Từ
cuộc đời của một Chú Tiểu đến tuổi bút nghiên, sang đời binh nghiệp, đánh giặc,
anh hùng mạt lộ bị bắt làm tù binh, rồi vượt ngục, vượt biên lưu vong làm bố xắp
nhỏ... và sau cùng trở thành nhà Sư Phật Giáo. Nhất định Thầy Huệ Quang có rất
nhiều kinh nghiệm cuộc sống. Thầy sẽ hoan hỷ chia sẻ với mọi anh chị em cựu quân nhân
chúng ta nói riêng và những ai thích thú nghe về những chia sẻ của Thầy..., những
kinh nghiệm mà Thầy đã từng trải và sự hiểu biết về Đạo Phật của Thầy trên
trang web Quân Nhân Phật giáo này.
Lời Tác Giả:
Tôi
rất vui mừng khi được một người bạn mời đóng góp cho trang tôn giáo, tiết mục Phật
giáo, trên website của Gia đình Mũ đỏ vùng Thủ đô Hoa Thịnh đốn & Phụ cận,
Trước
khi bắt đầu cho những bài viết sắp tới, tôi xin được nói về bản thân mình, điều
mà rất hiếm khi tôi thường nói đến. Vì tôi nghĩ, nói về Nhảy dù mà bản thân chẳng
có một ngày nào sống trong binh chủng này, hay nói về Tae Kwon Do mà không biết
tí gì về võ thuật, hay nói về kỹ thuật nhảy toán mà chưa một ngày mang huy hiệu
thám sát của Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, thì khi nói đến ai mà tin. Vì vậy tôi phải
nói một ít về bản thân, tạo niềm tin cho đọc giả với những bài viết về Phật
giáo sau này.
Tôi
sanh ra tại Phan Thiết. Năm 8 tuổi mẹ cho vào chùa tu học, “để tránh cho con khỏi
đi lính sau này,” bà nói với tôi như thế. Cha tôi là một cán bộ tập kết lúc tôi
vừa tròn một tuổi, theo chân Hồ Chí Minh với một ước vọng điên rồ là đẩy đất nước
vào thiên đường xã hội chủ nghĩa.
Trong
đời tu hành, tôi may mắn gặp được một vi minh sư, thầy Thích Châu Đức, giảng sư
tỉnh hội phật học Phan Thiết. Thầy tôi thuộc dòng Thiên Minh, Huế, đệ tử của Hòa
thượng Thích Quảng Huệ, nên đặt pháp danh cho tôi là Quảng Hạnh. Tôi gọi Hòa
thượng Thích Mãn Giác, hội chủ Tổng hội Phật giáo VN tại Hoa Kỳ, là sư bác. Ôn
mất năm 2009. Thầy tôi có một lời nguyền là không bao giờ nhận đệ tử, nhưng vì
mẹ tôi có công với đạo pháp -- bà giúp việc phật sự cho chùa nhiều năm và chính
thức vào sống hẳn trong chùa từ năm 1968 -- thầy đã nhận tôi làm người đệ tử
duy nhất. Tôi được đưa về làm điệu tại chùa Thiên Minh, ngoài Huế, nên tôi đọc kinh
rất ư là Huế và rành rõi việc kinh kệ và tán tụng.
Năm
1966 thầy gửi tôi vào tu học tại Phật học viện Hải Đức Nha Trang, tại đây tôi được
cạo cái chỏm tóc và đã thọ sa di giới trong một đại giới đàn do Hòa thượng Thích
Tịnh Khiết chứng minh.
Năm
1968 tôi rời viện vào Sài Gòn tiếp tục việc học.
Năm
1970 tôi chính thức bỏ áo tu và
Năm
1971 gia nhập khóa 4/71 Thủ Đức/Sĩ Quan Trừ Bị-QLVNCH.
Ngày
29 tháng 7 năm 1972 tôi mãn khóa, mang cấp bậc chuẩn úy và phục vụ tại Liên Đoàn
81 Biệt Cách Nhảy Dù.
Tháng
1 năm 1975, tôi thuyên chuyển về Sư Đoàn Nhảy Dù, phục vụ tại Tiểu Đoàn 5, Lữ Đoàn
3 Nhảy Dù cho đến ngày đơn vị tan hàng tại mặt trận Khánh Dương. Tôi chạy vào
được gần Phan Rang thì bị bắt và nhốt tại trại cải tạo Cà Tót.
Năm
1978 tôi cùng một số lớn tù cải tạo được tạm thả và được đưa về Phan thiết điều
trị bệnh, vì quá nhiều tù nhân đã chết vì một chứng bệnh kỳ quái không tên khi ở
trong khu rừng thiêng nước độc Cà tót. Khi được lệnh triệu tập của VC để trở lại
học tập cải tạo, tôi đã cướp ghe và cùng một số cựu quân nhân vượt biển, đến được
bờ tự do sau bốn ngày lênh đên trên biển Thái Bình Dương.
Tháng
12 năm 1978 tôi định cư tại Canada.
Năm
1979 tôi lấy vợ và có hai con, một trai một gái.
Tôi
trở lại sinh hoạt với chùa chiền năm 1980 vì dân tỵ nạn tại Ottawa cùng góp công
góp của xây chùa, nhưng không ai biết kinh kệ một cách chuyên nghiệp như tôi.
Tôi làm trong nghành computer sau khi học xong college. Tôi dốt về kỹ thuật lắm
nhưng phải chịu đấm ăn xôi để đem pay cheques về cho vợ nuôi các con. Biết mình
sẽ không sống sót lâu trong lãnh vực điện toán, tôi túc ta túc tắc lấy courses
ban đêm, năm 2002 tôi hoàn tất được cử nhân tâm lý. Vợ con lúc này cũng khá ổn
định về nghề nghiệp và học vấn, tôi xin phép vợ đi tu. May thay, mặc dù là một
người công giáo gốc, bà hỗ trợ cho việc trở lại con đường tu tập của tôi. Tôi
phục vụ cộng đồng một thời gian và nhờ tìm tòi nghiên cứu, tôi thấy mình thích
hợp với truyền thống nguyên thủy hơn là đại thừa. Tôi khăn gói đi Miến Điện
(Myanmar tức nước Burma cũ) thọ tỳ kheo giới bên đó, lưu lại tu học cho đến khi
thầy cho phép trở lại quê nhà Canada để trao truyền lại pháp môn thiền định Vipassana
theo truyền thống Miến Điện.
Năm
2014, tôi học xong cao học nghành Tôn giáo và Chính trị.
Năm
2016 tôi nhận được học bổng để theo học PhD Khoa Chính trị tại đại học
Carleton.
Hiện
nay, tôi vừa học vừa dạy về chính trị cho sinh viên năm thứ nhất và năm thứ nhì
cũng tại đại học Carleton, Ottawa, Canada (http://carleton.ca/polisci/people/tan-ngo).
Ngoài
ra, tôi cũng đang dạy thiền và phật pháp cho phật tử tại chùa Tích Lan. Riêng ngôi
chùa Từ Ân là nơi tôi đang sinh hoạt thường xuyên, ngoài việc lo cho phật tử việc
kinh kệ và thiền định, tôi còn phụ trách việc giảng dạy cho sinh viên và học
sinh trung học thường xuyên đến chùa để tham khảo và nghiên cứu về đạo Phật.
Theo
Triết học về Tôn giáo (Philosophy of Religion, William L. Rowe, second edition,
Wadsworth Publishing, 1993), từ khi có con người, vì cảm thấy mình quá nhỏ bé, và
khiếp sợ thiên nhiên, nên ở đâu cứ thấy núi thì thờ thần núi, sông thì thờ thần
sông, hễ thấy cái gì ngoài tầm hiểu biết thì cứ thế mà thờ lạy. Tôn giáo vì thế,
không thể tồn tại ngoài con người vì từ con người mà ra. This exists because
that exists.
Trong
Phật giáo có câu “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác,” có nghĩa là ta
phải tìm Phật pháp ngay trong cuộc sống của chúng ta, nếu bỏ thế gian này để đi
tìm sự giác ngộ thì chẳng thể nào tìm ra được. Nói đến đạo Phật chúng ta cần phải
nghĩ đến cái gọi là Buddhism Engagement, có nghĩa là đạo Phật đi vào cuộc đời. Đạo
Phật không thể tồn tại được nếu chúng ta cứ theo một khuôn mòn lối cũ; đó là ê
a tụng niệm kinh kệ bằng tiếng Hán. Đạo Phật cũng không thể phát huy bên Tây
phương được nếu cứ nhìn đạo Phật qua một lăng kính mê tín dị đoan.
Đạo
Phật rất đơn giản. Sự giác ngộ nằm trong tầm tay của người thực hành, và ngay trong
cuộc sống hàng ngày. An lạc và hạnh phúc có mặt chung quanh chúng ta; hàng
ngày, hàng giờ chúng ta nhìn nhưng không thấy được chúng.
Một
phật tử hỏi tôi “tại sao con cứ khổ hoài trong khi con đi chùa thường xuyên và bố
thí nhiều lắm, có phải điều Phật dạy khó thực hành lắm phải không thầy?”
Tôi
trả lời, chúng ta không làm được điều Phật dạy vì điều ngài dạy đơn giản quá. Chúng
ta có khuynh hướng đi tìm những điều linh thiêng hay phép mầu từ chư Phật để cầu
xin.
Phật
thua xa David Copperfield, một nhà ảo thuật lớn mà thế giới ai cũng biết tên, vì
ngài không làm được những điều của Copperfield. Ngài không thể ngồi một chỗ búng
hay khảy móng tay, móng chân và làm cho chấn động cả tam thiên đại thiên thế giới
như chúng ta thường nghe mấy thầy giảng dạy, cho dù có nhiều vị cũng cố giảng
nghĩa qua một lăng kính khác, để phật tử nghe dễ chấp nhận hơn.
Ngài
chỉ thở, nhưng thở từ ngày này qua ngày khác, tháng nọ sang tháng kia, với một sự
tỉnh thức
trong từng giây phút. Phật đã dạy một con đường đơn giản, nhưng
chúng ta không chịu đi, chỉ vì chúng ta còn nhiều ham muốn trong cuộc đời. Nếu
có người chịu đi thì họ lại thiếu kiên nhẫn hay thiếu nỗ lực bỏ dở nửa chừng.
Tôi
thường nhắc nhở phật tử “đạo Phật là đạo để nếm chứ không phải đạo để nói.”
Có
nhiều người nói rất văn hoa, trôi chảy vì đạo Phật cho họ những điều kiện tốt để
họ nói, nào là kinh, luận này luận nọ, nào là duy thức tông, nào là hoa nghiêm tông,
nào là thiền tông. Nhưng khi nói động đến họ thì họ nổi cơn tự ái như một kẻ
điên. Mớ lý thuyết của đạo Phật mà họ đọc được tự dưng biến mất, lúc ấy chẳng có
gì ngoại trừ một cái ngã to tướng...
Tôi
nói với những người Phật tử Tích Lan, “có một cái thước để đo sự tu tập của quý
vị. Nếu ai nói động đến quý vị mà quý vị nổi điên lên hay chỉ một chút bực mình
nhỏ, quý vị nên nhận biết là quý vị đã tu sai rồi và phải bắt đầu trở lại từ con
số không.
Nếu
nhận biết mình không hờn giận khi người khác nói động đến mình, đừng tự mãn, phải
tiếp tục con đường tu tập vì đường tu tập giống như đi ngược dòng nước, nhiều chông
gai và nặng nề lắm.” Nếu các bạn muốn đi tìm một vị thầy để nương tựa tu tập,
không cần phải đi tìm một cao tăng, nhưng hãy tìm một thanh tịnh tăng.
Thích Huệ Quang
(Nguồn: Trang Văn
Chương Miền Nam)
No comments:
Post a Comment