Tôi đã nhiều lần định viết về những
người tù kiệt xuất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa: những anh em Biệt Kích Dù,
những người “từ trên trời rơi xuống”, nhưng tôi cứ lần lựa mãi. Lười biếng
thì chỉ có một phần. Lý do chính yếu là những người bạn tù mà tôi bội phần
cảm phục ấy đang ở trong một tình trạng hết sức khó khăn. Chúng tôi đi cải tạo
sau tháng 4 đen 1975, dù đớn đau, khổ nhục đến đâu, vẫn có tên, có tuổi, hằng
tháng, hằng quý vẫn còn liên lạc được với gia đình. Anh em, bè bạn ở nước ngoài
vẫn còn có chút âm hao để mà theo dõi.
Những anh em Biệt Kích Dù thì đúng là
“thượng diệt, hạ tuyệt” – không có quân bạ, quân số, không có tên có tuổi nào
được đăng ký, không có chính phủ nào, quân đội nào công nhận có những con người
ấy ở dưới tay. Không được liên lạc với ai, coi như không còn hiện diện
trên trái đất. Ở trên trời rơi xuống Bắc Việt vào đầu thập niên 60 thời Đệ
Nhất Cộng Hòa, những anh em Biệt Kích Dù đã tham dự một cuộc chiến tranh tối mật
(secret war). Những người tình nguyện tham gia cuộc chiến này đã tự coi như
mình đã chết; nhảy xuống, tìm được địa bàn hoạt động, trà trộn được, ẩn dấu được
là sống, là thi hành xong nhiệm vụ, nếu bị lộ, bị bắt, bị giết thì “Anh tự lo
liệu cho cái thân anh, không có cơ quan nào, tổ chức nào đứng ra can thiệp hay
bảo trợ cho anh được”. Những người tù “đứt dây rơi xuống” này không được hưởng
chút quyền lợi nào từ quy chế tù binh (Genève); các cơ quan nhân đạo quốc tế
như Hội Hồng Thập Tự, Hội Ân Xá Quốc Tế cũng không biết làm sao để can thiệp,
vì các anh đâu có quân bạ, quân số, đâu có tên có tuổi được đăng ký hợp pháp ở
một chính phủ nào.
Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, (thời tổng
thống Ngô Đình Diệm), nghe nói đại tá Lê Quang Tung, em là thiếu tá Lê Quang
Triệu phụ trách công tác này. Ở đàng sau có cơ quan tình báo hay phản gián
nào của Mỹ yểm trợ hay không, điều này ai cũng hiểu là phải có, nhưng cơ quan
nào: CIA hay thuộc cơ quan tình báo Ngũ Giác Đài, không ai dám đoan chắc, mà
cũng không ai dám biết.
Nghe nói những người được tuyển chọn
vào Biệt Kích Dù tham gia vào cuộc chiến tranh tối mật, ngoài những người khả
năng đặc biệt về nghiệp vụ như tình báo, truyền tin, phá hoại, trà trộn dưới đồng
bằng, ẩn dấu trong rừng sâu, chiến đấu với đối phương, với bệnh tật, với thiên
nhiên, được trang bị thật kỹ từ A đến Z về mưu sinh thoát hiểm, họ còn phải là
những người tuyệt đối tin tưởng vào quốc gia, vào lãnh tụ. “Sống không rời nhiệm
vụ, chết không bỏ lập trường” đó là vũ khí chung của anh em Biệt
Kích…..
Như mọi người đã biết, cuộc chính biến
1 tháng 11 năm 1963 đã làm sụp đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa, anh em tổng thống Ngô
Đình Diệm bị hạ sát; người rất thân tín, người ủng hộ đến cùng anh em tổng thống
Diệm là anh em đại tá Lê Quang Tung, thiếu tá Lê Quang Triệu tất nhiên cũng bị
triệt hạ theo. Các anh em Biệt Kích Dù sau tháng 11 năm 1963, khi anh em tổng
thống Diệm chết đi, khi anh em người chỉ huy chiến dịch là Lê Quang Tung-Lê
Quang Triệu bị hạ sát, đã bị rơi vào tình trạng rắn mất đầu. Sự tan vỡ như thế
là không tránh khỏi. Không biết có một sự kiện “vỡ kế hoạch” vô tình hay cố ý
nào không, nhưng các anh em Biệt Kích Dù ra Bắc lần lượt bị phát giác, bị truy
bức, bị giết và bị bắt. Không ai biết rõ hay biết mà không ai dám nói ra, đã có
bao nhiêu Biệt Kích Dù ra Bắc, công trạng họ lập nên được những gì? Bao
nhiêu người sống, bao nhiêu người chết? Chiến tranh tối mật nên những người
thực hiện sống hay chết đều nằm trong bóng tối. Đó là quy luật của cuộc
chơi. Một cuộc chơi quyết liệt và tàn nhẫn. Có nhiều người cho rằng
trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, người có công nhất chưa chắc đã là viên thống
soái chỉ huy ba quân tướng sĩ, mà người có công nhất có thể là người chiến sĩ
vô danh chết chồng đống trong chiến hào, chết âm thầm trong rừng sâu, chết lạnh
lùng dưới biển cả. Thời gian cũng như lòng người, đều vô tình như
nhau. Nào ai còn nhớ trong biết bao nhiêu người chiến sĩ Biệt Kích Dù ra Bắc
đầu thập niên 60 năm ấy, ai còn, ai mất?
Năm 1980 khi lũ tù cải tạo chúng tôi đến
huyện Như Xuân, chốn rừng sâu Thanh Hóa, gần biên giới Lào, chúng tôi thấy đây
là một trại tù mới dựng giữa rừng sâu. Trước đó, chắc trại Thanh Phong này
chưa có trên bản đồ các trại tù miền Bắc. Đây là một trại tù “ẩn giấu”.Lũ tù cải
tạo chúng tôi đến đây, thuộc loại được đánh giá là “ác ôn nợ máu” gồm thành phần
An ninh, Phòng nhì, Trung ương tình báo, Chiến tranh chính trị, Bình định nông
thôn … thành phần mà “Cách mạng” cho rằng có liên hệ với CIA. Nhưng so với
anh em tù nhân lưu cựu ở đây thì chúng tôi chưa có kí lô nào hết. Chúng
tôi ở phân trại mới K2; phân trại chính và có mặt ở đây trước là K1, nơi giam
giữ tù nhân kêu bằng CIA, nhưng thực ra chính là anh em Biệt Kích Dù từ đầu thập
niên 60 đã nhảy dù ra Bắc.
Lũ chúng tôi mới tới được đưa ra tắm
suối. Chợt gặp hai người, lưng mang dao quắm, khiêng mỗi người một bó nứa
khá to. Hai người đặt bó nứa xuống và hỏi: “Các bác vừa ở Tân Lập, Vĩnh
Phú xuống?” Chúng tôi gật đầu đồng ý. Hai người liền lật đật đứng nghiêm,
giơ tay chào theo đúng lễ nghi quân cách và đồng thanh nói: “Chúng em
là Biệt Kích Dù đây”.
Chúng tôi vừa xúc động, vừa hoang mang
chưa biết nói năng gì thì một người vừa giơ ống tay áo lên lau mắt vừa
nghẹn ngào: “Gần hai mươi năm nay chờ đợi các anh. Không ngờ lại gặp các
anh trong tình cảnh này, đau đớn quá”.
Anh em Biệt Kích Dù về miền thượng du
Thanh Hóa, gần biên giới Hạ Lào này trước chúng tôi chừng vài năm, sau khi đã
trải qua những năm tháng tù đày khốn khổ ở những trại tù rùng rợn vùng biên giới
phía Bắc: Trại Cổng Trời Hà Giang, trại “Mục xương” Cao Bằng hay trại Sơn La
“âm u núi khuất trong sương mù”. Nếu quân “bành trướng Trung Hoa” không tấn
công 6 tỉnh miền Bắc sát biên giới hồi đầu 1979, thì có lẽ anh em Biệt Kích Dù
vẫn còn quẩn quanh nơi rừng núi phía Bắc. Ở đâu anh em cũng bị “cất giấu” chốn
rừng sâu, cách biệt hẳn với loài người. Một anh Biệt Kích nói với tôi “Coi như ở
đây, trại Thanh Phong này là tụi em được gần gũi với “nhân dân” nhiều nhất. Cũng
vì thế nên mới được gặp các anh hôm nay”.
Trong số các anh em Biệt Kích Dù ở trại
Thanh Phong năm ấy (1980) người tù lâu nhất là 20 năm, người ít nhất là 17
năm. “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” chúng tôi đi cải tạo đã được
5 năm, đã thấy cuộc đời tù dài dằng dặc, nhưng so với anh em Biệt Kích Dù này
thì thật là chưa thấm vào đâu. Anh em cải tạo tụi tôi vẫn còn liên lạc được
với gia đình, vẫn nhận thư, nhận quà, có anh còn được người nhà từ
trong Nam ra thăm nuôi nữa. Mới đây một số anh em trẻ, cấp bậc nhỏ đã
lác đác được về. Như vậy là ở cuối đường hầm chúng tôi chúng tôi đã có leo lét
một vài tia sáng. Anh em Biệt Kích Dù thì từ 20 năm nay, hoàn toàn nằm trong
bóng đêm, sống cách biệt hẳn với loài người, coi như những người “bị bỏ quên”
trên hành tinh trái đất. Người tù truyền thuyết trong cổ tích Trung Hoa là ông
Tô Vũ cũng chỉ chăn dê ở Hung Nô đâu có 17 năm. Xem ra thâm niên đi tù của ông
Tô Vũ cũng còn thua xa anh em Biệt Kích Dù. Từ 20 năm nay, tù Biệt Kích chưa hề
có ai được tha về. Không, cũng có một số anh em được về – nhưng … đó là “về với
đất”.
KHẨU LỆNH BIỆT KÍCH DÙ
Phân trại K2 của chúng tôi nằm
cách K1 nơi giam giữ anh em Biệt Kích Dù chừng 4 cây số đường rừng. Ở
cách K2 chừng một giờ đi bộ còn có K3 – nơi giam tù hình sự dữ nhất:
cướp của, giết người. Từ huyện lỵ Như Xuân, vào đến K1 khoảng 15 cây số. Ngày
xưa, hồi kháng chiến chống Pháp cuối thập niên 40, đi vào khu 4, nghe nói đến địa
danh Hồi Xuân, La Hán ở trên rừng là đã rợn người. Nhưng mà đường đến Hồi
Xuân-La Hán so với đường vào trại Thanh Phong thì chưa đi đến đâu…
Một người bạn có vợ thăm nuôi vào được
đến Thanh Phong, gặp chồng rồi là cứ ôm chồng mà khóc. Người vợ đau khổ ấy
không dám nói cho người chồng xấu số biết chị vừa trải qua những khốn khổ nào.
Chỉ biết chị đi từ huyện Như Xuân vào đây chưa đầy 20 cây mà 2 ngày mới đến, phải
ngủ giữa rừng. Cái gì đã xảy ra cho người đàn bà miền Nam một nách
trên 30 ký quà cáp, không có xe phải đi bộ trên những con đường băng rừng lội
suối. Nếu đang đi mà trời mưa đổ xuống thì là tai họa. Suối đang nông lội qua
được, mưa xuống chẳng bao lâu là nó thành sông. Miền Trung đất hẹp, rừng không
giữ được nước, nên trời đổ mưa xuống là nó theo sông theo suối cuốn trôi ngay
ra biển. Suối liền trở thành sông. Người ở đâu ở đó làm gì có phương tiện sang
sông nước đang lên cuồn cuộn. Nước lên rất mau mà xuống cũng mau. Người đàn bà
đi thăm nuôi chồng phải nghỉ qua đêm ở một cái chòi vắng ven rừng. Đêm đến, những
“con người thú” đã khai thác đến tận cùng thân xác và của cải người đàn bà thân
cô thế yếu giữa rừng sâu. Sáng ra chị đã muốn cắn lưỡi tự tử, nhưng vì không muốn
bỏ rơi mấy đứa con nhỏ còn ở lại Sài Gòn, nên chị mới lê tấm thân nhơ nhớp đến
gặp chồng đang cải tạo. Quà cáp cũng bị cướp đi luôn. Hai vợ chồng cứ ôm nhau
mà khóc.
Câu chuyện đau khổ ấy, dù người chồng
câm nín không tiện nói ra nhưng dần dần anh em ai cũng biết. Nó trở thành một nỗi
âu lo âm ỉ trong đám tù cải tạo. Ai mà không mong một ngày nào đó được thăm
nuôi, được gặp vợ, gặp con. Nhưng nếu vợ con mình, thân nhân của mình phải hứng
chịu những tai vạ đau thương nhường ấy để được thăm nuôi mình thì khốn nạn cho
vợ con mình quá. Nhưng lo thì lo vậy, biết tính làm sao. Thân mình còn chưa chắc
là của mình thì còn lo cho ai được nữa. Trước sự kiện mất an ninh, cướp bóc, hiếp
đáp giữa đường như vậy trại cũng ra thông cáo là sẽ điều tra, sẽ trừng trị
nhưng chưa thấy biện pháp nào cụ thể.
Anh em Biệt Kích Dù thì ngược lại phản
ứng tức thời. Đa số anh em Biệt Kích Dù ở đây là “diện rộng” tỏa ra
đi lao động trên rừng. Trại Thanh Phong ngán ngại anh em Biệt Kích Dù
nhưng trong thực tế, trại “nể” anh em. Trại nể anh em Biệt Kích Dù vì tác phong
của họ, vì sự trên dưới một lòng của họ, nhưng lý do chính yếu nhất là vì Biệt
Kích Dù chính là cái “túi tiền” của ban Giám thị trại. Trại tù ở trên rừng, đâu
còn chấm mút được gì. Nhưng vì ở chốn rừng sâu, không ai léo hánh đến đây, nên
trại dễ làm mưa làm gió. Tục ngữ có câu “Nhất phá Sơn lâm, nhì đâm Hà bá”. Chỉ
cần có nhân công biết nghề rừng, có kỹ thuật và có sức. Điều này thì không ai
sánh được với Biệt Kích Dù. Rừng ở đây thuộc loại rừng đại ngàn nên gỗ quý thiếu
gì, lại còn có quế. Quế Thanh Hóa xưa nay vẫn có tiếng trong nền y dược Đông
Phương.
Bây giờ không còn bao nhiêu nhưng một
tổ anh em Biệt Kích Dù vẫn được lên rừng tìm quế cho trại trưởng Thùy “mồi”,
nhưng bên ngoài gọi là đi lấu nứa. Anh em diện rộng Biệt Kích Dù có 3 đội đi rừng
lấy gỗ. Lấy về trại xây dựng thì ít mà lấy gỗ súc đem ra Thanh Hóa bán chui thì
nhiều. Tôi được biết trại trưởng Thùy “mồi”, phân trại trưởng K2 Vũ B. ai cũng
được anh em Biệt Kích Dù lo sẵn mỗi người một số danh mộc (như lim, như sến,
cán bộ vừa vừa thì có gỗ thao lao, bằng lăng) đủ làm một căn nhà bề thế ở quê
nhà.
Anh em Biệt Kích Dù như vậy là một thứ
tù “thượng thừa” của trại. Tiếng nói của anh em rất được lắng nghe. Phần lớn
anh em Biệt Kích Dù là hạ sĩ quan, có một số là dân sự nữa. Chỉ có một sĩ quan
chỉ huy, đại úy Nguyễn Hữu Luyện. Chưa được gặp anh, nhưng tất cả anh em Biệt
Kích Dù nói đến người chỉ huy của họ với tất cả lòng kính mến. Rất ít người được
gặp vị sĩ quan Biệt Kích Dù này, vì anh không lao động, không đi ra ngoài. Tuy
vậy, một mệnh lệnh của vị chỉ huy Biệt Kích Dù đưa ra, dù là ở trong cảnh tù
đày, nhưng anh em Biệt Kích Dù vẫn tuân hành răm rắp.
Phản ứng trước sự mất an ninh con đường
từ huyện Như Xuân đến trại, anh em Biệt Kích Dù đề nghị mở một “dịch vụ chuyên
chở” từ huyện lỵ đến trại Thanh Phong. Lúc ấy đang có phong trào “hạch toán
kinh tế”. Anh em Biệt Kích Dù có kế hoạch đóng 2 cái xe trâu, do trâu của trại
kéo cùng với hai anh em Biệt Kích Dù phụ trách. Hai xe, một ra một vào, giúp
cho thân nhân của anh em cải tạo viên có phương tiện đi lại, khỏi phải gồng
gánh đi chân như trước, trại cũng có một nguồn thu ổn định. Hoặc có thể dùng xe
trâu để chuyên chở nông lâm sản hay hàng tiêu dùng cho trại và dân chúng. Đề
nghị này được chấp thuận và sau đó gia đình cải tạo viên tới thăm nuôi có xe
trâu chở hàng, chở người, tuy chậm nhưng mà chắc, không bị dân vùng đó hà hiếp,
bắt chẹt về giá cả gồng gánh – quà cáp và thân nhân tù cải tạo cũng được bảo vệ
an toàn.
Cùng một lúc với việc đóng xe trâu chở
hàng, chở người, anh em Biệt Kích Dù “diện rộng” đi “rỉ tai” khắp các vùng thôn
bản xa gần trong huyện Như Xuân “khẩu lệnh” của Biệt Kích Dù . Khẩu lệnh như
sau: “Thân nhân cải tạo viên ở trại Thanh Phong này là bà con ruột thịt của Biệt
Kích Dù. Anh em Biệt Kích Dù xưa nay không động đến ai, nhưng thằng nào con nào
động đến thân nhân anh em cải tạo, dù là về của cải, dù là về nhân thân, là Biệt
Kích Dù nhất định không để yên. Luật của Biệt Kích Dù là “mất một đền mười”. Động
đến thân nhân cải tạo viên, nhẹ là chặt chân, chặt tay, nặng là giết mà giết cả
nhà. Biệt Kích Dù không có gì để mất, đã nói là làm”.
Từ đó về sau, thân nhân cải tạo viên
trại Thanh Phong đi thăm nuôi an toàn tuyệt đối…
NGƯỜI CHỈ HUY BIỆT KÍCH DÙ
Hai cái xe trâu, một ra một vào từ trại
Thanh Phong tới huyện Như Xuân do anh em Biệt Kích Dù phụ trách không những
giúp cho thân nhân cải tạo viên thăm nuôi đi lại an toàn thuận tiện, mà còn là
một đường dây giúp chúng tôi liên lạc với “thế giới bên ngoài”? Muốn “bắn” một
cái thư khẩn cấp về Sài Gòn, muốn mua thuốc lào, thuốc lá, hay thuốc tây, báo
chí… cứ nhờ anh Biệt Kích Dù đánh xe trâu. Chiều nào, vào khoảng ba, bốn giờ là
xe trâu của anh Biệt Kích Dù cũng lịch kịch đi qua mấy lán của đội mộc, đội
rau, đội mía, đội nông nghiệp tụi tôi ven đường. Biệt Kích Dù hầu như quen biết
hết cán bộ coi tù. Anh em có “mánh” để giao thiệp với họ. Bao giờ anh em cũng
làm đầy đủ thủ tục đầu tiên: đồng quà, tấm bánh, ít ra cũng là điếu thuốc có
cán, hay là tờ báo. Cán bộ nào tới đây cũng nhờ vả anh em Biệt Kích Dù không ít
thì nhiều. Vài bó nứa sửa lại cái căn nhà, cây tre làm cột, ít vòng mây buộc lại
cái cổng, cái giàn hoa. Cán bộ có chức có quyền thì như đã nói, anh em Biệt
Kích Dù “đấm mõm” hết: không một bộ khung nhà bằng danh mộc thì cũng gỗ súc hay
đóng bàn đóng ghế. Trên 250 anh em Biệt Kích Dù ở K1 làm đủ mọi thứ nghề, cung
cấp nhân lực và kỹ thuật cho hoạt động của toàn phân trại K1. Diện rộng đi rừng
lấy gỗ, lấy nứa, lấy mây – ở nhà thì có các đội mộc, đội rèn, đội xây dựng, đội
chăn nuôi… anh em Biệt Kích Dù bao thầu hết. Tù thâm niên 20 năm có khác. Biết
rõ hết đường đi nước bước của cán bộ coi tù.
Tôi, Nguyễn Hữu Luyện, đại úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa… tôi chưa
thua các anh. Tôi mới thua một trận, chưa thua cuộc chiến này.
Trên nguyên tắc trại Thanh Phong K1 đặt
dưới quyền chỉ huy của trại trưởng, trung tá Công An Thùy “mồi”, nhưng trên thực
tế anh em Biệt Kích Dù suốt 20 năm tù đày gian khổ, vẫn tuân hành tuyệt đối mệnh
lệnh của vị chỉ huy của họ, đại úy Nguyễn Hữu Luyện. Đây là một con người huyền
thoại. Chúng tôi nghe đến tên anh từ lâu nhưng chưa bao giờ được gặp, vì anh
không đi lao động ở ngoài. Anh em Biệt Kích Dù đều tỏ ra rất nghiêm trang, rất
kính cẩn mỗi khi nhắc đến “ông thầy” của họ. Truyện về đại úy Biệt Kích Dù này
khá nhiều, đầy vẻ hoang đường, truyền thuyết. Đây là người sau 20 năm bị bắt vẫn
còn tuyên bố: “Tôi Nguyễn Hữu Luyện, đại úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa… tôi
chưa thua các anh. Tôi mới thua một trận, chưa thua cuộc chiến này”. – Bắt Nguyễn
Hữu Luyện đi lao động, anh nói: “Các anh có thể giam tôi, bắn tôi, nhưng danh dự
của một sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không cho phép tôi làm những công việc
mất nhân cách. Quy chế sĩ quan không cho phép tôi làm như vậy”.
Anh đã bị kiên giam nhiều năm tại rất
nhiều trại rùng rợn, dã man nổi tiếng nhưng Nguyễn Hữu Luyện trước sau vẫn là
Nguyễn Hữu Luyện, không thay đổi, không khiếp sợ, không khuất phục. Việc Nguyễn
Hữu Luyện, không đi lao động như mọi tù nhân khác từ gần 20 năm nay đã trở
thành một nề nếp đặc biệt, các trại tù ngoài Bắc dù muốn dù không đều phải chấp
nhận. Người ta chưa lường được hết quyền năng của Nguyễn Hữu Luyện đối với anh
em Biệt Kích Dù như thế nào. Khi cần Nguyễn Hữu Luyện ra lệnh là tất cả anh em
Biệt Kích Dù nghỉ hết. Như bữa ở trại Thanh Phong có một anh em Biệt Kích Dù ho
“tổn” nhiều năm không có thuốc nên anh “về nước Chúa”. Phần lớn các anh em Biệt
Kích Dù đều là người Thiên Chúa Giáo nhiệt thành, kể cả Nguyễn Hữu Luyện. Nói
chuyện với anh em Biệt Kích Dù họ đều nói “anh em lãnh tụ Ngô Đình Diệm, Ngô
Đình Nhu chúng tôi chưa có chết. Còn ẩn lánh đâu đó… Lãnh tụ chúng tôi ngày nào
đó sẽ trở về…”. Nghe anh em Biệt Kích Dù ho tổn nằm xuống, các đội Biệt Kích Dù
khi có lệnh xuất trại đều ngồi yên không đi làm. Họ nói “được lệnh của đại úy
Nguyễn Hữu Luyện, anh em Biệt Kích Dù ở nhà để lo hậu sự cho người anh em vừa mới
mất”. Cán bộ trực trại đến hỏi Nguyễn Hữu Luyện tại sao ngăn trở việc điều hành
của trại. Nguyễn Hữu Luyện trả lời: “Các anh tôn trọng đồng chí của các anh thì
chúng tôi cũng yêu thương đồng đội của chúng tôi. Nghĩa tử là nghĩa tận, anh em
chúng tôi phải ở nhà để một lần cuối cùng vĩnh biệt người nằm xuống”. Sau điều
đình mãi, chỉ có đội Biệt Kích Dù lo về cơm nước cho phân trại và bộ phận chạy
máy điện là đi làm, kỳ dư anh em Biệt Kích Dù khác đều nghỉ hết.
Gặp gỡ anh em Biệt Kích Dù, nghe chuyện
kể về đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện tôi vừa tự hào vừa buồn bã. Tự hào
vì đồng đội đã có những người kiệt xuất như vậy, buồn bã vì nhìn lại bản thân,
nhìn anh em xung quanh mình thấy khá nhiều người bất xứng. Những năm tháng
trong trại tù giữa rừng núi Thanh Phong, anh em Biệt Kích Dù đối với chúng tôi,
vừa là một đường dây yểm trợ vật chất, mà cao trọng hơn, còn là một nơi nương tựa
tinh thần.
Đang trông nom cho anh em dựng sân khấu
ở hội trường, chợt có một anh em Biệt Kích Dù đến bên tôi khẽ nói: “Anh Luyện
em mời anh vô trong lán uống trà”. Đi lên đây K1, ước mong thầm kín của tôi là
được gặp người sĩ quan Biệt Kích Dù truyền thuyết ấy. Xem con người thật và con
người “huyền thoại” giống nhau, khác nhau ra sao. Tôi vội vàng theo người anh
em Biệt Kích Dù đi vào trong lán. K1 cũng như K2, K3 lán tù thường tối và thấp.
Đi qua hai ba căn nhà dài hôi hám, mờ mịt tôi tới một căn buồng đầu lán. Vừa bước
chân vô chưa kịp định thần, tôi đã thấy một con người cao lớn, mắt sáng trán
cao đứng phắt dậy, chụm chân theo động tác quân sự, giơ tay chào đúng lễ nghi
quân cách, miệng nói: “Mes respects, mon colonel!”.
Tôi thảng thốt không biết phản ứng ra
sao? Đi tù 5, 6 năm nay, mình là giai cấp đang bị triệt tiêu, là tù nhân đứng hàng
thứ bét của nấc thang xã hội, tại sao lại có người chào mình trân trọng như vậy. “Mes
respects mon colonel” đây là lễ nghi theo kiểu Pháp. Bao nhiêu năm nay, có nghe
thấy, nhìn thấy kiểu chào này đâu. Mình bây giờ, là tù khổ sai biệt xứ, đâu còn
gì mà “kính chào trung tá”.
Tôi vội vàng tiến tới nắm lấy tay người
đang đứng cứng người chào tôi theo đúng lễ nghi quân cách mà hỏi: “Thưa anh,
anh là Nguyễn Hữu Luyện?” Người ấy, vẫn đứng nghiêm, chỉ đưa tay xuống rồi nói
tiếp: “Vâng thưa anh, tôi là Luyện”, “Anh Luyện ơi, anh làm vậy tôi khó xử quá,
thời buổi này, anh em mình gặp nhau là quý”. Lúc ấy, Nguyễn Hữu Luyện mới rời bỏ
tư thế đứng nghiêm, khẽ nói “Thưa anh, anh vẫn cứ phải cho phép tôi làm như vậy.
Dù sao chăng nữa, anh vẫn là đàn anh của tôi”.
Nguyễn Hữu Luyện học khóa 4 phụ Thủ Đức.
Tôi học khóa 2 có ra trường trước anh vài khóa thật, nhưng 20 năm qua, nếu anh
còn ở lại miền Nam, với khả năng ấy, thiện chí ấy, không biết anh đã lên tới cấp
nào, đâu có lẹt đẹt như tôi. Khóa 5 Thủ Đức đã có người lên tướng. Nhưng đối với
người như Nguyễn Hữu Luyện, theo tôi cấp bực là thứ yếu, nhân cách mới là chính
yếu. Ở trong quân đội miền Nam, về nhân cách, ai xứng đáng là đàn anh của đại
úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện bây giờ?
Sau một tuần trà, Nguyễn Hữu Luyện chậm
rãi nói nhỏ với tôi: “Có một “thằng em” vừa nhận được một cái tin rất lạ, rất mới.
May là lại được gặp anh hôm nay ở đây. Được biết anh vốn là một nhà báo. Xin
anh cho ý kiến về tin vừa mới nhận này”. Nói xong Nguyễn Hữu Luyện ra dấu cho một
anh em nào đó đứng gần bên “Gọi Th. lên đây”. Trước khi Th. tới, anh Luyện có
cho tôi hay Th. là một biệt kích dù cấp bậc thượng sĩ chuyên lo về truyền tin.
Th. là một chuyên viên về địa hạt này. Hai chục năm bị bắt nhưng Th. vẫn xử dụng
được tay nghề. Ở ngoài Bắc lúc ấy, tiêu chuẩn của một người “phấn đấu tiến bộ”
là đạt 3 Đ: xe đạp, đồng hồ và Đài (radio). Trong hàng ngũ cán bộ thì công an vốn
là một nơi an toàn mà “kiếm được”. Chỉ có hàng ngũ bộ đội là phải đi chiến trường
chết banh thây mất xác hoặc phải đóng quân ở những nơi đầu sóng ngọn gió nghèo
mạt rệp mà thôi. Cán bộ Công an tương đối có nhiều người đạt tiêu chuẩn 3 Đ.
Nhưng đài ngoài Bắc phần lớn thuộc loại xưa, khó xài, dễ hỏng. Vì vậy nên
chuyên viên truyền tin Th. luôn luôn có việc làm. Một lát sau, anh Th. lên gặp
chúng tôi. Anh nói rằng: “Em sửa đài cho cán bộ quanh năm không lúc nào hết việc.
Nhưng không bao giờ em sửa đài xong xuôi, rốt ráo. Lúc nào em cũng phải lấy cớ
này, cớ kia để giữ lại bên mình một cái đài “chạy được”. Em giữ lại để đeo “ê-cút-tưa”
vào nghe tin tức một mình. Thưa anh, tối hôm qua, mùng 1 Tết, chính tai em nghe
có một ông tướng Mỹ mà em không nhớ được tên đang ở Việt Nam, nói chuyện với
các nhà lãnh đạo Hà Nội về vấn đề cựu chiến binh Mỹ mất tích, về tù nhân chính
trị… Lần đầu tiên chính tai em nghe là những biệt kích nhảy dù ra Bắc đầu thập
niên 60 cũng được xét đến trong dịp gặp gỡ này. Thưa anh, vài chục năm nay nghe
đài, đây là lần đầu em nghe đài nhắc đến số phận tụi em. Chúng em là những người
bị bỏ quên, coi như đã chết rồi. Không số quân, không tên tuổi, không nơi nào
nhận. Chúng em là những người “đứt dây rơi xuống” luôn luôn sống ở một xó rừng
góc núi “trên không chằng, dưới không rễ”, không còn liên hệ gì với xã hội loài
người. Bây giờ em nghe tin ông tướng Mỹ sang Hà Nội nói đến số phận tụi em, em
nghe xong mà tự nhiên nước mắt chảy ròng ròng… không biết là mơ hay thật đây”.
Tôi vội cầm lấy tay người thượng sĩ Biệt Kích Dù mà nói: “Đúng đấy bạn ơi, thời
gian này ông tướng Vessey, đặc sứ (special envoy) của tổng thống Mỹ Reagan đang
viếng thăm Hà Nội. Các báo Việt Nam đều nhắc đến sự kiện này. Tin mà bạn vừa
nghe được rất đáng tin cậy”. Nguyễn Hữu Luyện vội chen vào “Làm sao mình tin được
đài Hà Nội”. Tôi nói tiếp “Đây là một sự kiện có tính cách quốc tế, truyền
thông thế giới đều theo dõi sự viếng thăm của tướng Vessey, nên đài Hà Nội dù
muốn dấu cũng khó lòng. Vả chăng thông tin của khối Xã Hội Chủ Nghĩa xưa nay chỉ
loan những tin nào có lợi cho họ. Tin bất lợi, họ quên đi ngay. Việc tướng
Vessey đến Việt Nam, ở bên trong chắc đã có một thỏa thuận nào có lợi cho Hà Nội
không mặt này thì mặt kia. Mình chưa biết được sự thỏa thuận ấy đến đâu, chi tiết
ra sao, nhưng việc loan tin sự hiện diện của đặc sứ Vessey đến Hà Nội, nhìn
chung là một chỉ dấu thuận lợi cho lũ tù nhân chúng ta, đặc biệt là đối với các
anh, những người mà trên 20 năm nay họ cố ý hay vô tình quên lãng”. Nguyễn Hữu
Luyện trầm ngâm “Như bản thân tôi và anh em chúng tôi ở đây đã từng rút kinh
nghiệm không nên tin tưởng nhiều quá vào người Mỹ” – “Đồng ý trên nguyên tắc,
nhưng trong số những người Mỹ còn nhớ đến đồng minh cũ, còn lưu ý đến số phận
khốn khổ của chúng ta thì ông Reagan này là số 1. Nếu năm ngoái cái tên Mỹ
khùng nào nó bắn ông ấy chết thì chúng ta còn vất vả hơn nhiều. Bây giờ đặc sứ
của ông Reagan, tướng Vessey sang đây có đích thân nhắc đến Biệt Kích Dù thì
tôi nghĩ sớm muộn trường hợp các anh sẽ được giải quyết. Các bạn có thể được về…”.
Một nụ cười mơ hồ trên khuôn mặt Nguyễn Hữu Luyện. Anh như nói một mình “Được về,
được về, mà về đâu…..”
o0o
Lời bình Mao Tôn Cương của tôi hồi đầu
năm khi lưu diễn ở K1 không ngờ được chứng nghiệm. Đến giữa năm 1982, có hai lượt
thả Biệt Kích Dù, mỗi lượt trên dưới 100 người. Chuyện không ai ngờ mà tới. Ông
tướng Vessey đặc sứ của tổng thống Mỹ Reagan đã giở lại chồng hồ sơ mật đầu thập
niên 60, can thiệp với Hà Nội để cho những Biệt Kích Dù bị giam trên dưới 20
năm ở nơi thâm sơn cùng cốc được trở về hội nhập với loài người. Cùng thời gian
đó chương trình “nước sông công tù” đem cải tạo viên đến khai hoang những vùng
rừng núi âm u (như trại Thanh Phong huyện Như Xuân giáp với Hạ Lào này) trở
thành nông trường, lâm trường, rồi đem gia đình cải tạo viên lên chỉ định cư
trú ở những chốn rừng sâu nước độc, cũng được dẹp bỏ luôn. Phần lớn anh em tù
chính trị được chuyển về Nam hay đổi đi trại khác. Đến cuối năm 1982, trại
Thanh Phong K2 chỉ còn lại trên 50 tù chính trị. Còn lại toàn là tù “đui, què,
mẻ sứt” già yếu, bịnh tật… hay là thuộc loại “không tiện cho về Nam”. Tôi thuộc
số trên 50 người còn lại này. Ngày 14 tháng 11 năm 1982 trên nguyên tắc phân trại
tù chính trị K2 giải thể. Những người tù còn lại đi ra K1. Ở đây tù chính trị sẽ
cùng anh em Biệt Kích Dù còn lại lên xe đi đến một trại khác ở Nghệ Tĩnh: Trại
Tân Kỳ.
VỀ TRẠI TÂN KỲ
Trại Tân Kỳ này là một trại “trung chuyển”. Bao nhiêu tù chính trị ra Bắc còn lại hồi 76-77 trước khi về Nam về tập trung ở trại nầy và có một số khác ở trại Ba Sao, Hà Nam Ninh. Trại Tân Kỳ này chứa đựng đủ loại tù: tù chính trị, tù CIA, tù Biệt Kích, tù Fulro, tù hình sự thứ dữ. Trại này có 2 khu, khu Tây và khu Đông. Chúng tôi gọi là “Tây Đức” và “Đông Đức” vì khu Tây tương đối dễ thở hơn khu Đông. Ở đây tôi gặp được nhiều loại người: ông Võ Tr. lãnh tụ VNQDĐ ở miền Trung, Quảng Ngãi, linh mục duy nhất Trần Hữu L., những ông tướng Fulro, mấy ông thủ tướng, bộ trưởng “chính phủ trong bóng tối” và đặc biệt tôi được ở cùng lán với người thủ lãnh Biệt Kích Dù. Chính trong thời gian này, vì chung đụng, gần gũi nên tôi mới được hiểu thêm về người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện.
Anh em Biệt Kích Dù về trại Tân Kỳ (Nghệ Tĩnh) chỉ còn độ trên 50 người. Vì có tay nghề riêng nên các anh em Biệt Kích Dù được biên chế về các đội chuyên môn như đội mộc, đội rèn, đội chăn nuôi… Riêng thủ lãnh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện lại chuyển đến một đội khác, đội rau. Tôi xưa nay đi tù cũng có chút “chuyên môn” nên ở đây, trại mới, tôi cũng được xử dụng đúng theo “tay nghề”: chuyên trị về phân và nước tiểu. Ở các trại, đội rau nào cũng cần đến loại phân bón này. Tôi nghiệm ra ở các trại cũ như Yên Hạ (Sơn La), Tân Lập (Vĩnh Phú), Thanh Phong (Thanh Hóa) và bây giờ ở đây Tân Kỳ, đồng nghiệp phân tro của tôi thường được tuyển lựa trong mấy ngành Quân huấn, Quân pháp hay Chiến tranh chính trị. Đồng nghiệp cũ của tôi là thượng tọa nguyên giám đốc Nha Tuyên úy Phật giáo, là mục sư Tin Lành, là thẩm phán Tòa án Quân sự, là giáo sư Trường Võ Bị Quốc Gia v..v… Ở đây thì đại loại cũng như vậy, ở khu Tây Đức này có 4 lán, có 4 người lo về nhà cầu thì 1 là biện lý, 1 là đại đức, 1 là ông thầy dạy Anh văn trường Chiến tranh Chính trị và tôi. Sự tuyển dụng “trước sau như một” này là chấp hành đúng tinh thần “Mao-ít”: “Chữ nghĩa không bằng cục phân”. Tôi lại nhớ đến thái độ của đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện khi anh nhất định không đi lao động. Ở đây cũng như ở các trại khác từ trên 20 năm qua, và đã trở thành biệt lệ, Nguyễn Hữu Luyện được biên chế về đội rau nhưng anh nhất quyết không đi làm.
Toán “nhà cầu” tụi tôi khoảng 10 giờ
sáng là công việc tạm xong. Phân, nước tiểu đã dọn sạch, chuyển cho đội rau.
Nhà cầu đã quét tước, rắc vôi. Lúc bấy giờ là lo đi tắm vì dù đã đeo khẩu
trang, bịt mũi bịt mồm, nhưng tự thấy thân thể mình hôi hám quá. Mùa nực được
đi tắm là một cái sướng, nhưng mùa rét mà phải đi tắm trong khi bụng đói cồn
cào lại là một cực hình. Nước suối lạnh cắt da, mấy tên tù mặt mũi xám xịt,
thân thể gầy còm, co ro run rẩy, ngần ngại đứng bên bờ suối. Nguyễn Hữu Luyện
không lao động, người luôn luôn sạch sẽ, nhưng ngày nào dù rét đến đâu Luyện
cũng cùng chúng tôi đi tắm. Người lội xuống suối đầu tiên là Luyện. Anh nói: “cứ
ào một cái là xong”. Cái lạnh ở miền Trung này đối với Nguyễn Hữu Luyện xem ra
không có nghĩa lý gì. Anh bao nhiêu năm nằm trong hốc đá ở trại cổng trời Hà
Giang. Bao nhiêu năm cùm kiên giam trong trại mục xương Cao Bằng. Ở miền cực bắc
nước ta, cái lạnh còn ác liệt hơn nhiều. Người tù Biệt Kích trên 20 năm, đi qua
mọi gian lao thử thách bằng một câu nói vô cùng giản dị: “Cứ ào một cái là
xong”.
Ở gần bên, trong cùng một lán, tôi thấy
Nguyễn Hữu Luyện sống như một thiền sư. Trong tù có một vấn đề hết sức quan trọng
là ăn. Ai cũng đói mờ người. Bữa ăn và cái ăn là giấc mơ lớn nhất của tù. Nhưng
đối với Nguyễn Hữu Luyện hình như anh coi rất nhẹ vấn đề ăn. Anh được phát đồ
ăn thế nào, ăn thế ấy, mà ăn rất lẹ, rất nhanh, không biết anh ăn lúc nào.
Không thấy anh phàn nàn bao giờ về vấn đề đói. Hình như anh ở tù lâu quá, đói
trở thành thường trực nên anh đã quen đi. Một vài anh em được thăm nuôi, hoặc nhận
quà, có lòng quý mến anh, biếu anh cục đường, nắm xôi, tấm bánh hay mời ăn một
bữa cơm, nhưng trước sau không thấy anh nhận của ai một tặng vật nào. Tôi một bữa
nhận quà có đưa đến anh một chiếc bánh chưng nho nhỏ. Anh nhất định chối từ.
Tôi mới nói: “Chỗ anh em sao anh kỹ quá”. Nguyễn Hữu Luyện cười cười, nắm tay
tôi mà nói nhỏ: “Bao nhiêu năm tôi tập cho cái bao tử nó đòi hỏi thật ít. Bây
giờ anh em cho tặng vật, ăn vào nó quen dạ đi thì lại khổ đấy anh ạ”.
Nhưng có một thứ mà ai cho anh cũng nhận.
Nhận một cách hân hoan. Đó là xà bông. Không hiểu sao, Nguyễn Hữu Luyện có một
nhu cầu về tắm rửa, về sạch sẽ một cách lạ lùng. Xà bông đối với anh thật là cần
thiết. Như đã nói ở trên, chúng tôi dân “nhà cầu” làm việc xong, mình mẩy hôi
hám nên cực chẳng đã mùa rét mà phải đi tắm. Nguyễn Hữu Luyện không đi lao động
mà trưa nào cũng ra suối với chúng tôi.
Nguyễn Hữu Luyện người rất cao, ít ra
là 1,75m. Quần áo trại phát anh mặc vào ngắn cũn cỡn. Người đã cao anh lại còn
đi đôi guốc mộc do anh đẽo lấy nên trông lại càng lênh khênh. Đi tù anh nào anh
nấy chân nứt nẻ, bè ra như tổ tiên giao chỉ, riêng Nguyễn Hữu Luyện chân trắng
bóc, gót đỏ hồng. Trông gót chân của người Biệt Kích Dù đi tù trên 20 năm tôi bỗng
nhiên nhớ đến 2 câu thơ của Vũ Hoàng Chương thuở nào:
Trong món đồ hàng ngày đi tắm của Nguyễn
Hữu Luyện có một vật rất lạ, rất ít có ở đây. Tù đi tắm thì cứ thế cởi truồng
ra, vục tay xuống suối mà kỳ cọ, tắm rửa. Hoặc buổi sáng có ra giếng rửa mặt
thì cũng chỉ mang cái thùng kéo nước với bàn chải đánh răng là cùng. Nguyễn Hữu
Luyện đi tắm khác với người ta, mang theo một cái chậu men xanh thật đẹp. Màu
men óng ả chói ngời…tương phản rõ rệt với màu cố hữu của trại tù là màu xám xịt.
Tôi mới hỏi Nguyễn Hữu Luyện: “Ở đâu mà có cái chậu men xinh đẹp vậy?”. Nguyễn
Hữu Luyện trả lời: “Tôi cũng không ngờ là tôi lại nhận cái chậu này. Của tên trại
trưởng trại “mục xương” ở Cao Bằng tặng cho tôi đấy. Cao Bằng giáp với biên giới
Trung Hoa nên vẫn có hàng lậu đi từ Trung Quốc sang. Cái chậu này là đồ làm từ
Quảng Châu có nhãn hiệu chỉ rõ. Dạo cuối thập niên 70, tên trại trưởng Thiếu tá
Công an nó hành tôi ghê lắm. Nhất định nó bắt tôi đi lao động. Tôi thì nhất định
không đi. Nó liền cùm chân. Cùm chán rồi đem xuống hầm tối. Rồi bắt nhịn ăn.
Mùa lạnh nó còn đổ nước xuống hầm nữa. Tôi người Công giáo nên tôi cầu Đức Mẹ
Maria, trong cơn thập tử nhất sinh, tôi cũng cầu luôn Phật Bà Quan Âm nữa. Nó
hành tôi mãi năm này sang năm khác mà cuối cùng tôi vẫn còn sống. Nhưng mà chết
thì thôi, tôi nhất định không đi lao động. Không chịu thua chúng nó”. – “Như vậy
thì tên trại trưởng này nó hận anh ghê lắm, tại sao nó lại tặng anh cái chậu
này?”- “Tôi cũng không biết nữa, hắn hành tôi luôn mấy năm, nhưng cuối cùng hắn
thả tôi ra khỏi hầm kiên giam. Một bữa hắn cho gọi tôi lên. Hắn nói: “Tôi sắp đổi
đi trại khác, có phải anh ưa tắm rửa lắm phải không? Tôi tặng anh cái chậu Trung
Quốc này”. Tôi từ chối nhưng hắn ta cứ để cái chậu lại, rồi bắt tay từ biệt. Chẳng
đặng đừng, tôi phải giữ cái chậu men xanh này, mà tôi cũng không hiểu tại sao hắn
lại làm như thế”.
TẤM HÌNH NHẬN ĐÊM CUỐI NĂM
Ở cùng lán tôi thấy Nguyễn Hữu Luyện
là một người ít nói, ít giao thiệp. Không đi làm, cả ngày tôi thường thấy anh
ngồi quay mặt vào tường, kiểu thiền sư diện bích. Nhưng không phải anh ngồi thiền
mà anh đọc sách. Một cuốn sách dày để trước mặt. Anh người Công giáo, tôi tưởng
anh ngày ngày đọc thánh kinh. Nhưng một hôm tôi biết là không phải. Một buổi
chiều anh mời anh bạn giáo sư Anh văn lại chỗ anh. Anh hỏi về văn phạm, về cách
đọc một vài chữ khó. Thì ra cuốn sách dày anh luôn để trước mặt là một cuốn tự
điển Anh Việt. Bạn tôi hàng ngày ngồi học thuộc từng trang tự điển. Tôi mới hỏi:
“Ông học Anh văn kiểu ấy thì bao giờ cho xong?” Luyện trả lời: “Được chữ nào
hay chữ nấy mà cũng để cho nó quên ngày quên tháng đi ông ơi”.
Nhưng học Anh văn, theo tôi nghĩ rất
khó mà tự học. Còn văn phạm còn cú pháp, còn cách đọc, cách nhấn…..làm sao cho
người ta hiểu. Ông bạn giáo sư Anh văn và tôi cùng dân “nhà cầu” nên ở gần
nhau. Thỉnh thoảng buổi chiều, buổi tối Nguyễn Hữu Luyện lại tới rù rì bàn chuyện
tiếng Anh. Ở trong trại cải tạo, tiếng nước ngoài, đặc biệt là tiếng Pháp, tiếng
Anh nguyên tắc là cấm chỉ. Nhưng dạo này ở Sài Gòn có phát hành tuần san Nga Sô
ấn bản tiếng Anh gọi là New Time. Vì nhu cầu đọc báo cũng như nhu cầu tìm học
tiếng Anh, nên tờ New Time anh em nhận được từ gia đình gởi tới khá nhiều. Thấy
sách báo của đàn anh Nga Sô vĩ đại là cán bộ trực trại gật đầu cho nhận. Anh em
đọc New Time với quan niệm “Nó nói gì, kệ cha nó – miễn là mình có tài liệu học
Anh văn”. Nguyễn Hữu Luyện là người tìm đọc New Time kỹ nhất.
Bây giờ tôi mới hiểu hơn hai chữ “về
đâu?” của Nguyễn Hữu Luyện. Không biết anh có còn gia đình, có còn người thân
chờ đợi? Trên 20 năm biệt xứ, không thư từ, không liên lạc, không tin tức….. đâu phải
người đàn bà nào cũng bền gan hóa đá vọng phu? Cái dấu hỏi sau 2 chữ “về đâu” của
Nguyễn Hữu Luyện là hoàn toàn hữu lý. Gần Tết năm nay, khi một số khá đông anh
em Biệt Kích Dù đã có tin tức…tôi băn khoăn, hồi hộp lo lắng cho tình trạng của
anh mà không dám nói ra. Đây là một vấn đề riêng tư rất tế nhị, có khi thiêng
liêng nữa, không nên vội vàng đề cập tới.
Một buổi tối Nguyễn Hữu Luyện đến với
tụi tôi, dáng điệu hấp tấp hơn thường lệ, trên tay không cầm tờ New Time như mọi
khi mà thay vào đó là một bao thư. Chuyến quà buổi trưa vừa tới có thêm một số
gói cho anh em Biệt Kích Dù, và trong gói quà mới có bao thư này. Gói quà gởi
cho một anh em Biệt Kích Dù khác, nhưng có một số hình ảnh nhờ anh Biệt Kích Dù
này gửi cho Nguyễn Hữu Luyện, anh vừa nhận được buổi chiều. Anh ngồi quay lại,
đưa hình cho chúng tôi coi. Hình ảnh một đám cưới. Cô dâu, chú rể đang đứng lạy
trứơc bàn thờ khói hương nghi ngút. Trên bàn thờ có tấm hình phóng lớn của thân
sinh cô dâu. Đôi trẻ vừa thành hôn đang cúi đầu trước người đã khuất. Tấm hình
trên bàn thờ nhìn kỹ đâu phải ai xa lạ chính là hình Nguyễn Hữu Luyện 20 năm về
trước. Nguyễn Hữu Luyện nói trong xúc động: “Khi tôi đi con gái đầu lòng tôi mới
có 4 tuổi, năm ngoái con tôi nó đã lấy chồng. Hơn 20 năm cách biệt không thư từ,
không tin tức, vợ con tôi tưởng rằng tôi đã chết”.
Đây là lần đầu tiên tôi thấy một giọt nước mắt ngập ngừng trên khuôn mặt phong sương của người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện. Trong đêm cuối năm giá buốt ở trại Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh, có 3 người tù cùng âm thầm nhỏ lệ trong đêm.
BẠN TÙ FULRO
Ở trại “Tây Đức” có 4 lán thì 3 lán là
tù chính trị ở cùng với tù Fulro, lán còn lại là tù hình sự. Trại Tân Kỳ này,
thời kỳ “phồn thịnh” chứa trên 1000 tù, bây giờ tù chính trị được đưa về Nam
khá đông nên cả hai khu “Đông Đức – Tây Đức” chỉ còn lại chừng 500 tù. Chúng
tôi ở đội rau cùng lán với anh em Fulro thuộc đội “củ quả”, chuyên trồng bí, trồng
khoai, trồng tra, trồng mía… Những anh em Fulro theo chức danh ghi trong “lý lịch
trích ngang” đều là những nhân vật lớn như thiếu tướng, chuẩn tướng, đại tá,
trung tá, thiếu tá v.v… nhưng thật ra chỉ là những đồng bào thiểu số
không biết chữ, nói tiếng Việt không bỏ dấu, rất khó nghe… luôn luôn cười nhe
hai hàm răng cà sát lợi. Sự ngây thơ, chân thật hiện rõ trong từng dáng điệu, từng
lời nói. Nghe, nhìn họ khó có thể tưởng tượng đó là tướng, tá trong mặt trận giải
phóng liên kết các dân tộc bị áp bức Fulro (Front unifié pour la libération des
races opprimées). Phong trào này đã phát khởi từ lâu, giữa những năm 60 và đã
gây phiền nhiễu không ít cho chính quyền miền Nam. Sau tháng 4 đen 1975 khi miền
Nam rơi vào tay cộng sản, phong trào Giải phóng các dân tộc bị áp bức Fulro không
những không tiêu trầm mà ngược lại Fulro lại trở thành một mặt trận võ trang chống
đối cộng sản rất mạnh mẽ tại miền Cao nguyên Trung phần thuộc Hoàng Triều Cương
Thổ cũ. Rất đông các đồng bào thiểu số thuộc nhiều bộ tộc ở Kontum-Pleiku bị bắt,
cho rằng có dính líu tới Fulro. Riêng ở trại Tân Kỳ này có tới hơn 200 tướng,
tá Fulro bị bắt giữ.
Chúng tôi tù ngụy quân, ngụy quyền, biệt
kích ở với anh em Fulro tương đối thuận thảo, không thấy anh em Fulro lộ vẻ
“căm thù” gì hết. Nhiều khi anh em còn tiếp tế củ khoai, đẫn mía… Anh em đội
rau thì đưa lại su hào, rau cải. Không nói ra nhưng tù chính trị và tù Fulro
thông cảm nhau trong tình cảnh “cùng một lứa bên trời lận đận”. Nhưng một buổi
tối có một sự kiện không ngờ xảy ra. Trong số anh em Fulro ở lán tôi có một anh
còn trẻ, nghe nói là thiếu tá, trước đây có đi lính Biệt Kích Mũ Xanh (green
beret) của Mỹ hoạt động trên vùng Cao nguyên “Hoàng Triều Cương Thổ”. Anh này
chắc làm việc lâu ngày bên người Mỹ, nên ở nơi anh hiện ra một sự kiện nghịch
thường. Anh không biết chữ nhưng ngược lại nói tiếng Anh rất “chạy”. Anh nói tiếng
Anh dễ hơn, giỏi hơn nói tiếng Việt nhiều, một loại tiếng Anh người ta thường
nghe thấy nơi các ghetto ở Mỹ. Tâm tính anh cũng là một sự cộng hưởng kỳ lạ,
cái thơ ngây man dã ở bên cái khôn lanh quỷ quyệt. Anh có củ khoai, khúc sắn
thì anh đánh đổi lấy rau, lấy đường với anh em tù chính trị “tiền trao cháo
múc”. Đêm nằm anh nghêu ngao một bài hát núi rừng nào đó, nghe không hiểu được
nhưng phảng phất một nổi buồn rờn rợn, trầm thống như nghe một khúc spiritual của
người da đen ở Hoa Kỳ. Anh thạo nghề mưu sinh trong rừng nên anh luôn luôn bắt
được cá, lươn, ếch, nhái, có khi rắn nữa để cải thiện bữa ăn. Ăn không hết anh
mới bỏ những con vật ấy vào trong một cái hũ sành để làm một thứ mắm riêng. Cái
hũ sành nầy anh để dưới sàn, gần chỗ đầu nằm. Lâu ngày mắm có mùi, anh thì chịu
được nhưng mấy anh em tù chính trị nằm gần chịu không nổi mới nói với anh trực
buồng. Anh trực buồng, một anh công binh già cận thị phải nhờ một anh Fulro có
tuổi, nghe nói là đại tá, nói với anh bạn thiếu tá Fulro xin dời cái hũ mắm của
anh đi chỗ khác. Anh này nghe xong gạt phăng ông già đại tá sang một bên rồi
vùng vằng đi nằm, hết sức bất bình. Cái hũ mắm càng ngày bốc mùi càng nặng, nên
một buổi nhân mọi người đi làm hết, anh trực buồng mới mang cái hũ ấy ra ngoài,
đặt ở sau lán, bên đống củi. Đi làm buổi chiều về khi lán đã đóng cửa, anh thiếu
tá Fulro mới nhận thấy cái hũ mắm của anh không còn ở chỗ cũ. Anh nổi giận đùng
đùng, chửi mắng loạn xạ. Một người nào đó mới chỉ anh trực buồng. Anh này chạy bay
đến chỗ anh trực buồng già cận thị, nắm ngực áo lôi xền xệch hét lên: “Sao mày
lấy của tao, I’m gonna to get you, to kill you…” (Tao sẽ đánh mày, giết mày). Một
anh Fulro có tuổi ở gần đấy liền đứng dậy, định can ra; anh Fulro trẻ tuổi đang
cơn nóng giận, đẩy anh Fulro già ngã chúi, kéo áo anh trực buồng rách toạc, cái
kính cận văng xuống đất. Người ta không biết sự thể sẽ diễn biến ra sao khi anh
Fulro đang lên cơn điên loạn rừng rú. Bỗng có một người cao lênh khênh bước tới,
đó là tay thủ lãnh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện. Không biết bằng một chiêu thức
Judo hay cẩm nã thủ tuyệt vời nào, hai tay của anh Fulro điên loạn đã bị khóa
chặt. Anh Fulro vùng vẫy nhưng không thoát ra được. Nguyễn Hữu Luyện nói gằn giọng:
“Đừng làm ồn”. Tay Fulro hét lên: “It’s none of your business” (không phải
chuyện anh đừng dính vô). Luyện ôn tồn nói tiếp: “Chuyện không đáng gì. Sáng
mai chúng ta gặp nhau giải quyết”. Không biết lời nói của tay thủ lĩnh Biệt
Kích Dù có một mãnh lực gì mà sau đó tay thiếu tá Fulro đang trừng trợn bỗng
nguôi đi, nhìn xuống đất, Nguyễn Hữu Luyện dừng tay khóa, nhẹ nhàng vỗ vai anh
Fulro, khẽ nói “Thôi đi nghỉ đi….”.
Sáng sớm hôm sau trước khi đi làm, hai
người (anh thiếu tá Fulro và Nguyễn Hữu Luyện) có gặp nhau và không hiểu sao
cái hũ mắm được để lại ngoài lán, bên đống củi. Mối giao hảo giữa anh em tù
chính trị với tù Fulro, tưởng rằng sau vụ này sẽ căng thẳng, không ngờ ngược lại,
nó tốt hơn lên, kiểu “đánh nhau vỡ đầu rồi mới nhận anh em”. Tay Fulro Biệt
kích mũ xanh bây giờ mới nhận ra “ông thầy”, ở nơi thủ lãnh Biệt Kích Dù Nguyễn
Hữu Luyện. Thỉnh thoảng buổi tối tôi lại thấy anh bạn Fulro tới chỗ Nguyễn Hữu
Luyện nói tiếng Anh, nói bất cứ chuyện gì để cho Nguyễn Hữu Luyện luyện
“accent”. Có khi anh ta còn đem tới củ khoai, đẫn mía nữa, nhưng theo như cựu lệ,
Nguyễn Hữu Luyện chỉ cám ơn mà không nhận bao giờ.
Sau khi những tấm hình của vợ con anh
nhờ một anh em Biệt Kích khác được gởi tới trại Tân Kỳ, tôi một bữa mới hỏi
Nguyễn Hữu Luyện “Tại sao anh không có thư, có quà riêng của gia đình?” Trầm
ngâm một lát Nguyễn Hữu Luyện mới nói: “Thực tình tôi không nghĩ là vợ con tôi
còn đó, đợi chờ tôi. Khi một số anh em Biệt Kích Dù được về, tôi có nhờ anh em
kín đáo đi tìm hộ….Rất may là đã tìm ra. Vợ con tôi đã rời Sài Gòn, xuống Cần
Thơ sinh sống. Tôi cũng đã dự phòng trường hợp này. Gần 20 năm nay vợ con tôi,
anh em, họ hàng, bè bạn tôi nghĩ rằng tôi đã chết. Thôi cứ để như thế cho tiện,
chết là hết, phải không anh. Không phiền ai, gây trở ngại cho ai. Nhược bằng vợ
con tôi còn nghĩ đến tôi, còn chờ đợi tôi thì đó là ơn riêng của Chúa đã ban
cho. Nhưng tôi đã nói trước là vợ con tôi nếu còn đó, khi nhận được tin tôi thì
không bao giờ được viết thư, được gửi quà. Nhận thư nhận quà rồi là tôi phải trả
lời. Làm sao mà mình không thương vợ, thương con mình cho được. Xưa nay mấy chục
năm ở các trại tù, mình là thằng trọc đầu, trên không chằng dưới không rễ, họ
không nắm mình vào đâu được. Bây giờ mình thương vợ mình, thương con mình, họ đọc
thư, họ biết như vậy, thì mình không sống được yên đâu anh ơi. Họ không hành được
mình, bây giờ họ hành vợ con mình để bắt mình quy phục, thì làm sao đây thưa
anh. Cho nên tôi không muốn nhận thư, nhận quà riêng là vì thế…”
ĐỨNG VỮNG KHÔNG LÙI
Có lẽ trại Tân Kỳ này trươc đây đã xây
dựng trên một vạt rừng. Trong sân trại còn một số cây cổ thụ còn sót lại. Ở cuối
sân “tập kết” bên “Tây Đức”, trước cửa mấy lán tù có một cây đa cổ thụ. Cụ Nguyễn
Du đã nói “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Ở đây không những người buồn,
(một lũ tù nhân rạc rài đói cơm thiếu áo xác xơ như một lũ vượn người thời mông
muội) mà cây lá cũng buồn theo. Cây gì mà khẳng khiu, trơ trụi, không còn một
chút màu xanh, chỉ có những rễ phụ nâu đen rũ xuống, trông giống như một ông
già đầu râu tóc bạc đang đứng giơ tay chịu tội giữa trời. Xưa nay cây thường là
một biểu tượng thuần hậu của thiên nhiên: cây cho lá cho hoa, cho bóng mát, cho
nơi che chở, cho chim ca và gió hát. Ở đây thì ngược lại; cây đa già trơ lá trụi
cành đang biểu tượng cho sự tàn bạo của con người và sự lạnh lùng của thiên
nhiên khắc nghiệt. Lũ tù nhân chúng tôi ít khi dám ra chơi dưới gốc cây đa. Những
cái rễ ngoằn ngoèo nổi lên sần sùi trông giống như một đàn trăn gió đang rình mồi,
những hốc tối mò làm liên tưởng đến hang ổ của lũ cáo, chồn, rắn rết, nhưng điều
chúng tôi ngại nhất là bên gốc cây đa này nghe nói đã có hơn một người tù treo
cổ chết. Người tù treo cổ thường thiêng lắm. Tiếng bình dân gọi là “có hương”.
Con ma treo cổ thường dẫn dụ một người nào khác kết liễu cuộc sống giống như
mình để oan hồn uổng tử kia được đầu thai kiếp khác.
Hôm ấy vào khoảng cuối tháng 3 năm
1983. Trời dù đã cuối Xuân nhưng cái lạnh miền bán sơn địa vẫn còn buốt giá.
Như thường lệ buổi sáng các đội ra sân tập kết ngồi xuống, đợi điểm danh xuất
trại đi làm. Chợt một tiếng thét thất thanh vang dậy, phát ra từ cuối sân tập kết,
phía cây đa. Mọi người nhìn lên, một bóng người đang đứng trên chạc ba của cây
đa trụi lá, vươn cổ ra hò hét: “Tộ cha bây. Bây hại dân hại nước. Bây hại con
tao, hại vợ tao. Tộ cha bây, bất nhân, vô hậu…”. Cán bộ trực trại vội vàng đi lại
gốc cây đa, giơ tay quát nạt “Anh kia, anh chửi ai?”- “Tao chửi bây, chưởi tổ
cha tụi bây”. Một công an bảo vệ xách carbine chạy tới, kéo “cu lat” loạch xoạch.
“Anh kia, xuống ngay”. Một phát súng nổ vang lên; mọi người giật mình nhưng
nhìn lại, đó chỉ là phát súng chỉ thiên, bắn dọa… Người đứng trên cây, nhìn kỹ,
cổ đã quàng sẵn vào một sợi dây thừng buộc vào một cành cây cao cạnh đó. Người
đó nói như thét: “Bắn cho tao một phát đi, tao khỏi thắt cổ”. Cán bộ trực trại
giơ tay, anh công an bảo vệ hạ carbine xuống. Người đứng trên cây tiếp tục chưởi
bới, tiếp tục hò hét, trong khi cán bộ trực trại hấp tấp đi ra trước sân tập kết,
vội vã thổi còi ra lệnh xuất trại gấp. Tù nhân vừa xúc động vừa tê điếng trước
phản ứng bất ngờ của một bạn tù. Các đội hôm nay được ra khỏi trại rất mau, rất
vội. Trại không muốn các tù nhân ở lại nghe những lời chửi rủa tận từ kia. Anh
em xì xào “Ai đấy nhỉ?”- “Nghe như tiếng Th. thiếu tá địa phương quân người Huế
hay Quảng Bình, Quảng Trị”- “Đúng hắn rồi còn ai nữa, nghe đâu ít lâu nay hắn bị
tâm thần”.
Các đội tù xuất trại hết rồi. Sân tập
kết trở lại vắng người, im ắng. Tiếng chưởi rủa của thiếu tá Địa Phương quân
Th. vẫn còn róng rả: “Tộ cha bây, bây giết con tao”. Mấy tên làm việc trong trại
như đội “nhà cầu” tụi tôi vẫn tiếp tục làm việc nhưng không ngớt băn khoăn, lo
lắng cho người bạn tù đang nổi cơn điên loạn. Ông bạn đồng nghiệp nhà cầu, Đại
Đức Như L. cho hay “Tội cho anh ta lắm. Anh ta đi tù cải tạo mà con trai mới lớn
lên ở nhà lại phải đi “nghĩa vụ” sang Campuchia. Anh vừa nhận tin con trai anh
mới chết; chết mà không mang được xác về. Vợ anh ta là cô giáo, nghèo sát ván,
ngất đi khi nhận được tin con và từ đó bịnh luôn. Đi làm lương không đủ nuôi
con, làm gì có quà cáp cho chồng nữa. Th. lâu nay là con bà phước. Ở nhà vợ anh
ta ốm nặng, đứa con gái phải nghỉ học ở nhà nuôi mẹ, nuôi em. Đứa em trai út khốn
thay lại bị bệnh tâm thần ngớ ngẩn. Cả nhà bây giờ trông vào một cô con gái mới
đâu 15, 16 tuổi. Đêm nằm anh Th. thường ú ớ gọi vợ, gọi con… Anh ta vẫn đi làm
được, không ngờ sáng nay anh ta lại phản ứng bất thường như vậy…”
Anh Th. vẫn đứng trên cây, vẫn chửi bới,
hò hét. Nhưng tiếng chửi bới, hò hét thưa dần vì không còn “đối tượng”. Vào khoảng
9 giờ sáng, trại trưởng Trung tá công an T. mới từ từ đi tới gốc cây đa nói:
“Anh Th., có chuyện gì xuống đây tôi giải quyết”.- “Bắn cho tôi một phát đi,
tôi không xuống”. Thấy không xong, trại trưởng liền đi vào trong lán tù. Hình
như y đi tìm một người nào đó. Tôi được nghe nói là Trung tá công an đi tìm đại
úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện. Trời đã gần đứng bóng. Anh bạn tù nổi cơn
điên vẫn đứng trên cây, cổ quàng sẵn vào một vòng dây thừng oan nghiệt. Chợt có
một bóng người cao lênh khênh đi ra đứng dưới gốc cây đa. Đó là Nguyễn Hữu Luyện.
Hai người đứng nói chuyện gì với nhau không rõ. Nhưng sau đó người tù nổi cơn
điên Th. tháo bỏ cái vòng dây oan nghiệt ra khỏi cổ, và từ từ trèo xuống. Nguyễn
Hữu Luyện đỡ người bạn tù bước xuống đất và dìu anh ta vào trong lán. Không biết
người thủ lãnh Biệt Kích Dù đã nói những gì, đã làm thế nào để cho người tù khốn
khổ kia trở lại với cuộc đời.
o0o
Những ngày tiếp theo đó cả trại Tân Kỳ
nín thở theo dõi hậu quả đến với người tù cựu Thiếu tá Địa Phương Quân. Hậu quả
đầu tiên là biên chế lại. Tù đội này đổi sang đội kia, từ lán này sang lán
khác. Giản bớt khu “Tây Đức”. Cho một số đội sang khu “Đông Đức”. Mỗi lần biên
chế là mỗi lần trại phá bỏ những khuôn sinh hoạt tinh thần cũng như vật chất của
tù gây dựng được trong những tháng ngày qua. Đội mới, chỗ mới, bạn mới. Cái
thân quen vừa tạo lập đã mất đi. Chủ trương của trại tù là luôn luôn bắt tù
nhân ăn ở trong một tình trạng tạm thời, nghi ngờ, bất trắc.
Sau vụ biên chế này, tôi vẫn làm công
tác nhà cầu nhưng không ở cùng lán với Nguyễn Hữu Luyện nữa. Ba ngày sau, một
chuyến xe GMC (lấy được của miền Nam) chở một số tù mới đến trại Tân Kỳ.
Tôi vội chạy ra xem có gặp lại người quen? Tưởng bạn tù nào xa lạ, hóa ra toàn
là bạn cũ. Đây là chuyến xe chở một số các linh mục tuyên úy Công giáo từ trại
Bình Đà ngoài Bắc đổi trại vào miền Trung. Các bạn tù linh mục này năm ngoái
tháng 4, 1982 đã từ biệt tụi tôi ở trại Thanh Phong ra Bắc. Tôi gặp lại bạn cũ,
đội trưởng đội rau kiêm đội trưởng văn nghệ nghiệp dư, linh mục Nguyễn Quốc T.
Chúng tôi ôm lấy nhau, linh mục Nguyễn Quốc T. nói “Xã hội tù xoay chuyển vòng
tròn. Mình lại gặp nhau ở đây, mừng quá”.
Nhưng cái mừng của người bạn cũ không
được lâu. Ngày hôm sau (tôi nhớ là ngày 23 tháng 3, 1983), chuyến xe GMC lại chở
một số tù từ trại Tân Kỳ đi nơi khác. Trong số 33 người tù di chuyển kỳ này có
tên tôi. Chuyến xe đi vội vã. Ngồi trên xe chật cứng, tôi giơ một bàn tay vẫy vẫy.
Từ biệt trại Tân Kỳ, từ biệt những người bạn tù đã cùng tôi trải qua một thời kỳ
gian khổ. Tôi nhìn thấy trong lán tù ở lại có những bàn tay vẫy theo. Trong số
những bàn tay tiễn biệt kia, biết đâu chẳng có bàn tay của người tù kiệt xuất
Nguyễn Hữu Luyện. Tôi không được gặp lại các anh từ ngày ấy, đến nay thấm thoát
đã 12 năm rồi. Xin những anh em tù cải tạo nào từng có mặt tại trại Tân Kỳ đầu
năm 1983, hiện giờ ở hải ngoại tình cờ đọc đến những dòng này, nếu các anh được
biết tin gì về người bạn tù khốn khổ của chúng ta Thiếu tá Th. Địa Phương Quân
xin các anh vui lòng cho tôi được biết.
Đặc biệt về người tù kiệt xuất Nguyễn
Hữu Luyện tôi lúc nào cũng nhớ anh, cũng cảm phục anh, nhưng có một điều tôi hứa
với anh mà tôi không giữ được tròn. Một buổi sau khi anh cho tôi xem tấm hình
con gái anh bữa lấy chồng, đang cúi lạy trước chân dung người cha đã khuất (là
anh) tôi mới nói với anh rằng “Sau này nếu có dịp tôi sẽ kể, sẽ viết ra chuyện
này”. Anh nắm tay tôi mà nói: “Thôi đừng anh ạ, mình xét ra cũng chỉ làm nhiệm
vụ của một người lính tình nguyện gia nhập cuộc chiến tranh bí mật. Quy luật của
nó là thế thì mình đành phải chịu, thưa anh”.
Nhớ lời nhắn nhủ của anh, nên mấy năm
nay ở nước ngoài, có dịp viết đôi ba bài báo tôi đã muốn lắm, muốn được kể chuyện
người tù kiệt xuất là anh và đồng đội của anh, những anh em Biệt Kích Dù bất
khuất. Nhưng tôi cứ đắn đo e ngại mãi. Bây giờ tôi được biết rõ là anh đã tới
Hoa Kỳ được một thời gian và anh đang đứng ra lo lắng cho một số anh em Biệt
Kích Dù đồng đội của anh làm thủ tục xuất ngoại. Chuyện Biệt Kích Dù trên 30
năm cũ tưởng đã nằm im trong cát bụi lãng quên bây giờ đang được mở lại hồ sơ.
Cho nên bữa nay tôi mới dám viết ít dòng này với tư cách của một người bạn tù
cùng trại nói ra những điều tai nghe mắt thấy…..
Phan Lạc Phúc
Trong chiến tranh các anh là những chiến sĩ anh dũng, khi ngã ngựa các anh là những nam nhi uy dũng. Kính phục và tri ân các anh. Mong con cháu chúng ta sẽ được đọc lịch sử trung thực về người lính VNCH.
ReplyDelete