Cho đến nay, cuộc hành trình về quê hương của dân Do Thái có lẽ là chuyến hành
trình dài nhất trong lịch sử của loài người. Gọi là dài nhất bởi vì, một đứa bé
vừa chào đời, được mẹ quấn trong tấm khăn lúc rời Ai Cập, đến khi vào được miền
đất hứa ở Canaan thì đã tròn 40 tuổi. Nhìn lại mà phát khiếp. Lúc đi ai cũng
tưởng chỉ năm ba bữa nửa tháng là cùng, không ngờ những 40 năm! Nếu biết trước
chuyến đi dài thế, chắc là có nhiều người chẳng muốn đi nhỉ?
1. Với người Do Thái.
Chẳng nói ra thì ai cũng biết đó là cuộc hành trình có qúa nhiều tang thương,
nước mắt. Ra đi là tay trắng, mất nhà, mất của, mất nghiệp. Trên đường đi thì
mất người thân, cha mẹ anh em. Đã thế, đời sống vật chất thì trăm bề thiếu thốn.
Ấy là chưa kể đến những cuộc chiến vật lộn với cơm ăn, áo mặc hay với nhiều sắc
dân trên đường đi. Mà mỗi cuộc chiến là hao xương, tốn máu. Trong cảnh khốn khổ
ấy, có bao nhiêu tóan người đã quay về xin làm nô lệ cho người Ai Cập? Có những
tên tuổi nào luôn theo phá rối để làm nản lòng dân? Hoặc gỉa, có bao nhiêu kẻ
làm ăng ten cho Ai cập? Sách không viết lại, nhưng chắc chắn không thể là con số
không? Đau thương nhi? Chuyện của một ngày về, tiếng là về quê hương, nhưng
thực ra là lao thân vào cuộc lưu đày trên sa mạc để trốn chạy kẻ bạo tàn.
2. Phần dân ta thế nào?
Chuyện kể rằng, vào hậu bán thế kỷ 20, nói toạc ra rằng, vào năm 1975, sau
ngày gọi là tàn chinh chiến, lớp sóng đỏ như bầy qủy dữ, từ diêm phủ tràn xuống
phương nam. Từ đầu đường, xó chợ cho đến các dinh thự. Từ thôn quê cho đến thị
thành, hay ở bất cứ nơi đâu có ngọn cờ đỏ phe phẩy bên tấm hình có nắm lông mồm
là ở nơi ấy truyền đi bài ca chiến thắng trên những xác người.
Mặt tinh thần còn tang thương hơn. Chúng xô đổ mọi lề luật và phẩm gía con
người. Những Tự Do, Công Bằng, Nhân Phẩm, Nhân Quyền, Hạnh Phúc của con người.
Những gía trị luân lý đạo đức của xã hội. Những gía trị Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín là
trật tự của nền Văn Hóa dân tộc, đều bị lớp sóng đỏ vùi dập xuống tận chốn bùn
đen. Những niềm tin lành thánh, những bao dung, nhân ái, đạo hạnh của tôn giáo
thì bị chúng bôi nhọ, phỉ báng. Chỉ còn trơ lại trên mặt hồ dơ dáy những con
lăng quăng nhảy múa tìm sống. Làm cho cả nước rơi vào vòng nô lệ cho kẻ thù
truyền kiếp của dân tộc trong tiếng reo hò, hoan lạc của bầy đoàn cờ đỏ không
nhân tính:
“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ…
thờ mao chủ tịch, thờ sit ta lin bất diệt” (Tố Hữu)
Phận người dân nam, trong bối cảnh ấy, dĩ nhiên, là gặp đen đủi. Sự nghiệp
Quốc Gia thời tan nát, của từng gia đình là trắng tay. Của thanh thiếu niên là
học hành dang dở. Rồi vợ chồng, cha mẹ, anh em, con cháu, dâu rể, ngưòi thân cho
đến bạn bè là hát câu ly biệt. Kẻ vào tù, người ngồi khám, bước vào đáy đường
tuyệt vọng. Miếng ăn là bo bo, khoai mì, nói chi đến chuyện độc lập, hạnh phúc.
Toàn cảnh người dân Nam đều mang thân phận cá nằm trên thớt hay vướng lưới, mắc
câu. Tất cả chỉ còn lại những đôi mắt trắng. Bộ vây, cái đuôi thì thỉnh thoảng
đập phạch… phạch trên cái thớt hay vũng nước đỏ!
Chẳng mấy hôm sau, khi nền luân lý của xã hội và tôn giáo bị xô đổ, cộng sản
bắt dân đi dưới hàng biểu ngữ, “sống theo gương Hồ đục nước”, xã hội của nước
Văn Lang xưa đẹp thế, nay tràn ngập những tội đại ác. Vợ giết chồng. Con đấu tố
giết cha mẹ, người tình giết người tình. Làng xóm thân thuộc chém lẫn nhau. Ra
đường, vào lớp, tặng cho nhau mũi dao chỉ vì một cái nhìn. Những con cháu của bà
Trưng, bà Triệu thì được nhà nước cấp giấy đưa đi phục vụ tình dục trên khắp năm
châu. Đã thế, còn bị lột trần truồng ra để chào mời khách làng chơi quốc tế bằng
một khẩu hiệu do cháu Triết, một trong những cháu ngoan và là đầy tớ lớn của
nhân dân đề ra: “vào đi các ông ở Việt Nam có nhiều gái!”.
Có đủ tủi nhục chưa? Chắc là đã qúa thừa rồi, nên có hàng triệu triệu người,
xem ra đã chán sống trên mảng đất cuả quê hương bị cắm cờ đỏ, nên liều ngửa mặt
lên mà kêu giời. Giời phần ở xa quá, lại tưởng rằng cái giống dân này nó kêu
mình cứu nó, nên không nghe thấy. Nào ngờ, họ gào cho trời xập xuống để chết
chung với lũ giặc cho bớt nhục! Nghe đến tội nghiệp.
Cũng trong cảnh bị thất điên, bát đảo vì lũ giặc Hồ, người dân Việt kêu
Trời, Trời không nghe, đành liều mạng phóng mình vào dòng biển xanh. Khi mở mắt
ra, họ bắt gặp câu chuyện tưởng rằng trong chốn thiên cung:
- Thế nào, anh chị, ông bà, thấy khoẻ chưa?
- Hả, cái gì?
- Nhà anh chị, ông bà, ở đâu, sao lại đến đây một mình hay đi với ai
đây?
- Khổ lắm các ông ơi. Chồng tôi chúng bắt, cha tôi chúng giết. Nhà
tôi chúng cướp… May mà tôi còn giữ lại được cái quần rách này, nên vội ôm lấy
đứa con mà bơi ra biển lớn đấy!
- Oh God, brave hearts! Còn ông thế nào nhỉ?
- Tôi đã dẫn cả vợ con, bỏ chạy và trốn chúng từ 20 mươi năm trước
rồi. Quê xưa thì không về được. Một hôm ngủ dậy lại thấy nó để đôi dép râu ở
trước cửa là thần hồn nát thần tính. Chẳng kịp gọi vợ, chờ con, kêu cháu, liều
mạng mà xuống tàu ông ạ.
- Ơ, em nhỏ, sao thế này hả em? Cha mẹ em đâu, đừng khóc nữa em?
- Cháu chả biết, khéo mà chết dọc đường rồi!
- Còn anh, có phải là người lính không?
- Phải… phải…. Sỹ khả tử, bất khả nhục!
- Ôi dũng cảm, cực kỳ dũng cảm!
Sau khi nghe toàn bộ câu chuyện buồn của người anh hùng, những người ở bên
kia bờ đại dương theo nhau tặng cho những thuyền nhân tấm khăn sạch. Dặn là lau
cho khô đi những dòng lệ và đau khổ. Dặn là hãy vui lên, hãy nhìn đến tương lai
mà sống. Dặn là hãy giữ lòng sắt son, “đừng nghe những gì Việt cộng nói, mà hãy
nhìn kỹ những gì chúng làm” nhá. Dặn rằng, hãy nuôi nấng lấy ý chí cho một ngày
về. Nghe thế là dân tôi nhẩy cẫng lên mà mừng rỡ. Mừng vì ta còn sống với chí
nhớn thì xá gì cái hồ nước đục kia. Có ngày ta rửa cho sạch sẽ!
Trong khi đó, sách sử của dân Do Thái ghi là trên đường về quê thì gặp toàn
những tai ương. Hết sắc dân này đuổi đánh đến sắc dân khác ra ngáng đường đòi
tiền mãi lộ. Vậy mà họ đi qua được. Phần dân nam ta lại khác. Sau khi vượt biển
nhớn thì như là đã vào “nước thiên đàng” vậy. Mà là thiên đàng thật! Lúc đầu là
cơm bưng nước rót, rồi sau đó từng nhà, từng người được bảo lãnh đi khắp cả mọi
nơi để lập nghiệp. Kế đến, trẻ thơ vào trường học tiếng nước người, học làm
người nhân bản. Thanh niên, thiếu nữ khỏe mạnh, có sức, có khả năng thì đi làm,
học nghề, học nghiệp. Ông bà gìa lớn tuổi, không thể lao động thì người ta cấp
nhà, cấp tiền cho cuộc sinh sống. Mưa không đến mặt, nắng không đến đầu. Không
giàu có như đại gia, nhưng tiền bạc lúc nào cũng ấm túi. Được trợ giúp thế, có
lẽ nào không có ngày về trong vinh quang!
Mấy hôm sau, khi tiền bạc đã bắt đầu rủng rỉnh, “tối sam banh, sáng sữa bò”,
cuộc sống hết khô khan, người Việt vẫn buồn. Mãi đến khi nhận được tin báo: Thưa
ông, thưa bà, thưa em… những người thân như vợ, chồng, con, cha mẹ, anh em của
qúy ngài bỏ lại sau lưng khi lao vào dòng biển xanh, đã được chính phủ lo liệu,
hoàn tất thủ tục rời Việt Nam. Họ sẽ đến đoàn tụ vơi qúy vị vào ngày tháng…..
xin chúc mừng! Thế là ta reo vui. Ôi sung sưóng, đại sung sướng! Sung sướng quên
cả cám ơn!
Tôi không biết những ngưòi rời Ai Cập xưa kia có ai gởi tiền, gởi qùa về cho
những người không kịp ra đi không nhỉ? Những người ra đi trong khốn khổ kia có
lo sợ người thân còn ở lại sẽ bị hành hạ và bị chết đói hay không? Sách không
ghi khoản này, nhưng tôi đoán mò là làm gì có đô la Mỹ, Úc, Canada hay Euro… mà
gởi về cơ chứ! Chuyện người dân Nam xa xứ thì hoàn toàn khác. Khác đến độ đau
thương. Có anh cựu quân nhân than rằng: chẳng có cái khổ nào hơn cái khổ hôm
nay. Suốt tuần lo đi cày, cuối tuần thì lo đi kiếm chỗ gởi tiền về cho vợ nuôi
con! Người khác chêm vào, chuyện ấy làm gì có đau thương như chuyện sáng đi biểu
tình chống Việt cộng, chiều về lại đi gởi tiền về Việt Nam. Gởi mười đồng tiền
thật, chúng nuốt trọn mười rồi in ra mớ giấy lộn để trả cho ngưòi nhà của mình.
Vậy mà vẫn phải gởi! Sau lời anh nói là những tiếng nghiến răng nghe ken két. Lũ
cộng thật khó mà có chỗ dung thân! Chờ xem!
3. Đi trong nước mắt, có về trong hân hoan?
Vượt lên trên tất cả mọi lao nhọc khốn cùng của 40 năm, người Do Thái đã có
được cái đích họ nhắm đến. Về lại quê hương. Ở đó, họ đã có được một hơi thở êm
đềm nhất, tuyệt vời nhất và được sống và chết với mảnh đất được gọi là quê hương
của mình! Họ có Moises, David, Salomon, uy danh thiên hạ. Về điểm này, xem ra họ
may mắn hơn nhiều sắc dân bị lưu đày khác. Cách riêng, hơn hẳn dân ta!
Bởi lẽ, cái mốc 40 năm của người Do Thái xưa, dân Nam ta đã gần bắt kịp rồi.
Nhưng ngày về quê hương nghe sao diệu vợi…. Bao giờ mới đến đây? Trước kia, ông
gìa năm tư bỏ bắc, trốn cộng sản chạy vào nam, tưởng mươi hôm, vài ba năm rồi
trở về làng xưa. Kết qủa, trăm người đi thì có đến 97 người chết tại miền nam.
Trong đó, có một số may mắn, trút hơi thở trong ngày còn Tự Do. Một số khác tràn
nước mắt, uất hận vì khi lìa đời lại phải nhìn thấy cái đôi dép râu, cái mũ cối
phủ kín cuộc đời của chúng úp chụp ngay trước cửa nhà.
Vài ba người khác nhanh chân, phóng mình qua biển nhớn. Chuyến đi vô định,
vẫn mơ có ngày về. Kết qủa, nhiều phần là gởi nắm xương tàn nơi xứ lạ, hoặc nằm
trong “bình Tiểu”. Như thế, có đi mà không có về? Buồn không? Buồn mà người ta
vẫn muốn đi qua biển lớn mới là chuyện bất thường. Bất thường hơn nữa là, người
phải trốn chạy kẻ bạo tàn, lại trở thành người lao nhọc, vất vả nơi xứ lạ để
nuôi sống kẻ bạo tàn trên quê hương mình để cho chúng thêm tàn bạo! Xem ra người
mình có lòng đại lượng, bao dung biết mấy!
Chuyện kể rằng, sau khi mua xe, tậu nhà, vợ chồng, con cái anh em đã đoàn tụ,
cuộc sống, dù phải trải qua bằng mồ hôi, nước mắt trong hãng xưởng hay do đuợc
cấp dưỡng, dân Nam ta nào có chịu ngồi yên. Phải lo cho ngày “áo gấm về làng”
chứ! Chờ mãi, sốt ruột, có người lên hỏi trời. “Trời cưòi thằng bé nó ham chơi”!
Giận Trời, họ đến hỏi “tội” người bảo lãnh năm nao. Người bị hỏi ngơ ngác:
- Té ra các anh các chị, qúy ông bà chưa ai về Nam à?
- Về à? … về cả rồi, nhưng nào thấy vinh hoa, chỉ thấy màu cờ máu.
Chỉ thấy những tủi nhục của toàn dân và uất hận thôi!
- Lạ nhỉ? Cả ông lính, ông bắc kỳ, em bé mồ côi năm nào đều về rồi
hay sao?
- Tất tần tật. Mười ngưòi đi thì đã 8, 9 người về!
- Không có vinh quang thật à?
- Làm gì có!
- Nếu vậy thì qúy ông bà chẳng nên trách trời, cũng không thể trách
chúng tôi không giúp.
- Sao lại không trách?
- Quý ông bà thấy đấy. Thời đệ nhất cộng hòa, TT Diệm thiếu 150.000.
đôla mà mất sự nghiệp. Và chỉ có 3 triệu bạc VN họ lấy mạng của ông ta. Thời Đệ
nhị Cộng Hòa, Việt Nam chỉ thiếu có 5, 7 trăm ngàn đô la tiền viện trợ, chính
quyền sụp đổ, các ông thành dân mất nước. Nay ông bà xem, hàng năm các ông, qúy
bà chuyển về, hoặc gánh về Việt Nam hàng tỷ, tỷ đôla. Đã thế, trên các chuyến
bay từ Úc, Mỹ, Âu Châu, Canada về Việt Nam thì chật ních người Việt và đầy những
hàng hóa ngoại. Các ông đem quần bò, váy ngắn, hàng hiệu về có khác chi “áo gấm
về làng”. Tuy không biển lọng vua ban, nhưng xe hơi, tầu bay đưa đón, xem ra
việc “vinh quy bái tổ” xưa không bằng! Nói ra thì bảo là lắm nhời. Chính dân tôi
đây nom thấy cũng phải ghen tức, vì chẳng có mấy người có đủ tiền bạc để mà
holiday thay đi chợ như thế…
- …. Ơ hay….
- Nếu các ông, các bà không viện trợ cho bọn gian ác ấy hàng tỷ tỷ
đôla hàng năm thì chúng đã chết nhăn răng ra từ cuối thế kỷ trước rồi, cần chi
phải đến hôm nay!
- Ông nhầm rồi, chúng sống là do cướp của và giết người dân tôi
đấy.
- Thì cứ tin là do chúng cướp của giết người, tham nhũng mà có. Vậy
hàng tỷ tỷ đôla của các ông bà gởi về nó ở đâu trong lúc người nhà ông vẫn khổ,
dân Nam vẫn khốn cùng? Xem ra, các ông thương…. cộng hơn thương dân mình. Trời
cũng cũng chẳng cứu được, nói chi đến con người!
- … không còn cách nào khác à?
- Có. Có một cách đây. Nếu trên những chuyến bay từ Mỹ, Âu châu, Úc
Châu vào Việt Nam, trên đó không có bất cứ người Việt Nam nào “về” Việt Nam. Và
cũng chẳng có một đồng bạc nào gởi qua các lỗ đen, hay gởi qua ngân hàng chuyền
về Việt Nam thì tôi dám cá cược cái… Tòa Nhà Trắng với ông rằng, chẳng cần tới 5
năm, chúng sẽ dẫy đành đạch trên thớt. Khi ấy ông tha hồ mà lóc vẩy chúng
ra!
- Ngoài ra…
- Thì ông bằng lòng vậy! Cứ cúi mặt xuống mà đi!
© Bảo Giang