Trên đuờng đi VC đóng đồn dọc theo
đường , thỉnh thoảng đón xe quá giang , nhưng tôi ngồi phía trước chung
với tài xế và Lơ Xe , nên rất là yên tâm . Trên xe Bác Tài có khoe một
khẩu súng AK47 đuợc phát cho mỗi xe , nhưng chưa chắc là Bác Tài đã biết
sử dụng . Tôi nhớ bữa đó trời mua tầm tả và xe bị hư máy phải dừng lại
để sửa chữa , nhưng Bác Tài rất rành nghề chỉ sửa một chút là xong
ngay , nhưng phải câu một bình xăng phụ ở bên ngoài . Đến chiều thì xe
đến hải cảng Kampong Som , xe dừng trước cổng trên con đường lộ đá dẫn
vào hải cảng . Khi xe vừa đến nơi thì tài xế và Lơ Xe đi vô cổng một
cách tự nhiên mà không bị hỏi giấy tờ gì hết , nên tôi , Long và Nghĩa
cũng đi theo vô trong hải cảng một cách dễ dàng .
Hải cảng này ở xa khu dân cư , có mấy lớp
hàng rào kẻm gai bao bọc chung quanh , và một trạm kiểm soát tại cổng
chính ra vào , với một số Công An Biên Phòng VC canh gác . Đóng trên một
ngọn đồi gần đó là một đồn Công An Biên Phòng . Bên trong hải cảng là
một bến đá , xây bằng đá tảng , để tàu cặp bến . Tôi cố nhìn thật kỹ
quanh bến tàu để tìm xem có chiếc tàu nào của nuớc tự do , nhưng tôi chỉ
thấy toàn cờ đỏ búa lìềm , toàn cờ Cộng Sản , thật là thất vọng vô
cùng . Gần bến tàu là hai nhà kho rất lớn bằng sắt cất theo kiểu tiền
chế của Mỹ . Có một đuờng rầy xe lửa , và ở phía trong xó góc có vài toa
xe lửa bỏ không , không thấy nguời lai vãng , gần đó có một phong tên
nuớc . Ở phía ngoài cổng bên cạnh con đuờng lộ đá là một cái ao khá
lớn , mà thỉnh thoảng thấy có Công An đến câu cá . Chiều tối đó tôi trở
ra xe để ngủ qua đêm .
Sáng sớm hôm sau xe vô đậu truớc nhà kho
lớn để chất hàng lên . Họ chất lên những bao bắp hột do nhân đạo quốc tế
viện trợ để cứu đói cho dân Kampuchia , nay thực phẩm đó đuợc dùng để
nuôi ăn cho bộ đội VC . Tôi chỉ còn bửa nay để đi lại thong thả trong
hải cảng này , đến sáng mai khi đoàn xe đi rồi thì tôi không còn chuờng
mặt ra đây đuợc nữa , vì bọn Công An thấy sẽ biết ngay .
Chúng tôi đang lân la trong hải cảng thì
bỗng có một chiếc tàu tuần của Công An Biên Phòng VC vào cặp bến để lấy
nước ngọt ở cái phong tên nuớc . Khi đó họ có hỏi tụi tôi , có muốn mua
mấy món đồ lậu như ruợu , thuốc lá , đồng hồ , máy radio cassette …
Chúng tôi làm bộ nhận chịu , nhưng hẹn với họ ngày mai sẽ gom tiền cho
nhiều để mua một lần cho tiện . Họ nghe nói thế tuởng là trúng mối to .
Sau khi lấy nuớc xong là họ đi , truớc khi rời bến họ rủ chúng tôi lên
tàu . Long nhanh chân nhảy lên truớc , tôi còn đang luỡng lự ngần ngừ ,
vì không biết họ đi đâu và đi làm cái gì , họ không nói gì cả , chỉ rủ
lên tàu để đi thế thôi . Long đã ở trên tàu rồi nên thúc hối tôi lên
tàu . Khi tàu mở dây cột tàu sắp chạy và vì sự thúc hối của Long nên tôi
cũng nhảy lên theo , còn Nghĩa thì không đi .
Tàu chạy ra ngoài , nghe họ kể về những
chuyện đi bắt ghe tàu vuợt biên . Họ đã bắt rất nhiều ghe tàu vuợt biên
và lên giọng rất là sắt máu . Nguyền rủa những nguời vuợt biên là bọn
phản quốc , chạy ra nuớc ngoài , bám chân đế quốc để ăn bơ thừa sữa
cặn … Tôi thầm nghĩ đến những chiếc ghe tàu vuợt biên nếu bị chiếc tàu
tuần này bắt , thì coi như là thân tàn ma dại . Có những chuyến ghe tàu
vuợt biên bị Công An VC xả súng tàn sát mặc dầu họ biết đa số là đàn bà
con trẻ .
Họ dẫn chúng tôi xuống hầm tàu để quảng
cáo mấy món hàng mà chúng tôi hứa sẽ mua . Tàu chạy một lúc rồi cặp bến
vô đậu trong căn cứ hải quân của chúng , rồi bảo chúng tôi lên bờ . Tôi
cứ tuởng là tàu trở lại bến cũ cho mình lên , ai dè lại vô căn cứ VC nên
cũng hơi ngại ngại . Hai đứa tôi đi ra cổng và đi theo con đuờng lộ đá
dẫn vô bờ . Căn cứ này nằm xa bờ chừng vài chục thuớc , có con đuờng lộ
đá làm bằng những tảng đá núi mà xe loại lớn có thể chạy đuợc .
Vô tới bờ đi bộ nguợc trở về hải cảng ,
dọc theo bờ biển thấy có một xóm chài , có một số tàu đánh cá , hai đứa
tôi vô hỏi thăm . Lên một chiếc tàu thì gặp một nguời có mang một khẩu
súng AK47 , lỡ rồi nên tôi làm bộ hỏi để mua cá . Anh này nguời Miên gốc
Việt nên nói được tiếng Việt . Anh ta ngó tới ngó lui rồi hỏi tụi tôi
có muốn vuợt biên không . Chắc có lẽ họ thấy bộ dạng mình vô đây là định
tìm đuờng vuợt biên nên mới hỏi thẳng như vậy . Thấy anh ta có súng thì
hơi sợ , nhưng trong bụng thì muốn tìm cơ hội để đi , nên tôi cũng trả
lời lưng chừng là bây giờ mà tính chuyện vuợt biên đâu phải dễ , tụi tôi
ở đoàn xe vận tải đang đi công tác ở hải cảng . Ông ta tiếp thêm là nếu
muốn vuợt biên thì ba ngày nữa trở lại đây rồi họ sẽ đưa ra hải đảo , ở
đó họ sẽ chuyển qua tàu đánh cá Thái Lan , mỗi nguời hai lượng vàng ,
ba ngày nữa tàu sẽ ra khơi , nếu muốn đi thì lại đây . Nói xong ông ta
cho một con cá to và hối tụi tôi đi ngay , vì ở đây lâu không tiện dễ bị
nghi ngờ .
Tôi và Long trở về hải cảng , trên đuờng
đi thỉnh thoảng gặp các toán tuần tiểu của Công An Biên Phòng , họ đi
tuần tra dọc theo bờ biển . Chúng tôi giả vờ mò cua bắt cá trong các hóc
kẻ đá , khi họ đi qua khỏi rồi thì tiếp tục đi . Đi bộ một đoạn đường
khá xa chừng vài cây số . Khi về đến chỗ đậu xe thì thấy có gánh bán
cơm , tôi đổi cho họ con cá để lấy hai dĩa cơm . Sau khi ăn xong , tôi
bàn với Long và Nghĩa là tối nay phải vô ngủ ở trong hải cảng , vì sáng
sớm đoàn xe sẽ chạy trở về Nam Vang , khi đó thì mình không còn có chỗ
ẩn thân ở bên ngoài đuợc . Long và Nghĩa thì có ý định trở lại Nam
Vang , rồi trở về Việt Nam kiếm thêm tiền , vàng rồi trở qua đây , để đi
theo mấy ghe tàu đánh cá . Riêng tôi thì tôi quyết tâm ở lại , kiếm chỗ
ẩn náu quanh đây , may ra có dịp tìm đường đi , chớ quay trở lại Việt
Nam thì không thể đuợc . Tôi quyết tâm là sẽ đi tới mãi chớ không quay
lui . Riêng Long và Nghĩa đều là Lơ Xe nên chuyện đi hay trở về đều
không có gì là nguy hiểm cả . Sau khi bàn tính một lúc thì Long và Nghĩa
đồng ý ở lại vì thấy tôi quá quyết tâm . Chúng tôi mua ba ỗ bánh mì và
lấy theo một bình nuớc rồi vô trong hải cảng ngay , truớc khi trời tối .
Tôi đã để ý từ truớc thấy có mấy goong xe
lửa bỏ không ở một xó góc không có nguời lui tới . Vì vậy chúng tôi đợi
đến khi trời tối , kín đáo lẻn vô trong toa xe đó và trốn luôn trong
đó . Ngồi trong goong xe nhìn qua khe ván thấy đồn Công An canh gác ở
cổng cũng không xa lắm , vì vậy chúng tôi phải giữ gìn thật hết sức im
lặng , đề phòng thật kỹ luỡng . Trong những lúc nguy hiểm tôi thuờng
cảnh giác thức suốt đêm , quan sát nghe ngóng mọi động tịnh bên ngoài .
Sợ khi ngủ hết , lỡ mà có nguời nào ngủ mớ la hoảng hay phát ra tiếng
ngáy thì nguy hiểm lắm .
Khi trời sáng hẳn , tiếng đoàn xe rời hải
cảng để trở về Nam Vang . Lúc bấy giờ bên ngoài không còn nguời lui
tới , không còn thấy bóng dáng tài xế hay Lơ Xe nữa , vì vậy chúng tôi
phải ẩn mình cho thật kỹ . Chúng tôi nằm im trong toa xe lửa đó , buổi
trưa trời nóng như thiêu , chúng tôi cởi trần , nhờ khe ván hở nên cũng
không đến đỗi nào . Tôi chỉ sợ nếu có nguời muốn sử dụng goong xe này ,
họ đến kéo đi thì rất là nguy , chúng tôi sẽ bị phát giác ngay .
Cho đến chiều thì may quá có một đoàn xe
khác xuống cùng vào đậu ở phía cổng như truớc . Tôi mừng quá vì lại có
dịp ra ngoài trà trộn với đám tài xế Lơ Xe mà không ai để ý . Và cũng
vào khoảng 4 , 5 giờ chiều hôm đó , bỗng đâu xuất hiện một chấm đen từ
ngoài biển khơi đang tiến dần vô bờ , càng lúc càng lớn dần và sau cùng
hiện rõ ra một chiếc tàu đang huớng vô hải cảng , rồi từ từ cặp vào bến
đá . Một chiếc thương thuyền quá lớn mang tên Pep Star , đặc biệt là lá
cờ trên tàu không phải là cờ đỏ búa liềm , chắc chắn không phải là tàu
Cộng Sản . Hơn nữa chữ Pep Star có vẻ là tiếng Anh hơn là tiếng Nga .
Sau khi tàu cặp bến xong xuôi , thấy có
nhiều nguời đi lại gần chiếc tàu , khi đó tài xế và Lơ Xe ra vô tấp
nập . Trời đã tối chúng tôi chui ra khỏi chỗ trốn và tìm cách lại gần
chiếc tàu . Lúc đó có nhiều công nhân nguời Miên đang lên tàu , tôi liền
hỏi nguời thuỷ thủ trên tàu họ cho biết là tàu của nuớc Đan Mạch , mà
Đan Mạch là một nuớc ở Âu Châu , nên tôi yên trí chắc chắn không phải là
một nuớc Cộng Sản , tôi mừng quá vì có thể xin Tỵ Nạn đuợc .
Trong bóng tối chúng tôi ngồi ở xa xa
nhìn lên chiếc tàu thấy công nhân nguời Miên lên xuống theo chiếc cầu
sắt cặp sát bên hông tàu . Ở trên tàu ngay chỗ đầu cầu lên xuống có hai
tên Công An đang đứng canh gác kiểm soát mọi nguời lên xuống rất là kỹ
lưỡng . Tôi tập trung quan sát mọi hoạt động trên tàu để tìm cách lẻn
trốn lên tàu , nhưng rất là khó khăn vì hai tên Công An đang canh gác
quá kỹ . Nếu lở lên tàu mà chúng bắt tại trận thì hết đuờng chối cãi chỉ
có nuớc vô tù , mà riêng tôi thêm tội trốn trại nữa thì chắc chúng sẽ
không tha .
Kể từ khi chui ra khỏi hàng rào ở trại tù
Tống Lê Chân cho đến bây giờ là tôi đã vuợt đuợc một quảng đuờng khá
xa , đã ra khỏi nuớc và ra đến biển và con đuờng duy nhất là phải lên
cho bằng đuợc chiếc tàu này . Nhìn lên trên tàu mà thèm thuồng uớc gì
mình đuợc trốn vô nằm trong chiếc thuyền cấp cứu đang treo lủng lẳng
đong đưa trên đó thì quá kín đáo . Tôi cứ nhìn hoài , tàu này chở những
chiếc xe truck , chỉ có phần đầu máy với cái suờn phía sau . Đây là
những chiếc xe viện trợ nhân đạo của Liên Hiệp Quốc . Cần trục trên tàu
đang hoạt động liên tục đang bốc hàng xuống , mỗi lần một chiếc xe , cho
nên rất là nhanh . Theo tôi nghĩ thì trong đêm nay sẽ bốc hàng xong và
ngày mai tàu sẽ đi , mà tàu của các nuớc Âu Châu thì hiếm khi vào hải
cảng của nuớc Cộng Sản này .
Trời tối dần mà Long và Nghia thì cứ hối
thúc hoài , định leo đại theo dây cột tàu mà ra tàu . Nhưng đèn pha
chiếu sáng khắp tứ phía thì làm sao mà leo ra đuợc , mà làm sao thoát
hết đuợc ba đứa . Rồi Long lại tính đuờng nhảy xuống nuớc bơi qua bên
kia thành tàu rồi tìm cách leo lên tàu . Tàu thì cao sừng sững đâu có dễ
gì leo lên được , mà chung quanh đèn chiếu sáng choang , vừa nhảy xuống
nuớc là bị bắn liền chứ đừng nói gì tới bơi ra tàu .
Tôi cứ chờ đợi dịp thuận tiện , mắt tôi
cứ dán sát vào hai tên Công An đang đứng gác trên tàu , một tên mang
súng AK47 , còn một tên mang K54 có lẽ là cán bộ . Quan sát theo dõi họ
thật kỹ để mong tìm một chút sơ hở , nhưng mỗi lần có ai lên tàu là nó
chận lại xét hỏi rất kỹ càng . Với lại mình không biết tiếng Miên ,
không giống nguời Miên , nên khó qua mặt đuợc nó .
Bỗng dưng trời xui đất khiến hai tên Công
An này đồng lúc rời bỏ vị trí buớc vô trong cabin tàu . Tôi vụt chạy
lên tàu tức khắc kéo theo Long và Nghĩa . Khi lên đuợc trên tàu chúng
tôi chạy băng qua bên kia thành tàu và tìm chỗ ẩn trốn , thì khi đó hai
tên Công An lại trở ra canh gác như cũ , nhưng chúng chỉ nhìn về phía
cầu thang lên xuống , chứ không để ý gì về phía chúng tôi . Tôi nhìn
quanh quất không thấy có chỗ nào để ẩn thân , không thể chui vô đống dây
luột hay đống cây gỗ bên cạnh đó , vì dấu đầu lòi đuôi không thể che
dấu hết ba nguời . Nhìn xuống hầm tàu thì thấy nhân công Miên đang làm ở
duới đó và không thể lẫn quẫn ở đây lâu đuợc vì thuỷ thủ hay công nhân
Miên bất chợt họ thấy họ sẽ nghi .
Ở trên tàu có hai cần trục một cần trục ở
phía bên kia đang hoạt động liên tục , còn một cần trục phía gần bên
tôi thì không hoạt động . Ở phía trên là phòng điều khiển bằng kiến , ở
bên duới là phòng máy , có một lỗ tròn vừa nguời chun vô , tôi liền thử
chui vô rồi kéo Long và Nghia vô theo . Tôi cố ép sát nguời vô trong để
vừa đủ chỗ cho ba đứa ẩn mình . Lần lần tôi dọn dẹp các lon dầu , đồ đạt
dụng cụ để chui sâu vào trong . Nếu có ai bất chợt đi ngang qua thì sẽ
không thấy chúng tôi đuợc , nhưng nếu ló đầu vô trong thì sẽ thấy ngay .
Hơi yên tâm một chút , lúc đó chắc cũng vào khoảng 11 , 12 giờ đêm .
Cần trục bên kia vẫn còn đang tiếp tục
hoạt động , độ một giờ sau thì chấm dứt . Sau đó công nhân lần luợt rời
khỏi tàu , duy chỉ còn hai tên Công An vẫn đi tới đi lui canh gác bên
kia thành tàu . Sau đó nắp hầm tàu đuợc đóng lại , nắp hầm tàu làm bằng
những lá sách bằng sắt nó chạy từ trong ra ngoài nghe rền vang . Sau khi
nắp hầm tàu đậy xong , bây giờ chúng tôi có thể chui vô sâu thêm nằm
truờn mình trên nóc hầm tàu và mọi sự trở lại vắng lặng hoàn toàn .
Tôi suy nghĩ , truớc khi tàu rời bến chắc
chắn Công An Biên Phòng và quan thuế sẽ kiểm soát rất kỹ , cho nên tôi
phải tìm chỗ trốn khác kín đáo hơn , chớ không thể trốn ở đây đuợc . Lúc
còn ở duới nhìn kỹ mọi hoạt động trên tàu , tôi thấy thỉnh thoảng có
thuỷ thủ lên xuống ở phía truớc mủi tàu , như vậy phải có cầu thang lên
xuống ở mũi tàu .
Đợi đêm thật khuya vắng lặng , tôi dặn dò
Long và Nghĩa từng nguời một lần luợt chui ra và phải chờ khi nào Công
An quay lưng lại thì mới cho chui ra . Bò theo thành tàu , bò ra phía
truớc mũi tàu để tìm cầu thang đi xuống hầm tàu . Trên tàu rất trống
trải mà đèn thì sáng choang , do đó phải bò thật thấp để không thấy lộ
hình lên trên nền trời . Sau cùng tôi đợi khi tên Công An vừa xây lưng
lại là tôi chui ra sau cùng , bò dọc núp duới thành tàu đến gần mủi tàu
thì thấy có một cửa nhỏ , tôi mở chốt cửa rồi chui vào trong , có một
cầu thang bằng sắt hình khu ốc , tôi lần theo xuống .
Xuống đến hầm tàu thì tôi thấy Long và
Nghĩa nằm dài ở đó . Đây là khoang tàu nơi chứa hàng , sau khi hàng bốc
đi rồi thì trống trơn không có chỗ nào để ẩn thân , mấy cây cột bằng sắt
cũng không lớn đủ để che thân . Tôi thấy trốn ở đây không đuợc vì sẽ bị
lộ ngay . Tôi lần theo cầu thang khu ốc để đi xuống nữa , thì khi xuống
duới đáy hầm tàu , tôi thấy có một đống cây gỗ ở ngay mũi tàu , tôi
mừng quá vì tìm đuợc chỗ trốn tốt . Tôi sắp lại đống cây gỗ để chừa ra
một lỗ trống , đủ chỗ để cho ba đứa chui vào , xong rồi kéo thanh gỗ đậy
lại , trông giống như cũ , không có dấu vết gì khả nghi . Lúc đó chắc
khoảng 3 , 4 giờ sáng , tôi nằm im trong đó , không dám ngủ và dặn kỹ
Long và Nghĩa phải giữ thật im lặng , không được thở mạnh hay ho hen .
Độ khoảng 6 giờ sáng , tôi nghe tiếng lộp
cộp đi xuống cầu thang , họ quét đèn lên trên đống cây , nhưng không
thấy gì khả nghi , họ bỏ đi trở lên . Một lúc sau nữa tôi nghe tiếng còi
tàu hụ lên 3 tiếng , tôi mừng quá vì tàu hụ 3 tiếng là tàu ra cửa biển
. Một hồi sau tôi nghe tiếng sóng nước rào rào ở mủi tàu , tôi chợt
biết là tàu đã chạy . Vì đang ở mủi tàu nên tôi không nghe tiếng máy
tàu , mà chỉ nghe tiếng sóng nước đập vào thân tàu nghe rào rào và càng
lúc càng mạnh . Đến một hồi nữa nghe ầm ầm , tôi biết là tàu đang chạy
nhanh , đang rẽ sóng ra khơi . Một hồi sau chúng tôi chui ra khỏi đống
cây gỗ .
Tôi định chờ một ngày một đêm rồi mới lên
trình diện vì sợ nếu còn trong hải phận Kampuchia hay Việt Nam , thì họ
có thể kêu tàu tuần đến bắt chúng tôi . Nhưng đến chiều thì Long bị ói
mửa vì say sóng , càng lúc càng nặng , mặc dù trong bụng không còn thức
ăn , chỉ ói ra nuớc , ói ra mật xanh . Sau cùng Long năn nỉ tôi phải lên
trình diện , nếu không sẽ chết . Lúc đó tôi nghĩ là tàu đã chạy đuợc
khoảng 8 , 9 tiếng đồng hồ , chưa được xa lắm , chắc là còn trong hải
phận Việt Nam , nhưng vì Long năn nỉ quá , nên sau cùng tôi đành phải
lên trình diện .
Một mình tôi lên truớc , theo cầu thang
khu ốc để lên và khi vừa chui ra khỏi cửa ở mủi tàu nhìn lên phía phòng
lái bằng kính , tôi thấy nguời hoa tiêu đang nhìn xuống phía chỗ tôi ,
chỗ mũi tàu . Tôi tức tốc tìm cách đi thật nhanh lên đó ngay , vì sợ họ
kêu tàu tuần đến bắt . Tôi đi thật nhanh , leo lên cầu thang lên tầng
trên cùng và đi thẳng vô phòng lái .
Thấy tôi vừa buớc vô phòng Hoa Tiêu , ông
ta nỗi giận dậm chân đùng đùng , bấm còi báo động . Ông hỏi tôi là ai ,
làm gì vô đây . Tôi liền trả lời tôi là Sĩ Quan Việt Nam trốn từ trại
tù ở Việt Nam sang Kampuchia và trốn xuống tàu hồi đêm qua , tôi xin
được tỵ nạn . Nhờ tôi nói bằng tiếng Anh , mặc dù không được trôi chảy ,
nhưng cũng hiểu đuợc phần nào . Lúc đó quần áo mặt mày tôi lem luốt
dính đầy dầu nhớt , mạt cưa trông không giống ai . Tôi nói tiếp tên họ
số quân của tôi và tôi đã học khoá Bộ Binh Cao Cấp tại truờng Fort
Benning , tiểu bang Georgia , Hoa Kỳ và xin ông vui lòng liên lạc với
toà Đại Sứ Mỹ nào gần đây thì sẽ xác đinh đuợc lý lịch của tôi . Tôi xin
ông một điều là nếu ông không nhận cho tôi tỵ nạn , thì xin ông bỏ tôi
xuống biển , chớ đừng gọi tàu tuần đến bắt tôi , vì họ sẽ giết tôi .
Sau khi nghe tôi trình bày sự việc , tình
hình bắt đầu lắng dịu , tôi liền nói thêm là hiện còn có hai nguời nữa
còn đang trốn duới hầm tàu . Ông ta lại nỗi giận lên , kêu nguời đi
xuống dẫn Long và Nghĩa lên . Long và Nghĩa đuợc dẫn lên ngồi trong
góc , trông rất thãm não , mặt mày xanh xao , quần áo lem luốc bẩn
thỉu . Xong rồi ông Thuyền Truởng gọi báo về công ty , một lúc sau thì
công ty chấp nhận cho chúng tôi Ttỵ nạn . Tôi mừng quá đỗi , coi như
được sống lại và tôi có hỏi ông là hiện giờ tàu đang ở đâu , có còn
trong hải phận Việt Nam không , thì ông chỉ cho tôi thấy một hòn đảo
trông mờ mờ từ xa đó là đảo Thổ Chu của Việt Nam và ông cũng nói thêm
rằng là kể từ bây giờ không ai có quyền lên tàu này để bắt chúng tôi
lại , vì đây là tàu của Đan Mạch là đất nuớc Đan Mạch .
Một số thuỷ thủ đứng chung quanh , nghe
thấy , dần dần họ có cảm tình với chúng tôi , họ đưa cho quần áo giày
dép rồi dẫn chúng tôi đi tắm . Cho chúng tôi vô ở trong một căn phòng ,
đây là phòng của một ông Kỹ Sư đã đi phép . Trên giường nệm có 2 tấm nệm
tôi lấy một tấm đặt xuống sàn nằm ngã lưng xuống một cách thoải mái
tuyệt trần . Một lúc sau chúng tôi được dẫn đi ăn , một bửa ăn thật
tuyệt diệu trong đời , trong đó có cơm chiên dương châu và mấy khúc cá
thu hấp rất thơm ngon chưa từng có . Đây là một bửa ăn tuyệt diệu nhất ,
tự do nhất , thoải mái nhất , mà tôi cảm thấy như đuợc sống lại sau bao
nhiêu ngày trốn tránh lang thang vất vả căng thẳng tột cùng , có đôi
khi gần nhu tuyệt vọng .
Sau khi ăn xong bửa cơm tuyệt diệu đó ,
chúng tôi đuợc dẫn đi thăm viếng tàu . Truớc hết đến phòng ông Thuyền
Truởng , ông rót ruợu uống mừng cho chúng tôi đã thoát nạn Cộng Sản và
chụp hình lưu niệm . Sau đó đi tiếp qua các phòng và được biết trên
chiếc tàu này có nhiều nguời thuộc quốc tịch khác nhau như Hoà Lan , Đan
Mạch , Ba Tây , Phi Luật Tân … Các thuỷ thủ trên tàu cho chúng tôi xem
hình ảnh gia đình của họ và chuyện trò rất là thân mật , thật là hết sức
lịch sự và đầy tình nhân ái . Nghĩa có mang theo một số tiền Việt Nam
không còn xài được nữa , nên mới đưa cho các thuỷ thủ . Họ rất tốt bụng
đã cho lại chúng tôi mỗi nguời 20 US dollars và chọn cho chúng tôi mỗi
đứa một bộ đồ vừa vặn đẹp đẽ để mặc khi lên bờ .
Chúng tôi được cho lên phòng hoa tiêu để
ngắm nhìn hoàng hôn trong buổi chiều tàn , nhìn mặt trời lặn trong cảnh
nuớc trời bao la , thật là tuyệt đẹp , mà tuởng chừng như trên chốn bồng
lai tiên cảnh nào vậy , trong khi con tàu đang luớt sóng thật êm đềm .
Đây là một chiếc thương thuyền rất lớn nên chạy thật là êm ái , khác xa
với cảnh tuợng của những chiếc ghe vuợt biên bé nhỏ , chở đầy nguời ,
bập bềnh trên biển cả mênh mông , sóng gió hãi hùng , và còn phải lo sợ
bị hải tặc hảm hiếp , cuớp của giết nguời thật là ghê rợn .
Buổi tối hôm sau tàu tiến vô một hải cảng
với muôn ngàn ánh đèn rực rỡ , trong một vùng vịnh bao la , với vô số
thương thuyền tàu bè đủ loại , trông thật hùng vĩ huy hoàng tráng lệ .
Đó là hải cảng Singapore . Theo thủ tục của Luật Di Trú thì chúng tôi
phải vô trong phòng và Thuyền Truởng sẽ khoá cửa lại , để giử chúng tôi
trong đó . Tuy nhiên nếu có cần gì thì cứ gọi , thỉnh thoảng có nguời
đến thăm chừng , thật là hết sức lịch sự tử tế và chu đáo vô cùng .
Chừng vài tiếng đồng hồ sau thì có hai
nhân viên của sở di trú Singapore đi xuồng máy ra lên tàu và mở khoá cửa
phòng , thẫm vấn chúng tôi và làm thủ tục giấy tờ , xong rồi họ đi
ngay . Sau đó thì có một phái đoàn của Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc ,
UNHCR , xuống phỏng vấn và làm thủ tục . Tôi trình bày bằng tiếng Anh ,
nhưng bất ngờ nguời đó trả lời bằng tiếng Việt và bảo tôi cứ nói bằng
tiếng Việt Nam đuợc rồi . Tôi mừng quá vì đuợc gặp nguời đồng hương ,
sau này tôi đuợc biết đó là cô Bích làm việc trong văn phòng Cao Uỷ Tỵ
Nạn ở Singapore . Khi làm thủ tục giấy tờ , và trong nguyện vọng xin đi
định cư nuớc nào , thì tôi xin đuợc đi Mỹ , vì hiện tôi có một đứa em
đang ở Mỹ , và tôi cũng đã từng du học ở Mỹ , nên nghĩ rằng sẽ đuợc cứu
xét dễ dàng hơn . Chúng tôi ngủ thêm một đêm trên tàu và sáng hôm sau
thì có nguời của Cao Uỷ Tỵ Nạn ra đón 3 đứa tôi lên bờ , tôi còn nhớ đó
là cô Robin , nguời nuớc New Zealand .
Sau một thời gian 22 ngày đêm vuợt thoát
từ trại tù Tống Lê Chân , nay tôi được đặt chân lên một đất nuớc tự do
là nuớc Singapore vào ngày 27/06/1980 . Chúng tôi đuợc đưa về tạm trú ở
khách sạn YMCA . Ở đây hiện có chừng muời nguời Việt Nam Tỵ Nạn cũng mới
đến chừng vài ngày truớc và họ giao nhiệm vụ cho tôi làm thông dịch
viên . Điều đầu tiên là tôi ra Bưu điện để đánh điện tín về Việt Nam cho
gia đình tôi biết tin . Vì có tiền 20 dollars nên tôi gọi taxi ra Bưu
Điện và gởi điện tín về cho vợ tôi với nội dung nhu sau : Đã giải phẩu xong bình an ,
đó là câu mật hiệu để cho vợ tôi biết là tôi đã thoát nạn và đã đến nơi
an toàn . Điện tín này đã đến nhà tôi vào ngày 30/06/1980 . Vợ tôi hết
sức vui mừng khi nhận đuợc điện tín này , phân vân không biết Singapore
là nước nào ở đâu . Vợ tôi liền đi xuống Mỹ Tho để báo tin mừng và vô
Trung Lương , nơi đất hương quả mồ mã tổ tiên để cúng tạ .
Chúng tôi ở khách sạn YMCA vài ba ngày để
làm thủ tục . Buổi chiều rỗi rảnh chúng tôi dắt nhau ra chợ Tàu . Đi bộ
chừng 15 phút là đến , một dãy kios quán ăn rất là đông vui và ngon
miệng . Long biết nói tiếng Tàu nên rất dễ giao tiếp . Ở Singapore 80 %
là người Hoa , còn lại là nguời Ấn và người Mã Lai .
Sau đó chúng tôi đuợc đưa vào Trại Tỵ Nạn
Sambewang , còn gọi là trại Hawkins . Khi vừa buớc vô văn phòng Trại Tỵ
Nạn , tôi chợt thấy lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ thật lớn treo trên tường mà
lòng hân hoan vui mừng quá độ . Tôi và nhóm nguời mới tới đều vui mừng
sung suớng đến rơi nuớc mắt , đuợc hôn lên Lá Cờ Quốc Gia Dân Tộc và
biết chắc rằng mình đã thật sự thoát khỏi ngục tù Cộng Sản và đã đến
đuợc bến bờ Tự Do .
Chúng tôi đuợc lãnh tiền trợ cấp mỗi
nguời 2,50 đồng một ngày , một đồng Singapore lúc đó trị giá vào khoảng
0,8 dollar Mỹ . Ngoài ra còn đuợc phát mỗi nguời một chiếc chiếu , và cứ
6 nguời thì đuợc phát một cái lò nấu ăn . Đây là một trại lính với
nhiều toà nhà có hai tầng khang trang , trại viên trải chiếu trên sàn
gạch rất mát mẻ sạch sẽ , không có ruồi muỗi . Phía ngoài là sân cỏ ,
đuợc giử gìn chăm sóc cắt xén rất đẹp như một tấm thảm xanh .
Cuộc sống ở trại Tỵ Nạn này rất là thoải
mái , có khu chợ nhỏ ngay trong trại , đa số là nguời Ấn độ , bán đủ
loại thực phẩm , rau cải , trái cây , đặc biệt là trái sầu riêng ở đây
có rất nhiều . Ở ngoài vòng rào và cách trại chừng vài trăm thuớc , có
một con rạch rất lớn , có nhiều cá , nhứt là Cá Rô Phi . Có nguời chui
rào ra , luới đuợc rất nhiều cá , đem về bán chui qua các nhà .
Những nguời đuợc đưa về trại này thuờng
là chỉ đuợc tạm trú ở đây khoảng 3 tháng , để làm thủ tục đi định cư ,
hoặc là những nguời từ trại đảo Galang đưa đến chờ máy bay để đi định
cư . Hàng ngày công việc của trại là theo dỏi tin tức phát thanh trên
loa , để biết khi nào đuợc gặp phái đoàn để đuợc phỏng vấn và khám sức
khoẻ .
Khi mới đến trại khai hồ sơ lý lịch , vì
tôi đã từng du học bên Mỹ nên được Ban Chỉ Huy Trại giao nhiệm vụ làm
Thông Dịch Viên . Công việc thường ngày của tôi là giúp thông dịch nếu
có phái đoàn vô trại . Còn không thì phải đưa người đi ra các toà Đại Sứ
Anh , Mỹ , Úc … Hoặc đưa người đi bệnh viện , để khám sức khoẻ để đi
định cư . Ở trong trại cũng có bệnh xá để điều trị các bệnh nhẹ thông
thường như ho , đau bụng , nhức đầu , nóng lạnh … Lúc đó có BS Rạng
trách nhiệm bệnh xá , ông cũng là người Tỵ Nạn và trước kia ông từng là
Bác Sĩ của Bệnh Viện 3 Dã Chiến ở Phú Lợi Bình Dương .
Ở trong trại tôi thấy có nhiều hoàn cảnh
rất là thương tâm . Có nhiều nguời mất vợ mất con mất cha mất chồng trên
đường vượt biển . Như có 1 ông Bác Sĩ , tôi nhớ mang máng tên là
Phùng , BS Phùng , ông bị khủng hoảng tinh thần gần như điên loạn , vì
cả gia đinh vợ con đều bị chết . Tôi thấy ông cứ đi lang thang nói nhảm
suốt cả ngày . Vì ông mắc bệnh tâm thần như vậy nên không được phái đoàn
nào phỏng vấn , rồi không biết sau này ra sao .
Sau khi đến trại đuợc 1 tuần , tôi liền
gởi gói quà nhỏ đầu tiên về cho gia đình , trong đó có vài thước vải
đen , chai dầu xanh và kẹo bánh . Ba tháng sau vào tháng 10/1980 thì tôi
được đi định cư qua Mỹ . Long và Nghĩa thì được định cư ở Đan Mạch .
Với lòng tri ơn sâu xa , tôi xin ghi lòng
tạc dạ công ơn cứu tử của Thuyền Trưởng và toàn thể thuỷ thủ đoàn trên
chiếc thương thuyền Pep Star , thuộc công ty hàng hải của nước Đan
Mạch , đã cứu vớt tôi và giúp cho tôi thoát khỏi ngục tù Cộng Sản và cho
tôi đến được bến bờ Tự Do . Đây quả là một công ơn quá lớn lao mà suốt
đời tôi không bao giờ quên đuợc .
Tôi cũng không bao giờ quên nghĩa cử cao
đẹp , đầy lòng nhân đạo của Cơ Quan Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc UN/HCR và dân
tộc các nuớc trên thế giới , đã mở rộng vòng tay cứu vớt , trợ giúp và
cưu mang chúng tôi , những người Tỵ Nạn trốn chạy khỏi chế độ Cộng Sản
bạo tàn phi nhân bản .
Sau khi đến Hoa Kỳ được 1 năm thì tôi
đuợc vào quy chế thường trú , 5 năm thì đuợc vào quốc tịch . Ngay khi
đến Hoa Kỳ , tôi lo ngay việc nạp đơn xin bảo lãnh gia đình qua chương
trình ODP và 9 năm sau thì vợ tôi và 3 đứa con đã đến được Hoa Kỳ . Sau
hơn 14 năm xa cách kể từ ngày 30/04/1975 , ngày miền Nam rơi vào tay
Cộng Sản , nay gia đinh tôi đuợc đoàn tụ lại như xưa , đã thoát khỏi
gông cùm Cộng Sản và được sống trên quê hương mới đầy lòng nhân ái bao
dung .
Đây quả như là một phép lạ do Ơn Trên ban phuớc cho.
Nguyễn Ngọc Thạch – K20 VBĐL
Anh Thạch viết rất hay.
ReplyDeleteMừng Anh và Gia đình đã đến được bờ Tự Do