(Hình minh họa)
Cội mai già trước giáo đường đang lả ngọn vàng bông, đàn chim sẻ ríu rít dưới hiên nhà, nhưng tiếng nô đùa của đàn trẻ thường ngày im bặt, khiến buổi chiều xuân thật hoang vắng .Nhiều loạt súng nổ càng lúc càng gần.Từng khoảnh khắc im lặng là từng nỗi lo lắng căng thẳng trong lòng mỗi người dân trong ấp nầy!
Bây giờ là mồng hai Tết Mậu Thân (1968) , chiến tranh đã tràn vào xã mà từ
trước đến giờ rất thanh bình! Tờ mờ sáng đã đánh nhau dữ dội quanh đồn Cầu Dứa…
Số đông dân chúng đã chạy vào nhà thờ trú ẩn. Ngôi nhà thờ nhỏ bé, nhưng phải chứa
hơn trăm người, thật chật chội và ngột ngạt!
Cha Hòa đã
cao tuổi tóc bạc phơ, quần áo của ông hôm nay thật xốc xếch…Người di chuyển
luôn, lúc thì hướng dẫn các thanh nữ băng bó vết thương cho các nạn nhân trúng
đạn, lúc an ủi gia đình nào đó đang khóc la vì quá sợ hãi, lúc thì Ngài hướng
dẫn cầu nguyện chung. Tuy mệt nhọc nhưng lúc nào gương mặt ngài cũng tỉnh táo,
sẵn sàng cất tiếng an ủi từng người một, từng gia đình để trấn an trong hoàn
cảnh nguy biến!
Dòng sông
nhỏ sau giáo đường trôi lặng lờ mang theo những đám lục bình xanh biếc. Bốn năm
người lính hình dáng mệt nhọc, núp sau đám dứa gai cuối sân nhà thờ, họ đăm đăm
nhìn về phía đồn Cầu Dứa, đang bốc cháy, khói lên ngùn ngụt. Từ xa ngược dòng
sông, một chiếc xuồng con ba người lính chèo vội đến khu vực nhà thờ.
Xuồng chưa cập sát bờ, một trong ba người đã vội nhảy lên bờ, cúi mình chạy
đến đám lính, ông ngồi hụp xuống ra lệnh cho họ chuẩn bị rút qua sông. Ngay sau
đó ông vội chạy nhanh vào phía sau nhà thờ. Bấy giờ mới nhận ra ông là thiếu úy
trưởng đồn Cầu Dứa
Viên thiếu
úy tìm gặp Cha Hòa, lúc đang băng bó cho một em bé, ôn tồn nói :
- Thưa Cha, xin đề nghi Cha cùng theo chúng con qua sông, chung con được lệnh
rút đi vì áp lực địch quá mạnh !
Cha Hòa hỏi :
- Thế thì
quý vị không còn bảo vệ cho chúng tôi sao?
Viên Thiếu
úy ôn tồn giải thích:
- Thưa Cha bây giờ tạm thời rút qua sôngđể bảo tồn lực lượng, khi có tăng viện thì trở lại, mong Cha cũng rời nơi nầy,
nếu địch đến đây Cha sẽ gặp khó khăn!
Cha Hòa đáp:
- Tôi cũng biết như vậy, nhưng làm sao tôi
nở bỏ đám chiên lành trong cơn chiến loạn được, thôi thì thiếu úy cứ thi hành lệnh cấp trên. Tôi quyết ở lại,
giờ phút nầy chúng tôi không còn được chính quyền bảo vệ, chúng tôi chỉ còn cậy
ơn Thiên Chúa, đó là niềm hy vọng tuyệt đối của chúng tôi mà thôi. Xin Thiếu úy
hiểu cho, tôi sống ở đây bao nhiêu năm, chẳng lẽ trước nguy biến tôi bỏ họ, tìm
sự bình yên cho chính mình sao!
Thấy không
thuyết phục được vị Linh mục, thiếu úy chào ngài rồi bước ra khỏi nhà thờ mà
lòng đầy lo lắng. Mặc dù thiếu úy là một người lương nhưng rất quý trọng Ngài
như một vị tuyên úy của đơn vị, nhờ bài giảng yêu thương của linh mục mà anh em binh sĩ sống trong đồn sống đoàn kết, sự liên hệ giữa binh sĩ và dân
chúng xung quanh đồn rất hòa thuận nhau!
Sau đó các
binh sĩ cuối cùng rời khỏi vị trí. Màn đêm xuống dần, cảnh vật bên ngoài trở
nên thinh lặng, một sự thinh lặng đáng sợ! Giờ đây tất cả những người trú ẩn trong
nhà thờ chỉ còn hướng lòng mình lên Thiên Chúa. Phó thác mọi sự cho Ngài. Sự
mầu nhiệm của đức tin hiển hiện trong nỗi cô đơn và đau khổ của con người.
Người ta cầu nguyện liên hồi!
Trời sáng
dần, quanh nhà thờ xuất hiện nhiều người mặc đồ đen , mang súng tiểu liên, có
lẽ đêm qua họ bao vây nhà thờ.
Cho đến giờ
nầy vị tu sĩ già vẫn bình tỉnh và thản nhiên chăm sóc cho những người bị thương
đang nằm ở góc tòa giảng. Ngay khi đó ba người mặc y phục đen vào nhà thờ. Một
người lớn tuổi, có thể là cấp chỉ huy cất tiếng :
- Ai trách
nhiệm trong nhà thờ nầy?
- Tôi là
linh mục Hòa.
- Anh có
biết tên công an nào đang ẩn trốn trong nhà thờ nầy không? Người chỉ huy gằn
giọng hỏi Cha Hòa.
- Ở đây chỉ
có dân còn lính thì rút đi hết rồi, cha Hòa đáp.
Lúc đó một
người mang tiểu liên cưởng bức hai nông dân đi thẳng tới chỗ cha Hòa
đứng.
Người chỉ
tay thẳng vào hai người đó và la to :
- Anh có biết hai tên Nhân và Tính là công
an không?
Cha Hòa ôn tồn đáp:
- Họ là hai nông dân hiền lành cư ngụ ỏ đây rất lâu, tôi biết
rõ họ lắm!
Người chi huy gằn giọng :
- Anh Hòa và hai anh kia theo tôi.
Ngay khi đó hai người mang tiểu liên bức bạch họ về hướng khu rừng tràm đến khi
mất hút.
Trọn ngày và
đêm hôm đó. Không khí sợ hãi bao trùm cả thôn làng; nhiều người dự đoán khu nhà
thờ không cò an toàn nữa, nên họ tản lần về nhà. Còn một số ở lại họ luôn luôn
cầu nguyện.
Qua hôm sau
trời vừa hừng sáng, nhiều trực thăng quần thảo trên bầu trời. Quân đội đã xuất hiện đông đảo, chỉ còn nghe vài loạt súng lẻ tẻ, Những người
lạ mặt mặc y phục đen mang súng tiểu liên đã lẫn trốn mất dạng.
Một số giáo
dân chạy theo quân đội đi sâu vào khu rừng tràm để tìm cha Hòa và hai anh Nhân,
Tính.
Họ lục soát
từng bụi cây dọc theo bờ con rạch nhỏ, người ta thấy xác của Cha Hòa và xác của
hai anh Nhân, Tính nằm sấp trên chiếc ghe tam bảng, máu đã nhuộm đỏ
trên áo cha, người ta bế cha lên, lồng ngực Cha còn hơi ấm, chứng tỏ họ vừa
giết cha trước khi rút chạy.
Cha được đưa
về Thánh đường, giáo dân có mặt đông đủ, ai nấy đều khóc. Người ta thương tiếc
cha, một tôi con của Chúa đã tận trung trong chức vụ, một đời sống bình dị theo
gương của Chúa Cứu Thế, một cuộc đời cho ai tin tưởng nơi mình.
Giờ nầy cha
bình thản ngủ yên trong tay Chúa sau khi máu Ngài đã thấm đỏ trên mảnh đất quê
hương! Mùa xuân cũng đã mất!
Bầy chim sẻ
dưới hiên nhà không còn ríu rít, không gian chìm lặng, những cánh mai vàng đổ
nhiều ngoài sân. Cha Hòa “ra đi”, mùa xuân đã mất, xóm đạo buồn, hãi hùng trong
chinh chiến điêu linh!
*Nhớ lại một mùa Tết đau thương
Hàn Thiên Lương
No comments:
Post a Comment