đó 1 ngày, chính Hồng là người đã điền tên vào chỗ trống lý lịch
cho Miên sử dụng trong lúc đi đường.
Là nhà trưởng nên việc cắt đặt lao động do chính Miên phụ trách.
Một ngày đầu tháng 9, 1977, sau khi phân công anh em đi lao động, Miên liền lấy
cây rựa ra cổng trại báo cáo vệ binh đi đốn củi. Thật nhanh đến điểm hẹn có người
chờ sẵn với xe Honda. Thay xong quần áo dân sự chạy nhanh vào hướng Saigon. Chiều
lại, điểm danh thấy thiếu Miên. Trại báo động, tìm kiếm thâu đêm, lúc nầy Miên
đã thoát ra khỏi khu vực trách nhiệm của Quân Khu 5 Việt Cộng.
Cuộc vượt thoát thành công, sống tại Saigon ít tháng, đáng tiếc! Vì lý do nào
đó cán bộ trại tìm được vào tận Saigon bắt Miên đem về trại đưa vào nhà cùm.
28 tháng 9, 1978: Tất cả tù do bộ đội quản lý được chuyển giao công an trại
Tiên Lãnh trong đó có Miên và không thoát khỏi cảnh vào phòng biệt giam, qua
nhiều năm kế tiếp.
Sau nầy nghe tin Thiếu Tá Miên đã sang Hoa Kỳ qua chương trình H.O.
*Trung Tá Ngô Hoàng, bị bắn tại Kỳ Sơn!
Trung Tá Ngô Hoàng, sinh vào tháng 2, 1932 tại Thừa Thiên. Số quân 52/200.968,
Khóa 10, Trần Bình Trọng, Võ Bị Ðà Lạt.
– Trưởng phòng Phản Gián An Ninh Quân Ðội Quân Khu 2.
– Trưởng ty An Ninh Quân Ðội, tham mưu trưởng Tiểu Khu Phú Yên.
– Sĩ quan thanh tra Trung Tâm Ðiều Hợp Bình Ðịnh và Phát Triển Quân Khu 1.
1977: Từ Trại 1, Trung Tá Ngô Hoàng, khối phó khối 4 chuyển qua Trại 4 Kỳ Sơn.
Ông bị cận thị rất nặng. Sau thời gian dài cùng anh em tù đến Phú Ninh, Tam Kỳ
để khai hoang làm lòng hồ, khi trở về Trại 4 được ít tuần lễ thì xảy ra vụ Thiếu
Tá Nguyễn Tâm Miên trốn trại. Hai anh Hoàng và Miên thường ăn cơm chung với
nhau.
1978: Vào một ngày đầu năm, khối 4 được lịnh sang Trại 2 để đào sắn. Cơm trưa vừa
xong, vệ binh tên Tư đến bảo Ðại Úy Công Binh Nguyễn Ðắc Phúc (khối trưởng) cho
người theo anh ta để đi xem bãi sắn khác để ngày hôm sau đào tiếp.
Anh Phúc hỏi: Tôi đi với cán bộ? Vệ binh Tư lắc đầu và nói: Anh ở lại trông coi
anh em. Anh cho anh Hoàng, khối phó, theo tôi. Anh Hoàng liền xách cúp đi theo.
Vệ binh Tư bảo: rẫy có nhiều gai, anh đem theo rựa để phát quang tiện hơn. Sau
khoảng 20 phút, nghe tiếng nổ của một loạt AK. Anh em tù nhìn nhau thở dài, ai
nấy đều lo lắng, vì thầm nghĩ chắc anh Hoàng bị tên Tư sát hại. Quả nhiên, vài
phút sau tên Tư cầm súng AK chạy ra và hô lớn: “Các anh ngồi yên tại chỗ, thằng
Hoàng lấy rựa chặt tôi định giật súng, may tôi nhanh tay đỡ kịp, đã bắn nó chết
rồi. Lúc nầy anh em tù nhìn khẩu súng của tên Tư không thấy dấu rựa chặt nơi
báng súng. Nhưng đến khi Bộ Chỉ Huy trại lập biên bản cần có chữ ký của anh
Phúc, đại diện tù, thì khẩu súng trưng bày có dấu rựa chặt vào báng súng.
Liền sau đó, một số anh em tù trong đó có Trung Tá Lê Văn Thành (số quân
60/211.374, khóa 17, Lê Lai, Ðà Lạt) lấy ván tại khu nhà Trại 2 đóng quan tài
chôn anh Ngô Hoàng tại rẫy sắn.
Có điều gây chú ý về con số 4 là con số “kỵ” đối với Trung Tá Võ Vàng và Trung
Tá Ngô Hoàng vì hai vệ binh sát thủ gây cái chết cho hai anh, một có tên là
Trương tự “Bốn” và một có tên là “Tư.”
Sau 2 cái chết oan nghiệt của anh Vàng và Hoàng, anh em tù Kỳ Sơn hết sức hoang
mang lo lắng nhất là các anh cấp tá. Người lo nhiều nhất là anh Tố và anh Kiệt
vì khi anh Nguyễn Văn Tố làm tỉnh trưởng Phú Yên thì anh Hoàng là tham mưu trưởng
Tiểu Khu. Anh Tố muốn báo tin cho chị Hoàng biết là anh Hoàng bị bắn rồi, chôn ở
rẫy sắn, cây cối um tùm rất khó tìm. Khổ nỗi vì chị Tố đã đi thăm anh trong tuần
vừa qua, nên anh phải chờ 3 tháng sau, trong lần thăm nuôi kế tiếp, anh mới nhờ
vợ về báo tin cho chị Hoàng biết.
Nhận được hung tin, chị Hoàng cùng gia đình liền đến trại Kỳ Sơn 2 để tìm hiểu
cái chết của anh Hoàng và xin bốc mộ chồng. Khi khai quật mộ, thi thể anh Hoàng
chưa bị phân hủy nên phải dùng rượu để tuốt thịt ra đốt tại chỗ, còn xương thì
đem về để mai táng. Cái chết đau thương đầy tủi hận nầy đã gieo vào lòng chị
Hoàng một nỗi buồn sâu đậm khiến chị Hoàng phải lâm bịnh nặng trong một thời
gian rất dài.
1992: Khi lập hồ sơ theo chương trình H.O. vì các con đã lớn và có gia đình,
không hội đủ tiêu chuẩn để xuất ngoại nên chị Hoàng đã quyết định cùng ở lại
quê nhà với con cháu.
1994: Từ Hoa Kỳ, anh Tố nhận được thư của chị Ngô Hoàng nhũ danh Nguyễn Thị
Hương Thủy, nguyên là y tá của bệnh viện Tuy Hòa trước năm 1975, cho biết về
tình trạng gia đình đang gặp khó khăn. Anh Tố cùng một số anh em cựu tù Tiên
Lãnh đóng góp được 700 Mỹ kim để gửi giúp chị Hoàng. Chị dùng số tiền nầy để mở
quán cơm chay, rồi chuyển sang bán xì dầu, nhưng tiếc thay công việc mưu sinh của
chị đều bị thất bại và từ đó anh Tố mất liên lạc với chị Hoàng.
Ngoài những chuyện nêu trên, Tổng Trại 2 Kỳ Sơn còn xảy ra những cái chết đau
lòng khác:
– Thiếu Tá Lũy (Trung Tâm Hành Quân Quân Ðoàn I) chết dưới suối do vệ binh sai
bắt cá, không may bị đạp phải lựu đạn ném cá từ trước chưa nổ.
– Thiếu Tá Khóa (phi công phản lực) đói lạnh kiệt sức nằm chết trong lùm cây
bên bờ sông trong ngày mưa to, gió lớn.
– Thiếu Tá Bình (TTHL Hòa Cầm) ăn chay trường, quản giáo bắt ăn mặn, ông tuyệt
thực đến chết.
Riêng tại Trại 2 Kỳ Sơn có nhiều sĩ quan trốn trại, nhiều ngày sau mới bị phát
hiện, một số đã vượt thoát, số người bị bắt lại bị chuyển đến trại An Ðiềm để
lãnh án tử hình. Còn nhiều chiến hữu khác đã qua đời tại các Trại 2, 3, 4 do trốn
trại, đau bịnh, đói lạnh… (người viết không biết rõ chi tiết)
Ðến ngày 28 tháng 9, 1978, số tù còn lại tại Tổng Trại 2 Kỳ Sơn được bộ đội
chuyển giao cho công an quản lý tại hai trại Tiên Lãnh và An Ðiềm.
Trại tù Tiên Lãnh (Hình minh họa)
Tiên Lãnh là một xã thuộc huyện Tiên Phước Quảng Nam, Ðà Nẵng. Thời VNCH là xã
Phước Lãnh, quận Tiên Phước, tỉnh Quảng Tín. Trại tù mang tên Tiên Lãnh nằm cạnh
ngã ba sông Tranh, cạnh trại có đường trải đá. Theo đường tỉnh lộ cách Tam Kỳ
50 cây số. Ngoài trại chính Tiên Lãnh còn các trại trực thuộc như: Trại Thôn
Tư, Thôn Năm, Na Sơn, Ðồng Mộ và Trại Nữ do Công an quản lý. Khác với Trại Kỳ
Sơn do bộ đội quản lý chỉ giam sĩ quan chế độ cũ. Trại Tiên Lãnh ngoài sĩ quan
còn có thành phần hành chánh, đảng phái, văn nghệ sĩ,… VNCH, tù hình sự và tù
phạm Cộng Sản. Các nhà giam xây gạch, cửa sắt, bao bọc bởi nhiều rào kẽm gai
kiên cố. Ðặc biệt cán bộ quản lý trại đều là cán binh, bộ đội từng hoạt động tại
Liên Khu 5 trước tháng 4, 1975.
Trước 1954 tại Tiên Phước có nhà tù khét tiếng Liên Khu 5 mang tên nhà lao Tiên
Hội.
Nhắc đến Tiên Lãnh có biết bao nhiêu điều cần nói. Xin kể hai sự cố đau lòng nhất
như sau:
*Trung Tá Nguyễn Văn Bình và Ðại Úy Trần Văn Quy trốn trại Tiên Lãnh không
thoát khỏi!
– Trung Tá Nguyễn Văn Bình, sinh tháng 10, 1943 tại Thừa Thiên. Số quân
63/210.574, khóa 19 Nguyễn Trãi, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, trung đoàn trưởng
Trung Ðoàn 51, Sư Ðoàn 1 Bộ Binh.
– Ðại Úy Trần văn Quy, sinh tháng 9, 1939 tại Kiến An. Số quân 59/153.270, sĩ
quan Thủ Ðức. Tiểu Ðoàn 39 BÐQ.
28 tháng 9, 1978: Từ trại tù Kỳ Sơn chuyển giao công an quản lý tại trại tù
Tiên Lãnh. Sau khi đến trại chừng 2 tháng, một buổi sáng nhân cơ hội đi vác củi
từ xa về trại. Trung Tá Nguyễn Văn Bình cùng Ðại Úy Trần Văn Quy liền bỏ trốn.
Ðoàn tù về đến trại, điểm danh lại thấy thiếu 2 người tù. Ban Chỉ Huy trại tức
tốc báo động lùng kiếm suốt một tuần không thấy. Trại báo các Buôn Thượng trong
khu vực để theo dõi. Qua tuần lễ thứ 2 không rõ hai anh Bình và Quy qua mưu
sinh thoát hiểm thế nào không may bị địch phát hiện. Anh Bình bị bắn chết còn
anh Quy bị bắt sống. Thi hài anh Bình đưa về chôn bên vệ đường mòn nơi anh em
tù thường đi lao động ngang qua. Anh Quy đưa vào nhà cùm sau một ngày trói ngay
nơi cổng để dằn mặt anh em tù.
Nhân dịp nầy người viết xin ghi lại cử chỉ bất khuất của anh Nguyễn Văn Bình:
Sáng hôm sau ngày nhập trại Tiên Lãnh, anh em tù tập họp trình diện viên đại úy
công an để xác nhận lý lịch. Mỗi tù khi nghe đọc tên phải lấy mũ xuống rồi hô lớn
có mặt. Ðến lượt anh Bình (đứng trước tôi) không lấy mũ, chỉ nói nhỏ có thay vì
“có mặt” như anh em khác. Tên đại úy nhìn thẳng anh Bình giận dữ lớn tiếng:
“Anh có biết lấy mũ xuống không? Anh coi thường tôi. Giờ nầy anh là tù phạm,
không phải tù binh hay trung tá ‘ngụy’ đâu.” Anh Bình hết sức tức giận, trước kẻ
thù anh đành nuốt hận!
Hành động của anh Bình, in đậm tâm trí tôi không bao giờ quên.
*Thiếu Úy Trần Quang Trân với bản án tử hình
Thiếu Úy Trần Quang Trân, sinh 30 tháng 9, 1949 tại Phú Lộc, Thừa Thiên, sĩ
quan an ninh, chi An Ninh Phú Lộc, Thừa Thiên.
Nói đến trại tù Tiên Lãnh phải kể vụ án Trần Quang Trân, một vụ án chấn động Quảng
Nam Ðà Nẵng. Cuối 1975 tại Kỳ Sơn có phái đoàn địa chất của tỉnh Quảng Nam Ðà Nẵng
đã sử dụng máy dò tìm địa chất của Trung Cộng để tìm vàng tại Bông Miêu. Máy bị
hỏng về Ðà Nẵng không tìm ra chuyên viên sửa chữa. Phái đoàn nhờ Tổng Trại 2
tìm cho người sửa. Anh Trân nhận sửa và máy hoạt động tốt trở lại. Từ đó anh
Trân được đưa về Bộ Chỉ Huy Tổng Trại để sửa máy. Cán bộ có radio hỏng đều nhờ
anh Trân sửa. Anh lén nghe đài BBC, VOA,… có tin hay tìm cách phổ biến cho các
bạn tù được tin tưởng biết hầu an tâm.
Ngày 28 tháng 9, 1978, bộ đội bàn giao số tù còn lại tại Kỳ Sơn cho công an trại
Tiên Lãnh. Anh Trân được giao theo danh sách chuyên viên. Qua tin đồn anh Trân
sửa máy giỏi công an trại nhờ sửa Radio. Có máy anh lén nghe các đài ngoại quốc
về sau ráp 1 máy nhỏ để nghe. Những tin quan trọng như: Tôn Ðức Thắng qua đời,
Việt Nam đánh qua Campuchia, Trung Quốc xâm lăng miền Bắc, nhất là Hoa Kỳ và Việt
Nam thương thảo để chuyển tù Việt Nam Cộng Hòa sang định cư tại Hoa Kỳ,…
Ðược tin anh em tù hết sức vui mừng và phổ biến cho nhau. Ðầu 1981 vụ nghe lén
radio bị bại lộ. Ban Chỉ Huy trại cho điều tra, gom bắt gần 100 tù nhân liên
quan trong tổ chức nghe radio đưa vào nhà cùm. Ðến ngày 5 tháng 11, 1981 Tòa án
Nhân dân Quảng Nam Ðà Nẵng mở phiên tòa suốt một ngày tại Tiên Lãnh để xét xử
92 tù nhân với tội: Âm mưu tổ chức lật đổ chính quyền nhà nước Việt Nam.
Bản án tuyên đọc anh Trần Quang Trân tử hình. Một số khác từ chung thân, 20,
18, 13, 12, 10, 5 và nhẹ nhất là 3 năm còn lại 75 người miễn truy tố chỉ bị phạt
giam. Ðặc biệt trong phiên xử anh Trân không gọi ban xử án là quan tòa mà gọi
các ông. Anh nói: “Các ông không xứng đáng và có quyền xử chúng tôi, lịch sử Việt
Nam sẽ xử tội các ông…”
Viên chánh án luôn đập bàn gọi anh Trân phải thưa quan tòa không được gọi các
ông. Sau khi tuyên án tử hình viên chánh án cho anh Trân nói lời cuối cùng. Anh
không mất tinh thần, không sợ hãi và hùng hồn tuyên bố: “Tôi không có gì nói với
các ông, chỉ tiếc là khả năng của tôi không có cơ hội để phục vụ tổ quốc sau
khi chế độ Cộng Sản sụp đổ!!!”
Vào lúc 12 giờ trưa ngày 19 tháng 6, 1982, chúng đưa xe đến tận phòng giam rồi
bịt mắt anh Trân để chuyển ra pháp trường. Khi xe ra đến cổng trại anh cố hô
to: “Ðả đảo Hồ Chí Minh! Ðả đảo Cộng Sản.”
Khoảng hai mươi phút sau nhiều tiếng súng oan nghiệt nổ để tiễn đưa linh hồn của
một anh hùng Việt Nam Cộng Hòa thuộc Trại Tiên Lãnh đã hiên ngang đi vào lòng
dân tộc.
Ngày 10 tháng 5, 1989 mộ phần anh Trân được gia đình cải táng và chôn tại xã Lộc
Ðiền, Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên.
Chị Trân nhũ danh Vũ Thị Rần cùng hai con là Trần Diễm Trang và Trần Diễm Nga
đã lập thủ tục xin định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. Công an Ðà Nẵng từ chối
không cấp giấy khai tử nên hồ sơ chưa được giải quyết. Ngày 30 tháng 1, 2008,
Ban Ðại Diện Hội Tù Tiên Lãnh gửi đơn đến Tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn, nhờ
Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cứu xét và giải quyết nguyện vọng của chị Trân.
***
Những người tù không bản án tại trại Tiên Lãnh không thể nào quên được. Hàng
trăm người đã chết trong tù hoặc mang bệnh về nhà rồi chết. Trong số người chết
trong trại người viết chỉ nhớ các bạn như sau:
-Trung Tá Trần Phước Xáng, khóa 10, Trần Bình Trọng Ðà Lạt, tiểu khu phó Quảng
Nam chết tại khu Nhà Trắng Thôn 5 do bịnh kiết lỵ kéo dài quá lâu.
– Trung Tá Nguyễn Trinh, khóa 4 Cương Quyết Thủ Ðức, tham mưu phó CTCT Bộ Tư Lệnh
Tiền Phương Quân Ðoàn I, chết vì bệnh nặng tại Tiên Lãnh.
– Trung Tá Huỳnh Như Xuân, khóa 19 Nguyễn Trãi Ðà Lạt, trung đoàn phó Trung
Ðoàn 3 Sư Ðoàn 1 BB chết tại Ðồng Mộ do bịnh gan.
– Ông Ðinh Văn Biền, bí thư Quốc Dân Ðảng Quảng Nam chết tại Ðồng Mộ do bịnh
suyễn kinh niên.
– Thiếu Tá Hồ Minh, phó ủy viên chính phủ Tòa Án Quân Sự Thường Trực Quân Khu 1
nhịn đói đến chết tại Nhà Trắng Thôn 5.
– Thiếu Tá Ðoàn Văn Luyến, Tiểu Khu Quảng Nam, vì đói quá nên ăn nhiều lá sắn
và môn, bị phù thũng và qua đời tại Tiên Lãnh.
-Thiếu Tá Trương Ðình Phước, xuất thân Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, thanh
tra Quân Tiếp Vụ Quân Khu 1. Chết vì bệnh nặng.
Thành phần sĩ quan và tù chính trị tại Tiên Lãnh, do bị tù quá lâu nên anh em
biết nhau nhiều. Ra hải ngoại rất đông anh em tiếp tục sinh hoạt chính trị,
tiêu biểu trong số có người bạn tù chúng tôi hằng quý mến ngay từ trong trại
như Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh:
Y Sĩ Thiếu Tá Phùng Văn Hạnh cứu sống nhiều tù nhân Tiên Lãnh (Hình minh họa)
Y Sĩ Thiếu Tá Phùng Văn Hạnh, số quân 51/120.936, sinh tháng 10, 1931 tại Quảng
Nam, được trưng dụng vào quân đội. Nhiệm vụ sau cùng là bác sĩ chỉnh hình tại
Trung Tâm Y Tế toàn khoa Ðà Nẵng đồng thời Ông cũng là giám đốc dưỡng đường Ðộc
Lập tại Ðà Nẵng (dưỡng đường tư của bác sĩ).
Anh em trại tù Tiên Lãnh không quên được một bạn tù đăc biệt như Bác Sĩ Phùng
Văn Hạnh. Tinh thần chống Cộng rất cao, khi vào tù trại bắt lao động rồi đưa
vào trạm t tế chữa bệnh cho anh em tù. Qua lần lao động sau cùng ông đạp nhằm
đinh sét bị phong đòn gánh rất nặng phải đưa về bệnh viện Tam Kỳ chạy chữa. Nhờ
một số bác sĩ tại đây là học trò cũ của ông đã tận tình chữa khỏi bịnh. Khi trở
về Tiên Lãnh ông được tiếp tục giao phó việc chữa bệnh cho các anh em tù. Bác
Sĩ Hạnh đã cứu sống biết bao đồng đội bịnh nặng sắp đi vào cõi chết.
Ông được phóng thích sau 12 năm tù, ông vượt biển vào năm 1989, sau đó được sum
họp cùng phu nhân là bà Nguyễn Thị Bạch Nhạn và 7 người con gồm 4 trai, 3 gái tại
Montréal, Canada. Hiện ông đang vui hưởng tuổi già cùng 8 cháu nội ngoại. Ðiều
đáng ghi nhận là tất cả các con của ông đều thành đạt mỹ mãn.
Ông ghi lại những nỗi vui buồn của cuộc đời mình qua 2 tác phẩm:
– Tình Yêu Hiện Sinh, xuất bản năm 2000.
– Một Kiếp Người, xuất bản năm 2004.
Thay lời kết:
Qua tâm ý của người viết cố hồi tưởng lại những gì mắt thấy, tai nghe trong thời
gian bị tù Cộng Sản tại Kỳ Sơn và Tiên Lãnh cùng nghe qua lời kể của các bạn
tù. Tham khảo ít tài liệu Quân Ðội trước 1975.
Xin cám ơn tất cả mọi người trong cuộc cùng thân nhân và anh em cựu tù Kỳ Sơn,
Tiên Lãnh đã cung cấp hình ảnh, tin tức và khuyến khích tôi viết lại các câu
chuyện đầy thương tâm để hoàn thành loạt bài này.
Nhân tiện người viết xin có mấy lời cùng các bạn trẻ thân mến:
Sau biến cố năm 1975, các bạn được cha ông tạo cơ hội vượt thoát khỏi chế độ bạo
tàn Cộng Sản và may mắn có nhiều cơ hội để học hỏi và tiến thân mưu cầu một
tương lại ổn định và tươi sáng. Sự thuận lợi các bạn đang có đã đánh đổi bao sự
hy sinh của cha ông đã lâm vào cảnh lao lý. Các chuyện kể trên tiêu biểu cho
hàng ngàn vụ đau thương xảy ra trong các trại tù trên toàn quốc.
Hiểu được lý do chính đáng về sự hiện diện của các bạn tại quê người, các bạn
nên luôn ghi ơn các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã đóng góp phần xương máu để
xây dựng và bảo vệ miền Nam. Trước 1975 cuộc sống của đồng bào Miền Nam được tự
do, hạnh phúc hơn hẳn một số quốc gia trong vùng Ðông Nam Á, thủ đô Sài Gòn được
mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Ðông. Các bạn hãy hãnh diện về thành quả trước đây,
nỗ lực hơn nữa để phục hưng nước Việt trong tương lai được phú cường và không Cộng
Sản hầu thực hiện nguyện vọng của toàn dân hiện đang mong ước từng ngày.
Hiện nay, tình hình chính trị trong nước đã chín mùi, ngày toàn dân mong ước
không còn xa.
Hồ Ðắc Huân