Tác phẩm: Living this life fully- Stories and teachings of Munindra Tác giả Mirka Knaster –
Bs thú y Nguyễn Thượng Chánh, DVM chuyển ngữ
https://thuvienhoasen.org/a10180/binh-than-trong-tinh-thuc
Theo Thiền sư Munindra (1915- 2003), tỉnh thức không
phải là điều huyền bí nhưng đó là một một trạng thái bình thường mà chúng ta ai
cững có thể thực hiện được bất cứ lúc nào hết.
Nên hành thiền trong mọi hoàn cảnh và cho mọi sự việc:
lúc ăn, lúc uống, lúc thay quần áo, lúc thấy, lúc nghe, lúc ngửi, lúc nếm, lúc
sờ mó, lúc suy nghĩ…
Không phải chỉ có suy nghĩ mà thôi, nhưng đó còn là nhận
thức từng khoảnh khắc, từng giây phút một mà không để tâm bám víu vào
(not clinging), không kết tội, không phán xét,không đánh giá (not evaluating), không so sánh, và không lựa chọn.
Khai mở chánh
niệm (mindfulness) là yếu tố quan
trọng nhất trong tiến trình dẫn đến giác
ngộ. (process of awakening).
Tâm ý và chánh niệm
Bản chất của tâm ý là không có màu sắc. Khi đượm màu sắc,
đó là “tham ý” (greedy mind). Khi sân hận bùng ra ngay
trong giây phút, đó là “tâm ý nóng giận”
(angry mind).
Nếu không có chánh
niệm
(sati,mindfulness), tâm ý sẽ bị
chi phối bởi sự nóng giận,cáu kỉnh. Sân hận, tạo ra độc tố và làm ô nhiễm tâm
ý. Nhưng tâm ý không phải là nóng giận, nóng giận không phải là tâm ý. Tâm ý
không phải là tham (greed), tham
không phải là tâm ý.
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay
không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả
năng hiểu biết” (knowing faculty),
“khả năng tri nhận” (cognizing faculty)
Chánh niệm là một việc khác: tỉnh giác (alertness), tỉnh thức (awareness), nhớ lại (remembering), chuyên tâm
(heedfullness). Nó có nghĩa là không
quên, chỉ cần tỉnh thức, chánh niệm những việc gì đang xảy ra. Khi chúng ta phải
đi trên cầu tre chật hẹp để qua sông, chúng ta phải thận trọng từng bước một. Nếu
quên đi, có thể mình sẽ bị rơi xuống nước. Lúc không có chánh niệm chúng ta sẽ
bị thương hoặc bỏ mạng.
Vậy, thực tế cho biết chánh niệm là sự không quên những
gì đang thật sự xảy ra ngay trong giây phút hiên tại, trong tư tưởng, trong ý
nghĩ, trong lời nói và cả trong hành động.
Thiền sư Munindra nói rằng mặc dù tâm ý lúc nào cũng
có đó, nó vẫn hoạt động, nhưng không phải lúc nào chánh niệm cũng vẫn hiện diện
bên ta.
“Rất nhiều lúc
bạn cảm thấy tâm ý còn đó, ở ngay bên bạn, nhưng bạn không ở bên tâm ý. Tâm ý
đang ở tận đâu đâu vì bạn đang bận lo nghĩ đến chuyện gì khác chẳng hạn như
trong lúc đang ăn, đang nhai một cách máy móc, không cần suy nghĩ, không có chánh niệm (unmindfully).
Chỉ có một cách duy nhất để hướng dẫn mọi hành động đó
là cần phải có tỉnh thức trong từng giây
phút một (with moment to moment
awareness)”.
Có nhiều cách hành thiền
chánh niệm
Thiền sư Murindra cho rằng có nhiều cách hành thiền
chánh niệm vipassana (inside
meditation, nội quán). Tất cả đều là phương tiện. Khi đã hiểu
được cách hành thiền của một môn phái rồi thì thiền giả có thể tiếp nhận dễ
dàng phép hành thiền của các môn phái khác.
Bất kỳ theo cách của một môn phái nào đi nữa thì cũng
đều có ích lợi hết, và nên ghi nhớ rằng mình phải giữ cho tâm rộng mở vì không
có gì để bám víu cả.
Khi tâm ý đã đạt đến trạng thái tỉnh lặng rồi thì năng
lực sẽ được phục hồi trở lại. Lúc đó hành thiền không cần phải cố gắng lắm,
không gò bó lắm. Nó trở nên hài hòa cho cả cơ thể.
Khi chúng ta đã hiểu rõ tiến trình của thiền quán rồi
thì nó trở nên rất dơn giản.
Lúc chưa hiểu rõ, thì thiền có vẻ vô cùng khó khăn vì
chúng ta chưa được huấn luyện để chỉ chấp nhận việc đang xuất hiện ra trong hiện
tại màkhông bám víu, không kết tội, không phán xét.Khi chúng ta hiểu được
Pháp (Dharma) rồi, thì thiền trở thành một việc rất bình thuờng-nó là một
lối sống.
Khi một người đã đạt được mức chánh niệm rồi thì một
thời gian sau đó thiền trở nên tự động, không đòi hỏi một sự cố gắng nào cả
cũng như không có tranh chấp với cơ thể.
Lợi ích của chánh niệm
Chúng ta dễ thành công trong mọi sinh hoạt nếu mình
làm trong chánh niệm.
Không những chỉ có ích lợi về mức độ tâm linh (spiritual) mà thôi, nhưng chánh niệm
cũng còn có ích lợi cả về mặt thể chất (physical
level)nữa.
Đây là một tiến trình thanh lọc (purification).Khi tâm ý được tinh khiết,
nhiều bệnh tật thuộc tâm thể (psychophysical
diseases) sẽ khỏi đi một cách tự nhiên.
Chúng ta hiểu được các cơn tức giận, hận thù,
ganh tức của chính mình- tất cả các tâm sở bất thiện (unwholesome factors) xuất hiện trong tâm ý nhưng chúng ta không hiểu
tại saorất nhiều căn bệnh về tâm tích tụ một cách vô thức (unconsciously) hoặc
do phản xạ từ cảm xúc(reflex action emotionally), có thể được kềm hãm
lại, nhưng không thể xem là được loại bỏ hoàn toàn.
Thiền sư Munindra được hỏi có khi nào ngài nóng giận
không? Ngài trả lời làđôi khi có.Nhưng khi nóng giận, cáu kỉnh đến thì đều có dấu
hiệu báo trước hết. Đó là cảm xúc khó chịu. Khi có dấu hiệu, chúng ta đừng nên
để nó thoát ra ngoài miệng bằng lời nói hay bằng hành động. Hảy để nó đi qua. Hảy
nhìn nó, nhận diện nóbằng chánh niệm,và thầm nhủ tong tâm: “nóng giận, nóng giận,
nóng giận”.
Khi chúng ta tiếp cận và nhận ra được chúng,
chúng ta sẽ cảm thấy bớt đi được một số bệnh tật về thể chất và về tinh thần.
Chúng ta được dễ chịu, và yêu đời hơn.
Khi chúng ta để tâm đến chúng, chúng ta thấy chúng
không có bản chất tỉnh (not static):
Đó là một tiến trình, sau đó thì chúng biến đi, nhưng đừng mong đợi chúng đến
hay chúng đi. Nếu mong đợi, chúng ta vướng mắc của mong đợi (expecting mind).
Không bám víu, không kết tội, không hy vọng. Bất cứ việc
gì xảy đến cho mình thì hảy nhận nó như thế trong hiện tại, ngay trong giây
phút đó, không khen, không ghét. Nếu thương thì mình nuôi dưỡng nó bằng tâm
tham (greed), nếu ghét nó thì nuôi dưỡng
bằng tâm sân hận (hatred). Cả hai
cách đều làm cho tâm bị mất quân bình(unbalanced),
không lành mạnh (unhealthy), không tốt
(unsound).
Vật thể (object)
tự nó không tốt cũng không xấu. Chính tâm ý mình gán cho nó một màu sắc-nói nó
tốt hay xấu. Chúng ta bị ảnh hưởng bởi lý lẽ đó và có phản ứng. Hảy nhẹ nhàn,
bình thản trước mọi sự việc khi nó xảy đến.Giữ cho tâm ý được quân bình. Chúng
ta đang noi theo con đường Trung đạo (middle
path). Hảy hoàn toàn tỉnh giác (fully
alert)
Những cảm giác khó chịu, cảm giác xấu rất nổi bật
trong ta.Ngược lại khi mình có được cảm giác tốt, dễ chịu thì mình hay ít quan
tâm đến chúng. Mình không thích cảm giác khó chịu, bực bội nên kết tội chúng.
Chúng ta cần đào xâu trong cảm giác xấu. Chúng ta cần
phải hiểu chúng là gì.
Cần phải có sự cân bằng giữa tâm và trí, giữa cảm xúc
(emotion) và tri thức (intellect), giữa đức tin (faith) và sự khôn ngoan (wisdom). Vậy làm sao thực hiện? Chỉ
có sati, hay chánh niệm mới đem lại trạng thái quân bình, sự
cân bằng cho cả hai.
Quá cố gắng làm cho chúng ta bồn chồn (restless), quá nhiều tập trung tư tưởng
(samadhi, concentration) làm cho chúng ta buồn ngủ. Làm thể nào để biết
cần bao nhiêu sức cố gắng, cần bao nhiêu samadhi mới đủ?
Đó là nhiệm vụ của chánh niệm.
Khi có chánh niệm, sẽ có được sự quân bình giữa tâm và trí.
Kết luận
Nếu
chúng ta biết sống giây phút hiện tại trong chánh niệm và với tâm trong sạch
(thí dụ trong đức hạnh, (virtue hay sila) thì
giây phút sắp tới sẽ viên mãng và có được một tương lai tốt đẹp.
Con đưòng Trung đạo sẽ đưa ta về hướng giải thoát,
hoàn toàn ra ngoài vòng sanh tử./.
This is the direct path for the purification of
beings, for the surmounting of sorrow and lamentation, for the disappearance of
pain and grief,for the attainment of the true way, for the realization of
nibbana- namely, the foundation of mindfulness. -THE BUDDHA, MN 10.2
Giải thích thêm:Trung Đạo hay Bát
Chánh Đạo:
“ Con đường dẫn tới giải thoát khổ đau được gọi là
Trung Đạo vì nó tránh hai cực đoan, đó là hưởng thụ lạc thú vật chất và ép xác
khổ hạnh.
Chỉ khi nào thân thể được thoải mái với những tiện
nghi hợp lý mà không hưởng thụ những lạc thú vật chất một cách quá đáng, thì
tâm trí mới có sự trong sáng và khỏe mạnh để hành thiền và chứng ngộ chân lý.
Pháp tu Trung Đạo là siêng năng vun bồi đức hạnh, hành
thiền, và đạt đến trí tuệ, là những pháp tu được giải thích chi tiết trong Bát
Chánh Đạo, đó là tám điều chánh đưa đến an lạc và giác ngộ: bao gồm: Chánh ngữ,
Chánh nghiệp và Chánh mạng là trau dồi đức hạnh. Đối với Phật tử
tại gia thì cố gắng giữ năm giới: 1/ Không giết người hay các loài sinh linh
khác; 2/ Không cố ý lấy tiền bạc và tài sản của người khác; 3/ Không tà dâm; 4/
Không nói dối, nói lời độc ác, nói lời thêu dệt và nói lời hai lưỡi; 5/ Không uống
rượu hay các chất ma túy, là những thứ làm suy yếu sự chánh niệm và ý thức về đạo
đức. Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định, là nói đến việc hành thiền vốn
có tính cách thanh lọc tâm trí qua chứng nghiệm trạng thái an tĩnh nội tâm và
hành thiền còn có tích cách tăng cường cho tâm trí thông hiểu ý nghĩa của đời sống.
Chánh Kiến và Chánh Tư Duy là sự hiển lộ của Phật trí, chấm dứt mọi khổ đau,
chuyển hóa bản thân và đạt được sự an lạc bất biến cùng với từ bi vô lượng.”
Tỉnh thức
“…Tỉnh
thức là thực hiện hành động với đầy đủ ý thức, ngay cả trong lúc thở, đi, đứng,
nằm, ngồi, v.v. Mục đích của sự chú tâm là kiểm soát và làm lắng dịu tâm. Đây
là một trong những điểm trọng yếu của thiền tập trong Phật giáo, bao gồm việc
tu tập tỉnh thức thân, khẩu và ý để hoàn toàn tỉnh thức về việc mình làm và cái
mình muốn. Chánh niệm là phần thứ bảy trong tám phần của Bát Thánh Đạo. Nhờ
chánh niệm mà hành giả có thể hiểu được thực tính của vạn hữu…”
PHẬT TỬ ĐỐI TRỊ DỊCH BỆNH-cư
sĩ Nguyên
Giác
https://thuvienhoasen.org/a33456/phat-tu-doi-tri-dich-benh
Người Phật tử trước dịch bệnh
Covid-19-Ngọc Diệp thực hiện
https://thuvienhoasen.org/a33495/nguoi-phat-tu-truoc-dich-benh-covid-19
Các bài viết của Bs Nguyễn Thượng Chánh Thư Viện Hoa Sen
http://thuvienhoasen.org/author/post/52/1/nguyen-thuong-chanh
No comments:
Post a Comment