Sunday, April 27, 2025

Còn Đây Nỗi Nhớ Tháng Tư - Giáng Xưa & Nhớ Tháng Tư Buồn - Trầm Vân Họa


 

Hồi Ức Sài Gòn Thời Lính Tráng - Nguyễn Ngọc Chính

 

Ngôn ngữ Sài Gòn trước 1975 mang đậm chất “lính”. Cũng là điều dễ hiểu vì miền Nam khi đó đang trong thời kỳ “leo thang chiến tranh” với lệnh “tổng động viên” trên toàn lãnh thổ. Thanh niên đến tuổi 18 đều bị “động viên” vào quân ngũ, chỉ trừ một số trường hợp được “hoãn dịch” vì lý do sức khỏe, gia cảnh hoặc học vấn.

“Đi lính” là một thuật ngữ xuất hiện thường xuyên trên đầu môi cũng như trong tâm thức của mọi người. Bậc cha mẹ lo lắng khi con cái đến tuổi “quân dịch” còn thanh niên thì đứng trước một ngã rẽ quan trọng của cuộc đời: “xếp bút nghiên theo việc đao cung”. Mối lo của họ được thể hiện qua ám ảnh “Thi rớt tú tài…” và còn bi đát hơn với hai câu thơ:

Rớt tú tài anh đi trung sĩ,

Em ở nhà lấy Mỹ cho xong…

Nhạc phẩm Thà như giọt mưa cũng nói về chuyện “thi hỏng tú tài” và kết quả là phải “đợi ngày đi lính”. Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên viết bài thơ này cho một người con gái tên Duyên, sinh viên trường Luật, và người yêu… “lạc đệ tú tài”. Nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ nhạc để biến thành một bản nhạc buồn man mác:

Người từ trăm năm về qua trường Luật

người từ trăm năm về qua trường Luật

ta hỏng Tú Tài ta hụt tình yêu

thi hỏng mất rồi ta đợi ngày đi

đau lòng ta muốn khóc

đau lòng ta muốn khóc

Thời nào cũng vậy, những thành phần COCC (chữ tắt của cụm từ Con Ông Cháu Cha), bao giờ cũng có cách luồn lách để khỏi đi lính. Người Sài Gòn thường dùng chữ “trốn lính” hay “trốn quân dịch”. Một trong những cách “trốn lính” là tìm đường cho các “quý tử” đi du học, hay cùng lắm, khi bị “bắt lính” các bậc cha mẹ lo “chạy” để con được phục vụ trong các đơn vị không tác chiến, làm “lính văn phòng” hay còn một thuật ngữ rất phổ biến là “lính kiểng”. Người ta thường chưng hoa kiểng, cây kiểng để làm đẹp căn nhà nhưng “lính kiểng” lại chính là một hình thức “tự làm đẹp đời mình” trước những viễn cảnh u ám của chiến tranh, bom đạn, chết chóc vẫn xảy ra hàng ngày.


Đôi khi loại “lính kiểng” còn được gọi qua cái tên nghe khá ngộ nghĩnh nhưng cũng rất thâm thúy: “lính cậu”. Chả là thứ lính này xuất thân từ những “cậu ấm” trong các gia đình quyền thế hoặc giàu có. Đây là loại “lính nhưng không phải là lính” nếu đem so sánh với những chiến binh ngày đêm phải đương đầu với súng đạn tại những tiền đồn heo hút hay rừng sâu núi thẳm, cách biệt hẳn với chốn phồn hoa đô hội. Xem ra câu “huynh đệ chi binh” không phải lúc nào cũng đúng như ý nghĩa vốn có của nó.

Hầu như cả thế hệ thanh niên miền Nam, kẻ trước người sau, đều lần lượt rời ghế học trò để khoác trên mình bộ quần áo lính. Đó có thể là sắc áo “rằn ri” của các binh chủng dữ dằn như Nhảy dù (được “thần tượng hóa” thành “thiên thần mũ đỏ”). Lực lượng đặc biệt, Biệt cách dù (Airborne Ranger, Liên đoàn 81 Biệt cách dù trong trận chiến An Lộc đã nổi tiếng với 2 câu thơ: "An Lộc địa, sử ghi chiến tích. Biệt Cách Dù vị quốc vong thân) hay Thủy quân lục chiến đội trên đầu chiếc mũ “mũ be-rê xanh” còn Biệt động quân thì lại chọn màu mũ nâu.

Tuy nhiên, mũ be-rê chỉ dùng khi về phép và các dịp đặc biệt, khi ra trận mọi quân binh chủng đều đội chiếc “mũ sắt” phía bên trong có lót lớp “nũ nhựa” để bảo vệ phần đầu. Trên nguyên tắc là vậy chứ nhiều khi đạn có thể xuyên thủng “mũ sắt” nếu bắn từ khoảng cách gần.

Lính bộ binh thì “hiền” hơn với bộ kaki, sau này được thay thế bằng bộ quân phục “bốn túi”, áo bỏ ngoài quần, giống như lính Mỹ. Đặc điểm của bộ binh là phải “gom ống quần” trong khi Không quân và Hải quân được thả ống quần, “lè phè”, thoải mái. Cũng vì thế lính không quân và hải quân sợ nhất là bị “gom ống quần lội bộ”, thuật ngữ ám chỉ bị thuyên chuyển sang bộ binh để đi tác chiến.

“Giày trận” được gọi là “bốt đờ sô” (botte de saut), có loại hoàn toàn bằng da nhưng sau này có loại giày kết hợp giữa da và vải, rất nhẹ trong những chuyến lội rừng, băng suối. Lính “địa phương quân” hay “nghĩa quân” thì hẩm hiu hơn với những đôi giày bằng vải bố, được gọi tắt là “giày bố”, kiểu như giày “ba-ta” nhưng cổ cao hơn giày thường.

Ngay khi bắt đầu trình diện tại các Trung tâm Tuyển mộ Nhập ngũ, thanh niên dù “đăng lính” hay bị “bắt lính” cũng đều phải qua một trong những thủ tục là làm “thẻ bài”. Tấm “thẻ bài” là vật bất ly thân, được đeo trên cổ trong suốt thời gian tại ngũ của quân nhân. “Thẻ bài” tựa như tấm lắc đeo ở cổ con chó nên người Mỹ gọi nó bằng cái tên… “dog tag”!

Mỗi quân nhân bắt buộc có 2 tấm “thẻ bài” bằng kim loại không rỉ, được đeo bằng sợi dây cũng bằng kim loại. Trên mỗi tấm có ghi họ tên, “số quân” và loại máu để khi bị thương, cần tiếp máu, quân y biết ngay loại máu gì. Khi người chiến sĩ tử trận, một tấm thẻ bài được bỏ trong miệng tử sĩ và tấm kia đơn vị sẽ giữ lại để làm tài liệu báo cáo.

Tôi sinh năm 1946 nên có hai số đầu là 66: 66/168.566. “Số quân” của người lính tựa như “số an sinh xã hội” (social security number của Mỹ gồm 9 số), số “căn cước” (thời VNCH) hay chứng minh nhân dân (thời CHXHCNVN).

Bài hát “Tấm Thẻ Bài” (http://www.youtube.com/watch?v=UDuscC0xDe) qua tiếng hát “liêu trai” của Thanh Thúy đã gây nhiều xúc động trong lòng người nghe và mãi đến bây giờ, mỗi lần được nghe lại bài hát nầy hoặc là nhìn thấy lại hình tấm thẻ bài chúng ta càng thấy ngậm ngùi và thương tiếc những chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua. Nhạc sĩ Huyền Anh đã viết những câu thật xúc động:

Sau cuộc chiến này còn chi không anh?
Còn chi không anh?
Hay chỉ còn lại tấm thẻ bài
Đã mờ mờ mang tên anh.
….
Anh đã đi, đã đi vào vùng biển đời người
Anh ngủ yên, ngủ yên như cỏ úa
Anh ơi sau cuộc chiến này
Có còn chi để lại
Hay chỉ còn tấm thẻ bài mang tên anh

Trong số các món quân trang, quân dụng được cấp phát, ngoài chiếc balô người lính còn có poncho là một tấm vải mưa trùm đầu theo kiểu vải khoác của người Nam Mỹ. Poncho lại còn có một công dụng mà bất cứ người lính nào cũng chẳng muốn sử dụng: poncho sẽ được dùng để khâm liệm xác của tử sĩ bỏ mình trên chiến trường.

Bài hát Kỷ vật cho em có một đoạn rất bi thương:

Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về.
Anh trở về chiều hoang trốn nắng
Poncho buồn liệm kín hồn anh
Anh trở về bờ tóc em xanh
Chít khăn sô lên đầu vội vã.. Em ơi!

Bài hát này do nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc từ bài thơ Để trả lời một câu hỏi của Linh Phương. Ca khúc ra đời vào năm 1970, trong thời kỳ cuộc chiến tranh Việt Nam đang leo thang và trở thành một trong những bài hát nổi tiếng nhất tại miền Nam. Đã có một thời, bản nhạc bị chính quyền cấm đoán vì làm “nản lòng chiến sĩ” đồng thời “băng hoại hàng ngũ quân đội” dù Phạm Duy đã cố gắng sửa câu “Không về bằng chiến thắng Pleime” của Linh Phương thành “Có thể bằng chiến thắng Pleime”.

Lời bài hát rất thật nhưng cũng không kém phần bi lụy với những ngôn từ như “anh trở về, có khi là hòm gỗ cài hoa, anh trở về bằng chiếc băng ca, trên trực thăng sơn màu tang trắng”… “anh trở về trên đôi nạng gỗ, anh trở về, anh trở về bại tướng cụt chân. Em ngại ngùng dạo phố mùa xuân bên người yêu tật nguyền chai đá” và… “anh trở về nhìn nhau xa lạ, anh trở về dang dở đời em, ta nhìn nhau ánh mắt chưa quen, cố quên đi một lần trăn trối”.

Không phải bài hát nào về lính cũng nhuộm màu bi quan như Kỷ vật cho em. Chúng ta còn vô số bài với nhịp điệu vui tươi và ngôn từ nhí nhảnh như bài Tình thư của lính do Trần Thiện Thanh sáng tác.

Thư của lính không xanh màu trời như mơ ước đâu em.
Thư của lính không thơm nồng hương, không nét hoa đa tình.
Thư của lính ba lô làm bàn nên nét chữ không ngay.
Nhưng thư của lính ghi giữa rừng cây khi nhớ em thật đầy.

Và kết thúc lá thư với một câu thật dễ thương:

Thư của lính, thư không được dài như mong ước đâu em.
Thư của lính chấm dứt ở đây, sau khi đề thêm hai chữ "Hôn em...

Sau năm 1975, Thư của lính vẫn còn xuất hiện. Lang thang trên mạng tôi bắt gặp bài hát được hòa âm và làm clip với lời dẫn: Tặng các chiến sĩ quân đội Việt Nam (ý muốn nói Quân đội Nhân dân Việt Nam). Bản nhạc của Trần Thiện Thanh đã được sửa ngay từ câu đầu Từ khi anh thôi học và từ khi anh khoác áo treilli thành Từ khi anh thôi học và từ khi anh khoác áo lính ra đi và cứ như thế, lời và âm điệu của bài hát được “biên tập” theo dạng karaoke…

Tổng Thống Mỹ, John F. Kennedy, trong diễn văn nhậm chức năm 1961 đã từng tuyên bố: Đừng hỏi tổ quốc có thể làm gì cho bạn, hãy hỏi bạn có thể làm gì cho tổ quốc (Ask not what your country can do for you — ask what you can do for your country). Đối với người lính bình thường, họ không bao giờ có những ý nghĩ cao xa, lý tưởng như ông Kennedy mà chỉ đơn thuần làm theo những yêu cầu của tình hình chính trị tại miền Nam khi đó.

Trốn lính là chấp nhận sống bên lề xã hội, trốn chui trốn nhủi khi thấy bóng dáng cảnh sát, quân cảnh. Cuộc sống của người trốn quân dịch là những chuỗi ngày bấp bênh, không tương lai ngay giữa Sài Gòn đô hội. Cũng vì thế, có người tự chặt ngón tay bóp cò (ngón trỏ) để khỏi đi lính, có người tự hành xác, ốm tong ốm teo” để được các trung tâm nhập ngũ trả về vì "không đủ sức khỏe".

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã một thời trốn lính để không một ngày nào phải khoác áo treilli. Với thân hình khẳng khiu, ốm yếu, anh đã ung dung ngồi tại nhà để viết nhạc, trong đó có cả những bài phản chiến. Có người bảo TCS đã “đâm sau lưng chiến sĩ”. 

Người ta đồn TCS còn nhận được sự che chở của Chuẩn tướng Lưu Kim Cương, Tư lệnh Sư đoàn 5 Không quân (Lưu Kim Cương đã tử trận vì trúng đạn B-40 của VC, trong khi đang đi trên xe Jeep điều quân giải vây vành đai phi trường Tân Sơn Nhất ngay sau Tết Mậu Thân 1968). Cái chết của Lưu Kim Cương là nguồn cảm hứng cho nhạc sĩ TCS sáng tác nhạc phẩm Cho một người nằm xuống:

Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây
Đã vui chơi trong cuộc đời nầy
Đã bay cao trong vòm trời đầy
Rồi nằm xuống, không bạn bè, không có ai
Không có ai từng ngày
Không có ai đời đời
Ru anh ngủ vùi mùa mưa tới
Trong nghĩa trang này có loài chim thôi.

Nhà văn Thế Phong trong Hồi ký ngoài văn chương phát hành tại Westmington ghi lại chuyện giữa TCS và Lưu Kim Cương: Buổi đưa tiễn [Lưu Kim Cương] đến nơi an nghỉ cuối cùng có rất đông nghệ sĩ từng giao du yêu mến chàng. Bài nhạc Anh nằm xuống" [bài hát chính thức có tựa đề Cho một người nằm xuống” chứ không phải là “Anh nằm xuống” - chú thích của NNC] của Trịnh Công Sơn là một ví dụ. Nhưng bữa nay không thấy mặt Sơn, buổi sinh thời Sơn giao du với Cương, được Cương yêu mến, nên Cương đề nghị với Tướng Tư Lệnh đưa Sơn vào lính không quân để cho qua cơn binh đao nội chiến. Tư lệnh trả lời Cương, hình như điệu nhạc phản chiến của Sơn không hợp với binh chủng này, nếu nhận làm nhạc công như nhiều nhạc sĩ khác như Duy Quang, Nguyễn Trung Cang, Trí khùng... chưa chắc Sơn đã làm công việc này hoàn hảo, nên tướng chối từ".

Đã có rất nhiều văn nghệ sĩ khoác áo kaki. Làng tân nhạc ngày xưa có 4 nam ca sĩ hàng đầu mà người ta thường gọi là “tứ trụ”: Duy Khánh (1938-2003), Hùng Cường (1935-1998), Nhật Trường (1942-2005) và Chế Linh. Duy Khánh thường hát với Thanh Thúy, Chế Linh đi đôi với Thanh Tuyền, Nhật Trường rất ăn ý với Thanh Lan và Hùng Cường hát chung với Mai Lệ Huyền. Họ thường lên sân khấu với bộ đồ treilli để hát những ca khúc về lính trong khi các nữ ca sĩ đóng vai… “em gái hậu phương”. Tùy theo định kiến của người xem nên có nhiều người “thương” nhưng cũng không ít kẻ “ghét” những hoạt cảnh về lính trên sân khấu.

Ca sĩ Nhật Trường, chính là nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, tốt nghiệp trường Hạ sĩ quan năm 1965, phục vụ tại Cục tâm lý chiến thuộc Bộ tổng tham mưu từ năm 1965 cho đến ngày Sài Gòn đổi chủ. Nhật Trường đã từng làm việc tại Đài phát thanh Sài Gòn và sau đó là Truyền hình Quân Đội, từng là Trưởng ban văn nghệ của Đài và đến năm 1968 anh còn phụ trách thêm chương trình phóng sự chiến trường. Năm 1993, Nhật Trường sang Hoa Kỳ theo diện đoàn tụ gia đình (ODP) và qua đời vào ngày 13/5/2005 tại thành phố Westminster, Quận Cam, do bệnh ung thư phổi.

Trong số khoảng 200 bài hát Nhật Trường Trần Thiện Thanh sáng tác thì có đến hơn nửa về lính. Điển hình là: Anh không chết đâu anh (vinh danh Đại úy “Mũ đỏ” Nguyễn Văn Đương), Người ở lại Charlie (vinh danh Đại tá Nguyễn Đình Bảo), Rừng lá thấp (viết tặng Đại Úy Vũ Mạnh Hùng, tử trận trên cầu Bình Lợi ),Tuyết trắng (viết về Không quân), Hoa biển (viết về Hải quân), Biển mặn (kể lại cuộc đời quân ngũ của chính tác giả), Người yêu của lính, Màu mũ anh, màu áo em…

Hùng Cường (1935-1998) là một ca sĩ, nghệ sĩ cải lương, diễn viên điện ảnh và diễn viên kịch nổi tiếng từ thập niên 1950 tại Sài Gòn. Thập niên 1960, Hùng Cường cùng Mai Lệ Huyền chuyển sang thể loại “nhạc kích động” theo các điệu nhanh như Twist, Bebop… gây nên một không khí mới mẻ trong nền âm nhạc thời đó. Hùng Cường tình nguyện vào binh chủng Biệt động quân với cấp bậc Hạ sĩ đóng tại trại Đào Bá Phước. Chàng ca sĩ thuộc loại "lính văn phòng" đóng tại Sài Gòn để còn thì giờ đi hát tại các vũ trường, đại nhạc hội và đóng phim.

Hùng Cường sở hữu giọng hát “ténor” và thành công với các bản nhạc như Dù Hoa Lạc Lối, Đám Cưới Nhà Binh, Một Trăm Phần Trăm, Lính mà em, Làm quen với lính… Từ những khán giả hâm mộ giọng ca Hùng Cường những phim anh đóng cũng được người xem chú ý như: Chân Trời Tím, Mãnh Lực Đồng Tiền, Còn Gì Cho Nhau… Trong lãnh vực cải lương, Hùng Cường hát chung với Bạch Tuyết tạo thành một “cặp bài trùng” trên sân khấu với các vở tuồng nổi tiếng một thời như Má hồng phận bạc, Tình chú Thoòng…

Như đã nói, một nghệ sĩ được gọi là thành công khi có người hâm mộ nhưng cũng không thể nào tránh khỏi sự "dị ứng" của những người thuộc nhóm… “không ưa”, trong đó có cả những người lính.

Ca sĩ Duy Khánh (1936-2003), người gốc Quảng Trị, nổi danh từ thập niên 1960 với dòng nhạc dân ca, nhạc quê hương và nhạc lính. Ông còn được biết đến như một nhạc sĩ tài năng với hơn 30 ca khúc, nổi tiếng phải kể đến Thương về miền Trung, Lối về đất mẹ, Ai ra xứ Huế, Xin anh giữ trọn tình quê...

Duy Khánh là một người lính ngành Chiến tranh Chính trị nhưng đồng thời cũng là một ca sĩ "đào hoa", ăn mặc rất đúng mốt và lịch lãm. Nhờ thân hình cao lớn và cân đối, nên thứ gì khoác vào người (nhất là những bộ đồ lính) giúp chàng ca sĩ “hớp hồn” các fan hâm mộ, nhất là phái yếu. Áo may ở La Ligne, quần ở Văn Quân, giày đóng ở Trinh đó là những địa chỉ “thời thượng” ở Sài Gòn ngày xưa.

Sau 1975, Duy Khánh ở lại Sài Gòn và đến năm 1988 được bảo lãnh sang Hoa Kỳ, tại đây ông tiếp tục ca hát và sáng tác. Duy Khánh mất vào ngày 12/2/2003 tại bệnh viện Fountain Valley, California, thọ 68 tuổi. Giọng hát Duy Khánh có người rất thích nhưng cũng có người lại chê là “nhạc sến”. Tại Hoa Kỳ, "giọng ca một thời" Duy Khánh hát Người lính già xa quê hương của Nhật Ngân. Như đã nói, "hay" hay "dở" còn tùy người nghe.

“Tứ trụ” của sân khấu ca nhạc Sài Gòn ngày xưa hiện nay chỉ còn lại Chế Linh. Anh cũng là ca sĩ gây nhiều tranh cãi nhất trong vấn đề “yêu” hay “ghét”, “sến” hay “không sến”. Chế Linh là người gốc Chàm ở Phan Rang, tương tự như trường hợp của nhạc sĩ Từ Công Phụng. Có thể nói, hai văn nghệ sĩ này tượng trưng cho hai “trường phái”, hai “thái cực”: “hâm mộ” người này thì sẽ “dị ứng” với người kia.

Chế Linh có thiên hướng hát về nhạc chiến tranh ca tụng người lính VNCH dù anh không phải nhập ngũ vì thuộc thành phần "dân tộc thiểu số". Những bài hát nổi tiếng nhất phải kể đến: Đêm nguyện cầu, Thành phố buồn, Thói đời, Thương hận, Trong tầm mắt đời, Đêm buồn tỉnh lẻ, Áo em chưa mặc một lần...
Chế Linh ở lại Sài Gòn sau năm 1975. Năm 1976-1978, anh bị bắt vì “vượt biên trái phép” và tội “phản động”, biệt giam 28 tháng. Năm 1980, anh vượt biên thành công sang Mã Lai, sau đó định cư tại Toronto, Canada. Ngoài việc là một trong những giọng ca nam hát “nhạc vàng” được yêu thích nhất, Chế Linh còn nổi tiếng là người có nhiều vợ con, tính cho đến tháng 1/2007, anh đã có 4 vợ và 14 đứa con!

Có một thời, ở Sài Gòn, người ta bàn tán cái tên Chế Linh theo kiểu "nói lái" sẽ trở thành… "Lính chê"! Theo lời giải thích của Chế Linh, đó cũng là điều dễ hiểu vì anh được “miễn dịch” với lý do “dân tộc thiểu số” nên quân đội “chê”. Một số người lại hiểu theo nghĩa khác, họ nói những bài hát về lính của anh lại bị… “lính chê”. Rõ ràng đây là quan điểm của những người lính không thích những bài anh hát về họ. 

Trong lãnh vực văn chương, Sài Gòn xưa không thiếu những ấn phẩm viết về lính. Một trong những tác phẩm nổi bật là Đời Phi Công của nhà văn Toàn Phong, bút hiệu của Đại tá Không quân Nguyễn Xuân Vinh. Đời Phi Công xuất bản lần đầu năm 1960 và được Giải thưởng Văn chương Toàn quốc cùng năm. Trong một phỏng vấn ở hải ngoại sau này, tác giả Toàn Phong cho biết ông bắt đầu viết Đời Phi Công vào năm 1959 và đăng mỗi tuần một kỳ vào ngày thứ Hai trên nhật báo Tự Do.

Đời Phi Công là một cuốn truyện dưới dạng những bức thư của một phi công viết cho người yêu là sinh viên tên Phượng để kể cho nàng nghe cuộc đời của những người hàng ngày “lướt gió tung mây”, đêm thì dõi theo “ánh tinh cầu”. Những bức thư ghi lại kỷ niệm vui buồn trong những phi vụ, kể lại một cuộc sống vừa lãng mạn vừa sôi nổi của một phi công thời chiến.

Đời Phi Công ra đời làm nức lòng các thanh niên thiếu nữ. Thanh niên thì nuôi giấc mộng hải hồ, thiếu nữ thì mơ có người yêu là một chàng phi công hào hoa “đi mây về gió”. Tác phẩm này đã là đề tài của nhiều buổi thuyết trình và có những đoạn được trích dẫn trong chương trình “kim văn” trung học đệ nhất cấp.

Trong một bức thư gửi cho Phượng khi bước chân sang Pháp học lái máy bay, Toàn Phong viết: “Em cũng như tất cả những người thân-tình, cũng như tất cả những người dân Việt, chắc hẳn phải đồng ý rằng nước nhà cần có đủ mọi ngành quân-lực. Đường đời muôn vạn nẻo anh đã chọn lấy một hướng, dù gian-nan muôn trùng anh cũng sẽ mỉm cười dấn bước”.
Ngôn ngữ trong Đời phi công là một thứ ngôn ngữ gợi hình. Tác giả gọi những bức thư là “giòng lá thắm”, ánh mắt của cô Phượng “trông như ánh pha-lê”, hành trình của người con trai thời chiến như “một chiếc lá vàng đã trót được thả trên giòng đời” còn phi công được thi vị hóa như những “tráng-sĩ” hay “hiệp-sĩ không-trung”…

Nếu để ý, ta sẽ thấy những từ Hán-Việt đều được Toàn Phong viết có gạch nối. Đó là phong cách viết cầu kỳ của người Sài Gòn xưa.

Nhà văn quân đội thứ hai mà tôi muốn đề cập đến là Thế Uyên. Tôi biết Thế Uyên khi còn học tại Ban Mê Thuột. Khi đó ông lưu lạc đến cao nguyên đất đỏ trong vai trò một giáo sư dạy môn Công dân Giáo dục và Triết trước khi bị động viên vào khoá 14 Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, cùng một lượt với nhà thơ Thanh Tâm Tuyền.

Thầy trò chỉ hơn nhau có 11 tuổi nhưng, đối với tôi, thầy Dũng mang dáng dấp của một người từng trải với điếu thuốc lúc nào cũng gắn trên môi. Thế Uyên, bút hiệu của thầy Nguyễn Kim Dũng, sinh năm 1935 tại Hà Nội trong một gia đình có truyền thống văn học. Mẹ ông là em ruột nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, bà cũng là chị nhà văn Thạch Lam.

Sau 1975, cũng như hàng trăm ngàn sĩ quan của miền Nam, ông bị đi tù cải tạo một thời gian, trước khi đến định cư tại Mỹ. Cách đây vài năm ông bị “stroke” tê bại một nửa người, phải ngồi trên xe lăn để di chuyển trong nhà. Tuy nhiên, bằng một nghị lực phi thường, ông đã tập viết lại bằng tay trái, và đã viết bài cho các tạp chí văn học hải ngoại.

Thế Uyên là tác giả của các tác phẩm nổi tiếng xoay quanh người lính trong chiến tranh Việt Nam như Mười ngày phép của một người lính, Tiền đồn, Đoạn đường chiến binh... Trong một cuộc phỏng vấn Thế Uyên cho biết:

“Nếu nghề dạy học đã làm tôi hút thuốc lá từ lúc trẻ cho tới khi bị stroke, thì nghề làm lính làm tôi thích bia rượu và thay đổi hẳn quan niệm và cách viết văn. Tôi từ bỏ (hay bị từ bỏ, vì hoàn cảnh sống có tác động mạnh đến bút pháp) lối viết và đề tài cũ, giã từ những mối tình trai gái lãng mạn trong thành phố an bình, chuyển sang chiến tranh và các hệ luỵ của nó. Với tôi, quân đội và chiến tranh, như một vết cắt, thành trước và sau, before and after, trước sex vẫn hiện diện, nhẹ nhàng thôi, bây giờ sex nặng nề, tràn đầy… Như trong Tiền Đồn, Mười Ngày Phép Của Một Người Lính, Nỗi Chết Không Rời...

Trong tác phẩm Tiền đồn, Chị Ba, người nông dân tượng trưng cho người dân Việt Nam - ở cả miền Nam lẫn miền Bắc - đã phải, được và bị làm tình với cả ba phe lâm chiến hồi đó: lính miền Bắc, lính miền Nam và lính Mỹ. Đó là một đề tài sex rất mới lạ trong mảng chiến tranh mà Thế Uyên đã đưa vào tiểu thuyết. Có người bảo giữa tình dục và chiến tranh hoàn toàn không có gì liên quan đến nhau nhưng Thế Uyên lại nghĩ khác:

“…Nhà văn Võ Phiến (một người không đi lính và không ở tiền tuyến với súng đạn chông mìn) không đồng ý với phân tích đó, cho rằng chiến tranh vẫn có đó, cho nhiều người, nhưng không liên quan gì đến tăng hay giảm sex trong văn chương... Tôi tôn trọng ý kiến nhưng không đồng ý với bậc đại trưởng lão này. Để tránh tranh cãi, tôi xin nói lại thế này: Riêng đối với cá nhân tôi, đang khi và sau khi rời mặt trận, tôi cảm thấy phải sử dụng tới sex, tới làm tình, nghĩa là sự sống, tạo sự sống, mới diễn tả được chiến tranh, sự chết, huỷ diệt. Tôi cảm thấy thế thì phải viết như thế, thật tự nhiên, không gò ép…

Ở Tiền đồn còn có những chi tiết nhỏ nhoi mà những tác giả chưa từng sống trong tâm trạng của người lính trực tiếp cầm súng không thể nào có được:
“Mới chỉ thiếu đi một khoảnh khắc ánh trăng ... mình mệt rồi, chàng thì thào, phải kiếm đôi giày khác, đưa đôi này đi làm fermeture. Một thằng bạn nào đã nói: Phải đi giày có fermeture mới đỡ căng thẳng thần kinh... Hắn có lý đấy, chàng sợ nhất ban đêm bị đánh bất ngờ, xỏ giày không kịp, cứ chân không tác chiến và chạy băng bờ bụi…”

Trong giai đoạn “chiến tranh du kích”, người Sài Gòn dùng cụm từ “đắp mô” để chỉ những hoạt động của du kích MTGPMN tối tối thường ra các trục lộ giao thông phá hoại đường xá. Trong Tiền Đồn, chuyện “đắp mô” của “những người anh em phía bên kia” lại được Thế Uyên diễn tả bằng “ngôn ngữ của lính”:
“Hai tiếng nổ lớn kế tiếp vang dội. Những viên đất nhỏ rơi lả tả trên đầu, quần áo. Vũ quay đầu lại la lớn về phía toán đang dùng TNT phá ụ: "Còn mấy cái mả Hồ Chí Minh nữa mới xong?". Một tiếng la trả lời: "Ba mả nữa!".

Dĩ nhiên trong lãnh vực báo chí Sài Gòn xưa tràn ngập những tin tức liên quan đến lính, từ các mục Tin Chiến Sự, Tin Chiến Trường đến các mục Hậu phương & Tiền Tuyến, Ủy lạo binh sĩ, v.v… Riêng quân đội cũng có cơ quan báo chí trực thuộc Phòng 5 Bộ tổng tham mưu với tờ Phụng Sự, ấn phẩm ra hàng tháng trong suốt thời gian từ 1953 đến 1960. Phụng Sự là tạp chí nghị luận, biên khảo và văn nghệ với sự góp mặt của Toàn Phong (tác giả Đời Phi Công đã đề cập đến ở phần trên), Hoàng Ngọc Liên, Hà Liên Tử, Nguyễn Mạnh Côn, Uyên Thao, Phan Lạc Tuyên… 

Báo Chiến Sĩ Cộng Hòa (1959-1974) là cơ quan hợp nhất hai tờ Phụng Sự và Quân Đội và tạp chí Chỉ Đạo xuất hiện từ tháng 10/1956 thuộc Ủy ban Chỉ đạo chiến dịch Tố Cộng. Ngoài những nhà văn vừa kể, những tờ báo lính còn xuất hiện bài vở của các cây bút tiếng tăm trong và ngoài quân đội như Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Thiệu Lâu, Toan Ánh, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Bình Nguyên Lộc, Trần Phong Giao, Dương Kiền, Duyên Anh, Hà Huyền Chi…
Nguyệt san Quân Đội của Nha Chiến tranh Tâm lý xuất hiện từ đầu năm 1957 đến 1960, do Trung-úy Tô Kiều Ngân làm chủ bút (hẳn bạn đọc còn nhớ tiếng sáo của Tô Kiều Ngân trong chương trình Tao Đàn trên đài phát thanh Sài Gòn). Tiếp đến là những tờ Tiền Phong, Lý Tưởng, Mũ Đỏ, Lướt Sóng, Tinh Thần, Khởi Hành, và các nhật báo Tiếng Dân, Dân Việt, Tiền Tuyến…

Tổng thống Ngô Đình Diệm đã xác định trong một bài diễn văn tại trường Sĩ quan Võ bị Đà Lạt năm 1960: “Cuộc chiến tranh ta phải đương đầu không phải là một thứ chiến tranh quân cụ, một thứ chiến tranh bấm nút, hay một thứ chiến tranh chỉ liên hệ đến một số quân nhân mà thôi đâu. Thứ chiến tranh mà ta phải đối địch là thứ chiến tranh cách mạng, một thứ chiến tranh lý tưởng liên hệ trực tiếp đến toàn dân, và trong đó yếu tố tinh thần, yếu tố tin tưởng vào chế độ của mình là yếu tố quyết định”.

Ngày Quân lực VNCH được chính thức chọn vào ngày 19/6/1965 trong thời Đệ nhị Cộng hòa (dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, và Chủ tịch Ủy ban hành pháp Trung ương, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ) sau khi nền Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Từ năm 1965 cho đến 1974 đều có các cuộc diễn binh trọng thể để kỷ niệm Ngày Quân Lực tại Sài Gòn. (Một sự tình cờ ngẫu nhiên 19/6 lại trùng với ngày sinh của tác giả bài viết này (19/6/1946)!
Khẩu hiệu chính của quân đội VNCH là “Danh dự – Trách nhiệm – Tổ quốc”, mỗi binh chủng lại còn có khẩu hiệu riêng, chẳng hạn như Không quân là “Tổ quốc, Không gian”, “Bảo quốc, Trấn không” hoặc Cảnh sát thì có “Cảnh sát Quốc gia, Phục vụ Đồng bào”… Các đơn vị quân đội VNCH ngoài tên gọi còn có những “biệt danh” nghe rất kêu nhưng cũng rất ngổ ngáo. Thủy quân lục chiến có Quái Điểu (tiểu đoàn 1), Trâu Điên (tiểu đoàn 2), Sói Biển (tiểu đoàn 3), Kình Ngư (tiểu đoàn 4), Hắc Long (tiểu đoàn 5), Thần Ưng (tiểu đoàn 6), Hùm Xám (tiểu đoàn 7), Ó Biển (tiểu đoàn ��, Mãnh Hổ (tiểu đoàn 9). Biệt động quân có biệt hiệu “Cọp ba đầu rằn”, Không quân có các phi đoàn Thần Phong, Thần Tượng, Song Chùy, Phi Hổ, Hổ Cáp, Thiên Lôi, Hỏa Long, Phượng Hoàng…

Quân lực VNCH có một số cơ sở đào tạo và huấn luyện. Đứng đầu là Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt, đào tạo những thanh niên tình nguyện trở thành sĩ quan hiện dịch ra trường với cấp bậc Thiếu úy. Khi mới thành lập năm 1948, thời gian huấn luyện tại trường chỉ kéo dài 9 tháng. Năm 1957 tăng lên thành 12 tháng rồi đến năm 1961 là 2 năm.

Đến giữa thập niên 1960, khóa học của Trường Võ bị Đà Lạt là chương trình 3 năm, từ năm 1966 trở đi lại tăng lên 4 năm. Học trình lúc đầu tương đương với trường cao đẳng. Sinh viên mãn khóa được miễn thi nhập học vào trường đại học vì coi như hoàn tất bằng tú tài toàn phần (gồn Phần I, lớp Đệ nhị và Phần II, lớp Đệ nhất). Đến năm 1966, sinh viên tốt nghiệp Trường Võ Bị có văn bằng tương đương với bằng cử nhân khoa học. Hai năm đầu sinh viên mang cấp bậc trung sĩ, hai năm sau là chuẩn úy. Sinh viên học xong 4 năm thì tốt nghiệp với cấp thiếu úy.

Khóa học bao gồm những môn vũ khí, truyền tin, tác chiến, kết hợp lý thuyết với thực hành. Theo truyền thống, để được gắn Alpha, sinh viên sĩ quan sau những tuần huấn nhục phải leo lên ngọn Lang Biang để nhận phù hiệu trên đỉnh ngọn núi cao nhất Đà Lạt.
Trường Võ bị Quốc gia lấy Học viện West Point của Hoa Kỳ làm mẫu mực. Hai năm đầu chương trình học cho các sinh viên đều giống nhau. Bắt đầu từ năm thứ ba trở đi thì tách ra ba quân chủng riêng biệt, trong đó 1/8 thuộc Không quân, 1/8 thuộc Hải quân và 3/4 thuộc Lục quân.

Năm 1965, quân lực VNCH tiếp nhận khái niệm và cơ cấu Chiến Tranh Chính Trị (CTCT) khi đó được áp dụng trong Quân đội Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan). Tổng cục CTCT được tổ chức thành 5 cục bao gồm Cục chính huấn, Cục tâm lý chiến, Cục xã hội, Cục an ninh quân đội, Cục quân tiếp vụ và một trường Đại học Chiến Tranh Chính Trị cũng đặt tại Đà Lạt. Tại đây, sinh viên phải qua một chương trình huấn luyện 2 năm để trở thành Thiếu úy hiện dịch.

Chương trình học nhấn mạnh về khoa học xã hội và chính trị. Sinh viên phải học quân sự hàng năm tại Trường Võ bị Quốc gia để có thể chỉ huy một trung đội bộ binh với đầy đủ kiến thức về chiến thuật, chiến lược. Bên cạnh đó là việc học những kiến thức chuyên môn tại trường để trở thành sĩ quan chiến tranh chính trị.

Trường Bộ binh Thủ Đức là nơi tập họp các thanh niên có bằng Tú tài Phần I trở lên (lớp Đệ nhị) bị động viên vào quân ngũ để được đào tạo trở thành sĩ quan trừ bị và ra trường với cấp bậc Chuẩn úy. Trong suốt thời gian hoạt động 1953-1975, trường Thủ Đức đã đào tạo hơn 80.000 sĩ quan trong đó khoảng 4.000 sĩ quan đặc biệt là những hạ sĩ quan được đặc cách đi học lớp sĩ quan. “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu” và “Cư An Tư Nguy” (Muốn sống hòa bình phải nghĩ đến chiến tranh) là những châm ngôn của Trường.

Trường Bộ binh Thủ Đức là nơi tôi đã từng trải qua với vô vàn kỷ niệm, vui cũng như buồn rất khó quên. Bò hỏa lực, đoạn đường chiến binh, leo dây tử thần, hít đất, thụt dầu, phạt dã chiến là những món “ăn chơi” không thể thiếu trong thời gian “huấn nhục” của người chiến binh. Vui nhất phải kể đến những lần về phép cuối tuần tại Sài Gòn nếu không có lệnh “cấm trại 100%”.

Người ta thường gọi sinh viên sĩ quan Thủ Đức chúng tôi là “lính con cá” vì trên cầu vai không có lon mà chỉ có chữ Alpha tựa như hình con cá! Phải đợi đến khi tốt nghiệp ra trường mới được đeo lon Chuẩn úy (Omega). Trường Bộ binh Thủ Đức có “khu bưu chính” (KBC) mang số hiệu 4100, con số 4100 (bốn ngàn một trăm) được sinh viên chúng tôi đọc trại thành “bốn người một mâm”… chả là vì mỗi khi lên “nhà bàn” ăn cơm thì cứ bốn người ngồi chung một carrée! 
 

Tại Sài Gòn còn có Trung tâm Huấn luyện Quang Trung chuyên đào tạo binh sĩ cho các đơn vị tác chiến khắp “bốn vùng chiến thuật”. Tôi cũng đã từng nếm mùi quân trường Quang Trung trước khi được chuyển sang Thủ Đức ở giai đoạn 2.

Quang Trung có món “chà láng”: những lúc rảnh rỗi tất cả phải ra giao thông hào, dùng càmen bằng inox để chà đất cho thật láng! Một việc làm “vô bổ” nhưng lại có tác dụng khiến cho những thanh niên mới khoác áo lính phải bận rộn, không còn thì giờ rảnh rỗi để nhớ nhà, nhớ cuộc đời dân sự.

Trường Huấn luyện Không quân, Trường Sĩ quan Hải quân và Trường Hạ sĩ quan (tốt nghiệp với cấp bậc Trung sĩ, thường được gọi là Trường Đồng Đế) tất cả đều ở Nha Trang, “miền quê hương cát trắng”. Trường Thiếu sinh quân đặt tại Vũng Tàu, ưu tiên cho các con em tử sĩ. Còn một số trung tâm huấn luyện chuyên môn cho các quân binh chủng như Pháo binh, Công binh, Quân cụ, Quân khuyển, Quân y, Truyền tin… đặt tại các địa phương trên cả nước.

Sẽ là điều bất công nếu không nói về Đoàn Nữ Quân Nhân, “những bông hồng trong bộ đồ lính” hay nói một cách thi vị hơn: “Hoa lạc giữa rừng gươm”. Trưởng Đoàn Nữ Quân Nhân đầu tiên là Đại tá Trần Cẩm Hương, ái nữ của kỹ sư Trần Văn Mẹo – Tổng trưởng Công chánh thời Đệ Nhất Cộng Hòa.
Nữ quân nhân hiện diện tại các đơn vị quân đội với quân phục tác chiến ở tiền phương hoặc với đồng phục màu xanh tại các đơn vị tham mưu. Họ có mặt trong mọi binh chủng và ngành chuyên môn trong quân lực và vào thời điểm “leo thang chiến tranh”, quân số của Đoàn Nữ Quân Nhân lên tới xấp xỉ 10.000 người.

Trường Nữ Quân Nhân nằm trên đường Nguyễn Văn Thoại (ngày nay là Lý Thường Kiệt), giữa Trường đua Phú Thọ và Chợ Tân Bình. Trường được thành lập từ giữa thập niên 1960 và đặt dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hồ Thị Vẽ, từ ngày đầu tiên cho đến ngày cuối cùng, 30/4/1975.

Một nữ quân nhân xuất thân từ Trường Nữ Quân Nhân chưa có đủ chuyên môn để phục vụ các đơn vị, nên thường phải trải qua một thời gian huấn luyện nữa, như ngành quân y, học tiếp ở Trường Quân Y để trở thành một y tá lành nghề. Tùy theo trình độ văn hóa, người nữ quân nhân có thể phục vụ trong quân đội như “lính trơn”, hạ sĩ quan hay sĩ quan.

Ngoài ra còn có Trường Xã Hội Quân Đội thuộc Tổng cục Chiến tranh Chính trị, tọa lạc trong Trại Lê Văn Duyệt, nơi đặt bản doanh Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô nằm trên đường Lê Văn Duyệt (ngày nay là Cách mạng tháng ��. Trường Xã Hội Quân Đội còn đào tạo và huấn luyện những cô giáo nhà trẻ mẫu giáo để phục vụ tại các trung tâm, trường học ở khu gia binh thuộc quyền điều hành của quân đội. Trường Sinh ngữ Quân đội nơi tôi giảng dậy cũng có một nhà trẻ dành cho con em của các giảng viên và do nữ quân nhân phụ trách.

Người có cấp bậc cao nhất trong Đoàn nữ quân nhân là Đại tá Trần Cẩm Hương, xuất thân từ ngành Nữ trợ tá xã hội. Khi Đại tá Cẩm Hương giải ngũ về hưu, Trung tá Lưu Thị Huỳnh Mai lên nắm quyền Chỉ huy trưởng. Ngoài ra còn có những nữ Trung Tá thâm niên quân vụ và cấp bậc như Nguyễn Thị Hằng, Hồ Thị Vẽ, Nguyễn Thị Hạnh Nhơn. Cấp bậc nữ Thiếu tá có khoảng trên dưới mười người trong quân lực VNCH.

Lực lượng quân đội VNCH có đến 11 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn nhảy dù, 1 sư đoàn thủy quân lục chiến, Liên đoàn 81 Biệt cách dù, 21 liên đoàn biệt động quân, 4 lữ đoàn Kỵ binh thiết giáp, Lực lượng Lôi Hổ và Biệt Hải thuộc Nha Kỹ thuật, các đơn vị Pháo binh biệt lập và lực lượng Địa phương quân gồm 400 tiểu đoàn, nghĩa quân hơn 50.000 quân.

Lực lượng Không quân có quân số khoảng 60.000 người. Chỉ huy trực tiếp là Bộ tư lệnh Không quân với đầy đủ các cơ quan yểm trợ. Binh chủng bao gồm 5 Sư đoàn không quân tác chiến trong đó có 20 Phi đoàn khu trục cơ (khoảng 550 phi cơ A-1H, A-37 và F-5); 23 Phi đoàn trực thăng (khoảng 1.000 phi cơ UH-1 và CH-47); 8 Phi đoàn quan sát (khoảng 200 phi cơ O1, O2 và U17); 1 Sư đoàn vận tải (khoảng 150 phi cơ C7, C-47, C-119 và C-130); 1 Không đoàn tân trang chế tạo và 4 Phi đoàn Hỏa long (trang bị phi cơ AC-119, AC-130 Spectre Gunship). Ngoài ra còn có Phi đoàn Trắc giác (tình báo kỹ thuật), Phi đoàn Quan sát RC119L và Biệt đoàn Đặc vụ 314. Các phi công đều được đào tạo chuyên môn tại Hoa Kỳ sau thời gian học quân sự và ngoại ngữ ở trong nước.

Lực lượng Hải quân có quân số hơn 40.000 người, ngoài các đơn vị yểm trợ hành chánh, huấn luyện và tiếp vận còn bao gồm các lực lượng tác chiến: Hành quân lưu động sông và Hành quân lưu động biển. Lực lượng Hải quân bao gồm tuần dương hạm (WHEC - White High Endurance Cuttert), hộ tống hạm (PCE - Patrol Craft Escort), khu trục hạm (DER - Destroyer Escort and Ricket), tuần duyên hạm (PGM - Patrol Gunboat Motor), giang pháo hạm (LSIL - Landing Ship Infantry Light), trợ chiến hạm (LSSL - Landing Ship Support Large), dương vận hạm (LST - Landing Ship Tank),hải vận hạm (LSM - Landing Ship Medium) và giang vận hạm (LCU - Landing Craft Utility).

Hải quân còn có các Lực lượng đặc nhiệm 211 thủy bộ và Liên đoàn Người nhái. Tổng cộng được trang bị khoảng 1.500 tàu xuồng các loại, trong đó có khoảng 700 tàu chiến trên sông và trên biển. Nổi tiếng nhất trong số đó là Liên đoàn Người nhái với hai tướng Dã Tượng và Yết Kiêu được tôn vinh là Thánh tổ của đơn vị. “Người nhái” là những thanh niên gan dạ, có đầy đủ sức khỏe để thực hiện những “hải vụ” bí mật trên sông và trên biển.
. . .

Trích "Hồi Ức Một Đời Người"
Nguyễn Ngọc Chính 

Vinh Danh Cờ Vàng Tại Cabramatta, Úc

Người Vợ Của Tù Cải Tạo VC - Thanh Minh


Tôi trở về nhà với một thân xác rã rời, một đầu óc rỗng không, biếng ăn, mất ngủ, chả nói năng gì, mắt mở to mà không nhìn thấy gì. Tôi đã phải ra, vào nhà thương Chợ Quán mấy lần. Rất may cho tôi và các con là lúc đó tôi có một cô em và một người bạn lo lắng và chăm sóc mẹ con tôi tận tình.

Vài tháng sau, tôi nhận được 2 thùng quà trả lại với hàng chữ “Người nhận đã chết. Trại yêu cầu hoàn.”

Đến bưu điện lĩnh 2 gói quà xong, vừa ra đến cửa tôi lại ngất đi. Rất may có anh bạn hàng xóm đạp xe xích lô đang chờ để chở tôi về nhà. Tới bữa ăn, nhìn bốn đứa con ngồi ăn ngon lành với tóp mỡ ngào đường và nước mắm, quà của bố trả lại, nước mắt tôi lại chảy như mưa. Rồi tới gần cả năm sau, phường trưởng mới cử đại diện đến chia buồn và đưa cho tôi biên bản “phạm nhân chết”.

Nhờ mảnh giấy này mà mẹ con tôi mới được đi Mỹ theo diện HO. (Tôi vẫn còn giữ mảnh giấy này, xin gửi kèm theo đây để mọi người biết “tội ác” của chồng tôi!)

- Can tội: Giảng viên tâm lý chiến xã hội học Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. "Án phạt tù: 3 năm"; nhưng khi chết đã 3 năm 7 tháng.

Nếu họ giữ đúng lời nói chắc chồng tôi không thể chết trong tù.


Thế là xong, là tuyệt vọng cả đời. Lúc đó tôi sống cũng như chết rồi, nhưng vì bốn đứa con nhỏ, chúng đâu có tội tình gì. Bên nội bên ngoại ai cũng muốn nuôi dùm 1, 2 đứa nhưng tôi không thể nào chịu được nếu để 1 đứa con xa tôi. Tình thương con đã thắng cái “điên” của tôi để lo lắng cho chúng nhưng với phường khóm thì tôi thật là một “mụ điên dữ dằn”.

Tôi không chịu đi họp tổ, họp phường gì cả. Công an khu vực tới tận nhà bắt đi họp. Tôi nói: “Người mà các anh thấy có tội là chồng tôi thì anh đã chết rồi, tôi và 4 con nhỏ không còn gì phải họp với hành nữa”.

Lúc trước mình ngu nên cứ tin là phải họp hành cho tốt thì họ xét cho chồng về sớm. Nay tôi không còn gì để sợ nữa thì họ lại để tôi được yên thân.

Tôi bắt đâu tính chuyện vượt biên, mấy mẹ con dắt díu nhau đi tìm đất hứa không biết bao nhiêu lần. Hết đi từ Nhà Bè, Vũng Tàu, Mỹ Tho đến Rạch Giá, Sóc Trăng nhưng đều không thoát, ở tù cũng mấy lần. Xuống ghe ra biển lại thấy hối hận vì thương con, chưa thấy thoát mà chỉ thấy chết tới nơi. Bị bắt tù đày thì lại càng hối hận hơn vì các con không có thức ăn, nước uống chỉ có một ca nhỏ. Trong trại chỉ có 1 cái ao tù, ăn cũng đó mà tắm giặt cùng nơi. Bẩn thỉu không thể tả cho nên trẻ con không bị đau bụng ỉa chảy thì cũng ghẻ lở ghê hồn.

Tôi sợ quá đến không dám nghĩ đến đi nữa. Phải cậy nhờ xin đi dạy lại dù biết là nhà giáo chỉ húp cháo thôi. Nhưng dù sao đi nữa cũng còn có chỗ để mua “nhu yếu phẩm” và được “thầu” để bán quà cho học trò trong trường.


Thời gian này tạm ổn định, lo cho các con tới trường cũng phải chạy chọt vì “nhất thân, nhì thế” của xã hội lúc bấy giờ. Phận mình thì xong rồi, bạn bè tôi còn rất nhiều có chồng đang tù tội.

Thỉnh thoảng chúng tôi họp nhau để “lá rách nát đùm lá tả tơi” đứa nào có thứ gì cho tù ăn được thì mang tới gom lại để chia cho những bạn sắp đi thăm. Trong cái tình đó tôi lại thấy được nhiều sự đau khổ mà người vợ tù phải chịu đựng nhục nhằn mà không ai có thể chia xẻ với họ.

Chẳng hạn như một chuyện rất thật của một người bạn thân của tôi, chúng tôi đã chia sẻ từng bó rau muống từng chén nước mắm “muối + nước màu” cho các con ăn. Từng viên đường thẻ để mang vào tù cho chồng. Chỗ chồng bạn tôi ở lại có “nhà hạnh phúc” và các anh tù phải làm việc thật tốt thì cán bộ mới cho phép gặp vợ tại đó. Lẽ dĩ nhiên chồng bạn tôi làm khổ sai cật lực để được ân huệ đó. Chị cũng là một cô giáo, sống rất đạo đức và thành tín, thương chồng vô cùng, nhưng khi vào thăm đã thấy “nhà hạnh phúc” có mấy cái chõng tre và mấy anh cán bộ ngồi canh. Chị đã không thể “cho anh” và điều này đã khiến anh nổi giận nghĩ là chị đã có “ai khác” ngoài đời. Chị đã bị anh chửi bới tơi bời còn gì thê thảm hơn nữa không?

Thời gian đã qua tôi hy vọng anh đã thông cảm với chị về cái “không thể cho anh” đó. Mặc dù giờ thì anh chị cũng đã xa nhau, thật là một điều rất đáng tiếc.


Lại thêm một cô bạn láng giềng, may mắn có ông chồng được thả về sau bảy năm tù tội. Những tháng ngày trong lao tù khiến con người cũng thay đổi nhiều lắm. Dễ nóng giận và mặc cảm đầy mình. Một hôm cô bạn tôi được nhà nước cho mua một khúc vải may quần với giá rẻ dành cho các công nhân viên nhà nước. Cô mang về khoe nói là bán đi sẽ lời được sáu ngàn đồng. Ông chồng lại muốn may để mặc vì ông ta thấy cũng cần phải có một cái quần mới. Bạn tôi ngần ngại nửa muốn cho chồng may, nửa muốn bán đi để thêm tý tiền lo cho gia đình nên nói với chồng: “Khúc vải này sáu ngàn lận đó anh.” Chưa nói dứt lời là bạn tôi bị một cái tát tai choáng váng mặt mày, sự việc xảy ra quá sức tưởng tượng của mọi người. Anh chồng rất hối hận về hành động vũ phu của mình; tuy nhiên anh vẫn đổ lỗi cho bạn tôi cái tội “coi cái quần hơn chồng”. Đó lại là một trong muôn ngàn cảnh ngộ trớ trêu của vợ tù "cải tạo".


Thắm thoát đã qua 7 năm lúc này cuộc sống mấy mẹ con tôi đã dễ thở vì chị em bạn bè ở ngoại quốc đã bắt đầu gửi tiền về cứu trợ. Tôi được mẹ chồng cho theo đi để bốc mộ Anh. Tâm trạng tôi thật rối bời và lo sợ liệu bốc lên có phải là Anh không hay lại là mồ của ai khác?!! Trên đường đi cũng không kém gian nan cực khổ như khi đi thăm nuôi tại Kà Tum.

Lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi mới biết bốc mộ là gì và nhất là thấu hiểu được câu nói “cát bụi trở về với cát bụi”. Thịt da đã tan vào với cát, chỉ còn bộ xương trắng mà các bạn anh đã từ từ cầm lên từng cái đầu, xương vai, xương cổ ống tay ống chân, và ngay cả những đốt xương nhỏ họ cũng mò tìm cho đủ. Một sợi dây làm bằng giây thép nhỏ, cái mặt làm bằng kính máy bay có hình dáng 2 người đứng bên nhau đã được anh bạn lấy lên trao cho tôi và nói chính chồng tôi đã làm để tặng cho tôi khi nào tôi lên thăm gặp mặt. Anh đã phải cất giấu bao ngày vì nếu "cán bộ" thấy là bị tịch thu ngay.

Rất may là có mẹ tôi và người cháu lo lắng lấy rượu rửa xương rồi quấn vào vải bỏ vào trong một cái bị to để chúng tôi mang về . Còn tôi ngồi chết cứng với nước mắt rơi sầu tủi. Xót thương anh!

Trên đường về mới gặp toán người thăm nuôi. Gặp cô bạn cũng đi với mẹ già, đang chuyển quà từng khúc một, tôi chạy lại đỡ một tay. Khi tôi dắt bà cụ qua một người tù đang cuốc đất dưới ruộng, ngẩn nhìn và khẽ gọi mẹ. Tôi quay lại giúp cô bạn còn vài giỏ đồ ăn, chúng tôi vừa đi ngang thì lại nghe anh ta gọi “em Liễu”. Cô bạn tôi nghe tên, ngoảnh mặt lại nhìn và lại bỏ đi luôn. Chạm mặt nhau rồi mà Liễu vẫn không nhận ra. Tới khi anh ta quên cả sợ "cán bộ", chồm lên đường kêu “Liễu. Anh đây”. Lúc đó bà cụ cũng đã trở lại và nhận ra con, cụ khóc oà ôm lấy anh tù, còn Liễu cũng khóc nhưng la “Không phải anh mà, không phải anh đâu”.

Người chồng yêu quý vì tháng năm đói khổ phải ăn khoai mì nên mặt anh ta biến dạng vì quai hàm bạnh ra và nhựa độc của khoai mì làm cho tất cả tù nhân đều có cái mặt vuông gần giống nhau cả. Tôi cũng không cầm được nước mắt lại nghĩ rằng chắc chồng tôi còn sống thì mặt mũi cũng chỉ như vậy mà thôi.

Từ trại về chỉ có độc nhất một chiếc xe đò, mọi người ngồi chật cứng trong xe, còn có nhiều người phải đứng bám vào cửa xe rất là nguy hiểm. Mẹ con tôi về đến ga Vinh là trời đã tối, lại ôm cồng kềnh một cái bị hài cốt của chồng tôi. Ngồi sân ga đợi tàu rất là nguy hiểm vì mẹ con tôi ngơ ngác với xứ lạ quê người. Mẹ tôi phải lấy dây buộc cái bị và cuốn quanh người. Chỉ sợ lỡ mất đi thì khổ lắm. Tôi hồi hộp sợ hãi còn hơn khi đi vượt biên nữa. Tôi đánh liều vào nhà nghỉ mát của nhân viên xe lửa. Sau một lúc nói chuyện gây cảm tình và nhờ có “thủ tục đầu tiên” (xin trả tiền trước) nên mẹ con tôi được vào tạm trú qua đêm yên lành.

Sáng hôm sau cũng nhờ có ông "quản lý" nhà nghỉ đó mà chúng tôi được lên tàu ở trong toa xe của các nhân viên đi nghỉ mát. Tôi phải tin tưởng là chúng tôi đã có ơn trên che chở nên đã mang thoát được bộ xương của chồng tôi về đến nơi đến chốn. Vì nếu không được ở trong xe đó chắc chắn chúng tôi không thể thoát khỏi sự khám xét trên tàu. Họ phát giác ra là có xương người là lập tức đuổi chúng tôi xuống giữa rừng hoặc quăng bỏ mớ hài cốt đó. Sau đó lại nằm xuống với nước mắt trào ra không thể ngăn nổi vì nhớ thương anh và tủi phận mình đơn độc.

Hiện tại thì chồng tôi đã được yên nghỉ tại nghĩa trang Thiên Chúa Giáo ở Bình Dương. Nhưng cũng không biết được bao lâu nữa vì họ còn tính dẹp cả nghĩa trang mặc dù đó là đất tư mà gia đình tôi đã phải mua bằng những cây vàng lúc họ dẹp nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi ngay trong thành phố Saigon.


Bốn mẹ con tôi xuống phi trường Dulles vào một buổi tối mưa tầm tã của tháng 6 năm 1994. Được gia đình cô em ra đón, tôi mừng quá nhưng vẫn chưa hết lo sợ, không biết đây là thật hay mơ. Nỗi ám ảnh bị bốc đi vùng kinh tế mới và sự không nói có, có nói không của nhà nước công sản đã khiến tôi mất hết niềm tin. Tôi chỉ còn biết cầu Đức Mẹ ban cho tôi một phép lạ.

Chúng tôi cố gắng học hỏi để hoà nhập vào cuộc sống mới ở Mỹ. Nay các con tôi đã lớn, đã thành đạt và rất hiếu thảo. Chúng hết lòng lo lắng, chăm sóc tôi. Tôi thật mãn nguyện, nhưng tôi biết tôi không thể ôm giữ chúng mãi được. Chúng phải có cuộc sống riêng, hạnh phúc riêng. Dù biết vậy, nhưng mỗi khi chúng vắng nhà, còn lại một mình tôi, tôi lại thấy sợ hãi. Những năm tháng khổ cực, hãi hùng của thời dĩ vãng lại kéo đến ám ảnh tôi. Hình ảnh chồng tôi lúc oai hùng, mạnh mẽ trong bộ quân phục, lúc rách nát, tả tơi, thoi thóp trên chõng tre lại chập chờn quanh tôi.

Tôi đã thì thầm với anh: “Đợi em đi cùng!” Vâng, tôi ước mong được sớm ra đi bình yên để được xum họp với chồng tôi. Chúng tôi chỉ mới được hưởng hạnh phúc gia đình có 4 năm 5 tháng. Tôi chắc chồng tôi cũng nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đi với anh. Chúng tôi phải nối tiếp lại những ngày hạnh phúc ngắn ngủi xa xưa. Tôi không thể sống mãi trong cô đơn để run sợ trước những ám ảnh của dĩ vãng và những nhung nhớ khôn nguôi người chồng mà tôi mãi mãi yêu thương như buổi đầu gặp gỡ.

Kính tặng Giáo Sư Tố Lan, người đã cho tôi can đảm để thực hiện bài viết này.


*Trần Thanh Minh*

Saturday, April 26, 2025

Giá Đừng Đen Một Tháng Tư - Song Châu Diễm Ngọc Nhân

Chất Arsenic Gây Ung Thư Đang Tích Tụ Trong Gạo Của Thế Giới - Huỳnh Chiếu Đẳng


Nguồn tin và  chi tiết: https://gizmodo.com/cancer-causing-arsenic-is-building-up-in-the-worlds-rice-2000591855?utm_source=flipboard&utm_content=onelife007%2Fmagazine%2FInteresting+Spaces%21

HCD  tóm tắt bản tin:

Arsenic gây ung thư đang tích tụ (càng lúc càng nhiều) trong gạo của thế giới

Gạo nuôi sống hơn một nửa dân số thế giới. Biến đổi khí hậu đang làm cho loại ngũ cốc được yêu thích này chứa đầy arsenic, tạo ra gánh nặng sức khỏe “đáng sợ”.

Trên khắp Đồng bằng sông Dương Tử, một khu vực ở miền Nam Trung Quốc nổi tiếng với sản lượng lúa gạo nông dân trồng gạo trong ruộng ngập nước, phương pháp nông nghiệp này chiếm ưu thế từ những cánh đồng trũng thấp ở Arkansas cho đến những ruộng lúa rộng lớn ở Việt Nam.

Khi hành tinh nóng lên, cách trồng lúa phổ biến này đang ngày càng trở nên nguy hiểm hơn theo nghiên cứu được công bố hôm thứ Tư trên tạp chí Lancet Planetary Health. biến đổi khí hậu dường như đang làm tăng lượng hóa chất arsenic độc có trong gạo.

Donming Wang, nghiên cứu sinh tiến sĩ sinh thái tại Viện Khoa học Đất, Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc “Kết quả chúng tôi thấy rất đáng sợ”, “Đó là một thảm họa…”.

Ước tính có khoảng 40.000 loại gạo trên thế giới, được chia thành ba loại dựa trên chiều dài của hạt gạo. Gạo hạt ngắn, hoặc loại gạo dẻo thường được dùng trong món sushi; gạo hạt dài, bao gồm các loại gạo thơm như gạo basmati và gạo hoa lài. Gạo hạt trung bình, trong số này, gạo japonica hạt ngắn đến trung bình và gạo indica. Gạo hạt dài là loài chính của gạo trồng được ăn trên khắp châu Á. Bảy quốc gia tiêu thụ và sản xuất gạo hàng đầu châu lục: Bangladesh, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Myanmar, Philippines và Việt Nam. Ấn Độ, Việt Nam và Trung Quốc nằm trong nhóm tám quốc gia dẫn đầu phần còn lại của thế giới về xuất khẩu gạo.

Các nhà nghiên cứu phát giác ra rằng sự kết hợp giữa nhiệt độ cao và CO2 thúc đẩy sự phát triển của rễ, tăng khả năng hấp thụ arsenic từ đất. Các loại cây trồng giàu carbon dioxide được phát hiện là thu được nhiều carbon trong khí quyển hơn và bơm một số carbon đó vào đất, kích thích các vi khuẩn tạo ra arsenic.

Arsenic có ở nhiều dạng khác nhau. Arsenic vô cơ độc hại khét tiếng là thứ mà Tổ chức Y tế Thế giới phân loại là “chất gây ung thư đã được xác nhận” và “chất gây ô nhiễm hóa học quan trọng nhất trong nước uống trên toàn cầu”. Nó có liên quan đến ung thư phổi, bàng quang và da, cũng như bệnh tim, tiểu đường, thai kỳ bất lợi, các vấn đề về phát triển thần kinh và hệ thống miễn dịch suy yếu, cùng với các tác động sức khỏe khác.

Tại Hoa Kỳ, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm đã thiết lập mức hành động là 100 phần tỷ arsenic vô cơ trong ngũ cốc gạo dành cho trẻ sơ sinh.

Khi nhiệt độ toàn cầu tăng trên 2 độ C (3,6 độ F) và kết hợp với mức CO2 tăng thêm 200 phần triệu, mức arsenic vô cơ trong các giống gạo được nghiên cứu sẽ tăng vọt tới 44 phần trăm. Điều đó có nghĩa là hơn một nửa số mẫu gạo sẽ vượt quá giới hạn đề xuất hiện tại của Trung Quốc, giới hạn 200 phần tỷ đối với arsenic vô cơ trong lúa nước, với ước tính 13,4 triệu ca ung thư liên quan đến phơi nhiễm arsenic từ gạo.

Lewis Ziska, một nhà sinh học thực vật nghiên cứu về biến đổi khí hậu và sức khỏe cộng đồng tại Đại học Columbia: "Bạn đang nói về một loại cây trồng chính nuôi sống hàng tỷ người, và khi bạn cân nhắc rằng lượng carbon dioxide cao hơn và nhiệt độ ấm hơn có thể ảnh hưởng đáng kể đến lượng arsenic trong loại cây trồng, hậu quả về sức khỏe liên quan đến điều đó là vô cùng to lớn".

Ziska nói “Nếu bạn nằm trong số phần lớn thế giới tiêu thụ gạo nhiều lần một tuần, sức khỏe đang bị arsenic rình rập bạn, nhưng nếu bạn ăn gạo một cách không thường xuyên, thì lượng arsenic vô cơ mà bạn có thể tiếp xúc sẽ không phải là "vấn đề lớn".

HCD: Các bạn có thể đọc thêm chi tiết ở link nầy của BBC https://www.bbc.com/future/article/20250417-how-climate-change-could-affect-arsenic-in-rice 

Các bạn cũng nên lưu ý rằng ăn gạo lức sẽ bị nhiễm arsenic nhiểu hơn ăn gạo trắng



Huỳnh Chiếu Đẳng (Quán ven đường)

Trump Ăn Bánh Xèo Ở Saigon - tienKOK

Kế Sách “Rút Củi Đáy Nồi” Và Ngày 30/4/1975 Chiến Thắng - BS. Lê Bá Vận

Bài Viết Vô Cùng Trí Thức của Bác Sĩ Lê Bá Vận về ngày 30 tháng 4 1975

Lời người chuyển: Bác Sĩ Vận  là đàn anh của tôi, năm nay anh Vận 96 tuổi, coi như là anh Vận là trong các người bác sĩ đàn anh lớn tuổi nhất, còn minh mẫn rất nhiều, lý luận rất hay, điển tích của Văn Hóa Trung Hoa xa xưa còn nhớ rất rõ.

Merci anh Vận, tu es superbe.
Nguyen Thuong Vu 

Giải phóng miền Nam trấn lột làm hoen ố và thay đổi ý nghĩa ngày 30/4 chiến thắng, phơi bày mặt trái.


Ngày 30/4/1975 Sài Gòn, thủ đô miền Nam thất thủ, cuộc chiến ở Việt Nam kết thúc.

Từ đó đến nay, nửa thế kỷ trôi qua. Lễ kỷ niệm 50 năm ngày 30/4 được tổ chức trọng thể hơn bao giờ hết nơi nơi trong và ngoài nước, nhưng mang những ý nghĩa đối nghịch. 

Do trên thực tế ngày 30/4 có các tên gọi khác nhau. Và có nhiều đặc điểm. 

Bắc Việt thắng cuộc thì ca ngợi, gọi là ngày 30/4/1975 đại thắng chống Mỹ, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước… vĩ đại nhất trong lịch sửMiền Nam thua cuộc thì nói đến tháng Tư đen chết chóc và 30/4/1975 Quốc hận, “Ngày miền Nam khiếp sợ giải phóng”, tán gia bại sản, trắng tay mất sạch vào túi kẻ đến giải phóng.

Người ngoại cuộc gọi chiến tranh VN kết thúc năm 1975 là một cuộc nội chiến, huynh đệ tương tàn giữa Bắc và Nam. Mỗi bên đều có chính phủ được dân bầu, có Hiến pháp, được quốc tế công nhận. Có vẻ là một cuộc chiến giữa 2 lý tưởng Mác Lê và tự do, dân chủ phi Mác Lê.

Cao siêu hơn thì vạch ra đây là một cuộc chiến tranh “ủy nhiệm” (proxy war).

Bắc Việt được Sô - Tàu cung cấp toàn bộ quân viện để đánh thuê cho chủ nghĩa cộng sản.

Miền Nam được Mỹ và Đồng minh giúp đỡ, chiến đấu tự vệ cho thế giới tự do.

Nhìn một cách thực tế thì chiến tranh VN kết thúc năm 1975 là để giúp kẻ thắng thoát nghèo.

Người dân miền Nam nói đến ngày 30/4/1975 thì gợi lại hình ảnh xe tăng Bắc Việt húc cổng sắt tiến vào dinh Độc lập xen lẫn hình ảnh kẻ thắng thu hoạch lợi phẩm, thuyền nhân chết trên biển cả, những trại tù cải tạo rùng rợn, những vùng kinh tế mới cằn cỗi… đã 50 năm trôi qua.

____ 

Cuộc chiến ở Việt Nam có nhiều sắc thái, đặc điểm, hơn bất cứ một cuộc chiến tranh nào.

    1) Đó là một cuộc chiến phát khởi chậm chạp, tăng cường độ dữ dội vào phút chót. Điều này khác với thông thường, chiến tranh ác liệt ngay từ đầu, điển hình giữa Nga và Ukraina hiện tại.

    2) Kết thúc dứt khoát, có kẻ thắng người thua, không hòa, vd. Thế chiến II (1939-1945). Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) thì hòa, cắt đôi đất nước thành lập Nam Hàn và Bắc Hàn. .

    3) Nhiều huyền thoại chiến tranh. Lái phi cơ núp trong mây, chờ địch bay ngang, nổ máy xông ra bắn hạ 7 máy bay địch gồm cả B-52, vừa lấy tay bít các lỗ đạn trên thân máy bay mình (Nguyễn Văn Bảy). Lấy thân lấp ổ châu mai (Phan đình Giót); lấy thân chèn vào càng pháo, ghìm giữ không cho khẩu pháo cao xạ 37 mm bị lăn xuống vực (Tô Vĩnh Diện). Nhỏ người nhưng tay không từ dưới nhảy vọt lên níu càng máy bay trực thăng địch, ghìm không cho bay lên (Bùi Minh Kiểm)…  

    4) Điều nghịch lý bên thắng là bên nghèo. Ăn mặc thiếu thốn, có được chiếc đồng hồ Liên Sô đeo tay, chiếc xe đạp, đã là một tài sản lớn, ước mơ cả cuộc đời. Bên thua thì xe hơi, xe gắn máy chạy rợp đường, trong nhà thì tivi, tủ lạnh, bếp điện, máy giặt. Ấy thế mà thua đau, mất sạch. Thì ra miền Bắc nghèo thật nhưng có không thiếu súng đạn, tăng pháo Sô-Tàu cung cấp, lại đánh thí mạng cùi.

Và trong Nam thì cực khổ lắm, bị Mỹ ngụy kìm kẹp, mất tự do, miền Bắc phải vào giải cứu!

Kẻ nghèo mạt đi giải phóng một anh nhà giàu, nghe lạ tai, chưa hề có. Tất phải có nguyên do.  

Thực tế thấy rõ giải phóng hoàn tất là của cải miền Nam đổ tràn ra Bắc như nước vỡ đê. Nhà cửa, phố xá không biết đi thì được chia chác, phân phối cho đảng viên, cán bộ làm chủ. Đó là giải phóng miền Nam cướp bóc trắng trợn toàn diện làm hoen ố và thay đổi ý nghĩa ngày 30/4 chiến thắng.

Để giữ thể diện lãnh đạo miền Bắc biện minh bằng cách ‘làm tới’, buộc tội “chống phá, phản bội, nợ máu, tay sai”… tăng cường khủng bố, cải tạo công thương tịch thu tài sản, ba lần đột ngột đổi tiền, vơ vét, cắt hộ khẩu buộc đi kinh tế mới ở đồi núi cằn cỗi. (1).

Lập trại tù học tập cải tạo để thể hiện sự khoan hồng của chế độ song ở các nơi sơn lam chướng khí, hành hạ man rợ thân xác, hạ nhục nhân phẩm…. Trại học tập hay để trả thù?

Nhiều trại viên trí thức miền Nam được dạy Mác-Lê 10 đến 20 năm vẫn chưa thấu triệt để có thể tốt nghiệp, cho ra trại.  Phước lớn là trại viên chỉ được dạy Mác-Lê, tư tưởng, đạo đức HCM chưa kịp ra lò, tai biến tẩu hỏa nhập ma khó xẩy.

     5) Hai sự kiện độc đáo, “Dấu ấn” của ngày 30.4/1975, không đâu có, là:

       a) Di tản Vượt biển. Tiếng Anh gọi là “Vietnamese boat people” (Thuyền nhân Việt Nam). Gần một triệu người đã liều mình ra đi trên những chiếc thuyền nhỏ chở đầy ắp người, nam nữ già trẻ. Tất nhiên hơn một nửa gởi thân xác trên biển cả (năm 1954 di cư trật tự, an toàn), số còn lại đến được bờ bến tự do. Một số đông bị công an đuổi bắt trở lại, tịch thu tiền của, giam tù vì tội vượt biên trái phép.Trong lịch sử di tản do chiến tranh là nhiều song theo đường bộ và tử vong rất thấp.

         b) Áp đặt chế độ cai trị thuộc địa lên miền được giải phóng với mỹ từ ‘Thống nhất đất nước’. Còn nhớ thời Đế quốc Pháp thống trị nước ta (1884-1945) Chúng gởi đến một số quan chức Pháp cầm đầu nền hành chánh song vẫn duy trì triều Nguyễn với quyền hành tiếp xúc với dân.

Pháp tôn trọng văn hóa, phong tục tập quán bản địa.

Cộng sản thì từ rất sớm đã lên kế hoạch cai trị miền Nam triệt để, toàn diện.

Bị tiêu hủy tận gốc văn hóa miền Nam, đốt sạch toàn bộ văn, nhạc phẩm, sách báo…

Cả một cỗ máy cai trị hoàn chỉnh được bê vào Nam để thay thế, từ A đến Z, trường kỳ.

Như thế họ gọi là “Giải phóng miền Nam (!?).

Minh họa điển hình là vụ bạo loạn vũ trang của người Thượng ở Đắk Lắk, Tây Nguyên ngày 11/6/2023, đang đêm tấn công vào trụ sở UBND và đồn công an ở 2 xã Ea Tiêu và Ea Ktur, huyện Cư Kuin. Bốn công an bị giết, 2 bị thương nặng gồm Thượng úy, Đại úy, Thiếu tá. Hai đồng chí Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND thì đều hy sinh. Các cán bộ được gởi đến công tác ở chốn xa xôi này và chịu thương vong là người miền Bắc từ Nghệ An, Thanh Hóa đến Bắc Giang, Hưng Yên.


Hiện tại ở bộ Ngoại giao mọi cấp tùng sự trong và ngoài nước hầu như toàn người Bắc độc chiếm. Có thể thấy qua vụ tham nhũng ”Các chuyến bay giải cứu” năm 2021-22 thời dịch Covid-19.

Xướng ngôn viên, MC truyền thanh, truyền hình trên khắp nước hầu như đều phát âm giọng Bắc.

Các Đại tướng QĐND và CAND tại chức đều là người miền Bắc, lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

Nhờ đó ta đánh nhau rất giỏi, siết chặt an ninh, kinh tế thoái trưởng!

Nói về Đảng thì Tổng bí thư hiện nay phải không được là người miền Nam… Nói chung, trong Nam ở đâu thì người ngoài Bắc cũng được đưa vào chiếm đa số áp đảo về chức vụ và số lượng.

    6) Một đặc điểm quan trọng của miền Bắc về chiến lược dẫn đến ngày 30/4/1945 là sử dụng kế sách thứ 19 “Rút củi đáy nồi” (Phủ để trừu tân (釜底抽薪) trong ‘Tam thập lục kế‘, đánh tiêu hao hậu cần. Thi hành Hiệp định Hòa bình Paris kêu gọi ngừng bắn (và cấm Bắc Việt đưa thêm quân vào Nam Việt Nam), Hoa Kỳ bắt đầu rút quân khỏi Việt Nam vào năm 1970, và những người lính cuối cùng trở về vào tháng 1 năm 1973, xem như Mỹ tác chiến bị CS Bắc Việt vô hiệu hóa.

Ngay sau Hiệp định hòa bình Paris, Quốc hội Hoa Kỳ đã cắt giảm ngân sách lớn cho viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam. Cọng với mất sự cộng tác trực tiếp của binh lính Mỹ về nước, bị rút củi đáy nồi QLVNCH nhanh chóng rơi vào tình trạng hỗn loạn. Mặc dù vẫn là lực lượng chiến đấu hiệu quả trong suốt năm 1973 và 1974, nhưng đến năm 1975, lực lượng này đã tan rã.

Sài Gòn, thủ đô của Nam Việt Nam, đã bị QĐND Việt Nam vũ trang hùng hậu với đại pháo, xe tăng Sô-Tàu chiếm vào ngày 30/4/1975 và Chiến tranh Việt Nam kết thúc.

Kế 20 - Hỗn thủy mạc ngư (混水摸魚) Đục nước bắt cá. Bắc Việt lợi dụng tình thế hỗn loạn để bắt trọn địch quân.và thi hành các mục tiêu kinh tế, chính trị của mình.

____

Lời Kết.

Thông thường với một chiến thắng lớn, bên thắng tổ chức kỷ niệm, lâu dần nhắc nhở cho có lệ.

Năm nay 2025 lễ kỷ niệm đánh dấu 50 năm ngày 30/4/1975 rất lớn song có ý nghĩa vô cùng tiêu cực. Với thời gian chia rẽ và thù hận càng sâu sắc. Lỗi tại bên nào? 

Hàng triệu người Việt Nam sống ở nước ngoài, khắp năm châu từ Úc qua Âu châu sang Canada, Mỹ đã tưởng niệm ngày 30/4 năm nay với chủ đề “Hành trình 50 năm tìm Tự do”.

Lễ lạc gồm Thượng kỳ, hội thảo, văn nghệ trình diễn, công chiếu các bộ phim Thuyền nhân vượt biển; radio và Đặc san 50 năm rời quê hương, lột trần mặt trái giải phóng, tri ân nước đón nhận.

Tại quốc nội năm nay 2025, ngày 30/4/1975 được gọi là ngày Đại thắng giải phóng miền Nam. Ngày lễ kỷ niệm 50 năm thì được gọi là ngày Đại lễ Kỷ niệm 50 năm. Thêm chữ ‘Đại’.

Cộng sản cho triển khai một chương trình đại lễ đồ sộ, tráng lệ, gây tiếng vang quốc tế, làm nên lịch sử. Khối quần chúng mọi tầng lớp và kiều bào thì diễu hành; diễu binh thì với 3 ngàn binh sĩ và công an đáp xe lửa từ Bắc vào nhập cuộc cùng quân đội ba nước lân cận tham gia, rất độc đáo. Có hơn 13 ngàn người đồng diễu. Khối vũ trang mặc quân phục mới toanh, màu sắc tùy theo binh chủng, động tác tay chân nhịp nhàng, oai vệ, đẹp mắt; chia thành nhiều toán, mỗi toán hàng ngang 10, dọc 10, thêm 1+3 người đi trước mang cờ. Như vậy đoàn người đi kéo dài có đến vài cây số? 

Vắng mặt trình diễu cơ giới, đại pháo, tên lửa… Song có màn bắn pháo bông tại 30 địa điểm, trình diễn thiết bị bay không người lái (drone) trên sông Sài Gòn, bắn 21 loạt đại bác. Đoàn trực thăng bay lượn giăng cờ sao vàng búa liềm, phi đội tiêm kích biểu diễn nhào lộn, gầm rú trên bầu trời, xếp hình xe tăng tiến vào Dinh Độc Lập…

Làm linh đình cho lắm cũng không rửa sạch được các tội ác tày trời đi giải phóng!

Đại lễ còn gồm thực hiện các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, thi đua, khen thưởng, hội thảo, tọa đàm, triển lãm văn hóa, văn nghệ, hòa nhạc, thể thao ở mỗi cơ quan, mỗi địa phương.

Có gần 7.000 bài dự thi tìm hiểu 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Giá dự thi có bài nói đến nỗi thống khổ của đồng bào miền Nam bị giải phóng lột sạch song cũng vui thầm đã giúp ích đồng bào miền Bắc thoát cảnh nghèo và tiếp cận lối sống phóng khoáng tự do dân chủ, công bằng bác ái, văn minh đa chiều!

Thói thường “Giấu (ẩn) ác khai thiện”. Cộng sản làm thế. Để duy trì chính nghĩa thể chế độc đảng, mỗi năm đến ngày 30/4/1975 CSVN lại thừa cơ khơi dậy hận thù và lòng yêu nước, lôi Mỹ ra chửi bới, gán ghép các tội ác trong chiến tranh Việt Nam và kể công đã oai hùng đánh tên đầu sỏ Đế quốc cút về nước! Mỹ thì chỉ thị các quan chức ngoại giao không đến tham dự Đại lễ 30/4.


Lê Bá Vận

____

Chú Thích.

(1) Cố Tổng bí thư Đỗ Mười (nhiệm kỳ 1991-1997) lúc ông đang là ủy viên ban bí thư Trung ương Đảng phụ trách đánh tư sản, kiểm kê và tịch thu tài sản nhân dân miền Nam, ngày 20/02/1976 vào lúc 10 giờ 15 phút, trước sân tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, được kể lại là đã từng tuyên bố:

“Giải phóng miền Nam chúng ta có quyền tịch thu tài sản trưng dụng nhà cửa, hãng xưởng, ruộng đất chúng nó [ám chỉ người dân miền Nam], xe chúng nó ta đi, vợ chúng ta lấy, con chúng nó ta bắt làm nô lệ, còn chúng nó thì ta đày đi kinh tế mới và nơi rừng sâu nước độc, chúng nó sẽ chết lần mòn”. (nguồn: Thầy giáo trong trại tù cải tạo  https://conganhuynh.com › ThayGi... ).

_____

  

Hai khía cạnh của ngày 30/4/1975 chiến thắng oai hùng giải phóng miền Nam.