***
Không ít người nhận mình là "Tin Lành", "con dân Chúa", hoặc
"con cái của sự sáng", thường có tác phong như thể chỉ có họ mới
thiêng liêng, còn người khác đều là phàm tục. Họ đến nhà ai, hễ thấy có bàn thờ
giữa nhà, mắt họ lắm la, lắm lét như thể đang bị ma đuổi. Có người còn để lộ cử
chỉ xem thường gia chủ vì "cái tội" có bàn thờ giữa nhà. Chuyện người
ta tin thờ ai là quyền của người ta, nếu mình không thích, mình nên đi chỗ
khác, chứ không thể có thái độ bất nhã đó.
Thay vì khéo léo giải thích lẽ đạo của Chúa để người khác biết về sự cứu rỗi của
Ngài để sau khi tiếp nhận Chúa họ điều gì cần giữ, điều gì cần bỏ, họ đã trịch
thượng lên án gia chủ có bàn thờ trong nhà và bảo người ta là phải dẹp bàn thờ,
nếu không sẽ xuống địa ngục. Tôi xin nói ngay, với "cái mửng" hay kiểu
này, chưa chắc ai xuống địa ngục trước ai?
Tình trạng những ông bà mục sư Việt Nam cùng phái đoàn của nhà thờ đi thăm viếng
gia đình tân tín hữu đã tạo ra sự "đổ vỡ" sau khi người ta tiếp nhận
ơn cứu rỗi của Chúa là chuyện có thật. Họ đến nhà người ta, nhìn thấy có cái
bàn thờ giữa nhà, họ phê bình và xúm lại ép người ta dẹp bàn thờ của gia đình
người ta. Họ không cần biết bàn thờ đó do người nào trong gia đình thiết lập,
mà chỉ biết hăm dọa tân tín hữu nếu không dẹp, sẽ xuống "địa ngục".
Thật tội nghiệp những người tân tín hữu nêu trên. Lẽ đạo thì chưa thông mà họ
phải chứng kiến cảnh người khác làm cái việc giống như thể cào mồ, cuốc mả ông
bà, cha mẹ họ. Mấy ông bà "con trời" này đã áp lực những người chưa
hiểu thấu những gì Chúa khuyến cáo trong Thánh Kinh phải lập tức vứt bỏ biểu tượng
thiêng liêng cả đời họ gìn giữ, tôn thờ, nên lòng họ rất ấm ức và khó chịu. Làm
sao họ không đau buồn khi thấy mình đang theo một tôn giáo mà có những người
ngang nhiên xúc phạm đến bàn thờ cha mẹ hay ông bà của mình. Kết quả, họ đã bỏ
nhà thờ và xa lánh các ông bà "con trời" đó. Có người bỏ nhà thờ cho
đến khi họ qua đời. Đây không phải một hai vụ, mà nhiều vụ như thế. Tôi nói mà
không sợ là mình nói sai, chính những người này đã vô tình cản trở người khác
vào Thiên Đàng.
Một tín hữu Tin Lành kể tôi nghe là tại Portland, Oregon, Hoa Kỳ, có chị kia
cùng người em gái tìm hiểu lẽ đạo của Chúa qua nhà thờ Tin Lành. Kết quả, người
chị tiếp nhận sự cứu rỗi của Chúa còn người em vẫn còn đang tìm hiểu. Ngày kia,
không may người em đột ngột qua đời vì một chứng bệnh. Người chị đau khổ quá bởi
vì trong nhà chỉ có hai chị em. Người chị nghĩ đến nhà thờ nơi hay nói về tình
yêu thương nên chị ngỏ lời mời ông mục sư đến nhà cầu nguyện cho biến cố đau buồn
của gia đình chị. Ông mục sư và phái đoàn đến nhà chị, họ thấy có bàn thờ giữa
nhà, ông mục sư ra lệnh phải dẹp, ông mới cầu nguyện. Xác cô em còn nằm trong
nhà quàng, lúc bấy giờ người chị đang đau khổ, nhờ mục sư của mình cầu nguyện lại
bị từ chối vì có cái bàn thờ giữa nhà. Bàn thờ đó là do hai chị em thiết lập
nên người chị chưa thể dẹp. Do đau khổ vì người em qua đời, buồn vì bị ông mục
sư khước từ lời cầu xin tha thiết của mình. Bí lối, chị chạy đến nhà chùa, mời
vị sư trụ trì đến tụng kinh cầu hồn hay cầu siêu gì đó. Sau tang lễ, người chị
không còn trở lại nhà thờ. Tôi không nói việc làm của cô chị là đúng hay sai
trong tình huống này, nhưng tôi hết ý kiến vì thái độ quá khích hay kỳ quặc
trong niềm tin của ông mục sư đó. Tôi nghĩ ông mục sư ấy đi dưới đất mà tưởng
mình đang bay trên mây. Thay vì giúp người ta hiểu và giữ đúng lẽ đạo của Chúa
lại đẩy họ về... chùa.
Tôi từng bị một số người Tin Lành "thiêng liêng" phê bình đại khái rằng:
"Ông HQB mà Tin Lành cái gì. Ngày Rằm ông đi chùa Phật Giáo, Thứ Bảy ông
đi nhà thờ Công Giáo, Chúa Nhật lại đến nhà thờ Tin Lành." Họ nói không
sai sự việc nhưng họ không rõ nguyên nhân. Họ không biết đúng sự kiện bởi vì họ
không hiểu tại sao tôi phải đến các nơi đó. Có lẽ họ tưởng rằng họ khôn hay
thiêng liêng hơn người khác nên mới dám đưa ra những nhận xét hồ đồ như thế.
Tôi từng đến nhà thờ Công Giáo và một số chùa Phật Giáo là chuyện có thật. Tôi
đến đó làm gì? Xin thưa, tôi từng được đồng hương Việt Nam và các tổ chức đoàn
thể tại Oregon tín nhiệm trách vụ chủ tịch suốt ba nhiệm kỳ (1995-2001). Trong
thời gian đó, tôi từng đôi lần hay nhiều lần đến thăm viếng các cơ sở tôn giáo
ngoại trừ Tin Lành. Tôi tránh nói chuyện sinh hoạt cộng đồng hay các vấn nạn tại
Việt Nam với mục sư người Việt bởi vì hầu hết người Tin Lành từng tự hào là họ
không thích hay không muốn đính dấp đến "chuyện chính trị". Tôi không
đến các cơ sở tôn giáo khác thể học đạo, theo đạo, hoặc để thờ phượng gì cả.
Tôi đến các nơi đó để bàn chuyện với cấp lãnh đạo của các tôn giáo là làm sao để
xây dựng một cộng đồng người Việt Quốc Gia tị nạn cộng sản được vững mạnh tại
Oregon.
Khoảng năm 1998, một ủy viên trong ban chấp hành cộng đồng mời tôi thăm viếng một
vị hòa thượng đến từ Canada. Đây là nhân vật lịch sử của thời Đệ Nhất Việt Nam
Cộng Hòa, khi người đến thuyết giảng tại một ngôi chùa ở Portland, Oregon. Tôi
hân hạnh được hầu chuyện cùng vị hòa thượng cao niên và nỗi tiếng đáng tuổi
cha, chú của tôi cả tiếng đồng hồ. Hòa thượng mời tôi lên chánh điện và tôi đã
từ chối. Tôi thưa cùng vị hòa thượng ấy rằng: "Con là một Cơ Đốc Nhân, con
không rành về nghi thức Phật Giáo, nên xin hòa thượng là nếu không gì trở ngại,
cho con được hầu chuyện với hòa thượng ở hậu liêu này có được không?" Vị
hòa thượng ấy đã không vì sự từ chối của tôi mà tỏ ra khó chịu. Trái lại, người
rất vui vẻ về lời đề nghị của tôi. Một già, một trẻ, khác niềm tin tôn giáo, ngồi
tâm tình, đàm đạo hằng giờ một cách thân mật và tích cực. Vị hòa thượng khả
kính ấy nói cho tôi nghe thêm về thuyết Nhà Phật, tôi trình bày niềm tin của
tôi và lẽ đạo của Chúa với người ngay tại nhà chùa một cách thoải mái. Tôi
không tin là qua việc làm đó mà tôi lại bị sa xuống địa ngục như một số người
Tin Lành lo ngại hay lầm tưởng.
Nhiều năm tham gia sinh hoạt với cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản tại Hoa Kỳ,
tôi có nhiều dịp tiếp xúc với các tôn giáo bạn và nhiều thành phần trong xã hội.
Tôi từng chạm trán những điều làm tôi hết sức chán ngán, đó là mấy ông bà nhận
mình người "quốc gia chống cộng", nhưng thích làm lợi cho VC. Thành
phần này quanh năm suốt tháng không làm gì cả, chỉ giỏi nằm nhà phê bình những
đóng góp của người khác. Kế đến là mấy ông bà nhận mình là "Tin
Lành" không chuyên tâm làm những điều đẹp lòng Đức Chúa Trời, nhưng chỉ
thích làm những điều ma quỷ mong đợi. Mấy người "Tin Lành" này không
có đời sống đạo, mà chỉ giỏi làm dáng đạo đức. Họ thích làm thầy, làm sư, mà
không thích làm công việc của thầy hay sư. Họ không giữ gìn tư cách, đạo đức mà
đáng lẽ "sư" hay "thầy" phải có. Họ hết sức mâu thuẫn khi sử
dụng lời Thánh Kinh. Điều nào có lợi cho cái "nồi cơm" hay chức vụ của
họ, họ cổ võ, giành giựt. Điều nào nghịch lại ý họ hay giáo phái của họ, họ bài
bác và lên án người ta là "tà đạo". Tôi có thể chứng minh hằng tá điều
mâu thuẫn của họ mà tôi có kinh nghiệm, nhưng bài viết này không nhắm vào các
điều đó nên xin hẹn lần khác.
Đối với tôi, người Tin Lành kiểu đó chỉ giỏi chọc giận thiên hạ hơn là giãi bày
chân lý đến từ Thiên Chúa được chép trong quyển Thánh Kinh. Họ đụng chạm niềm
tin người khác mà tưởng rằng mình đang làm chứng đạo. Họ trịch thượng bảo người
này phải dẹp bàn thờ hay người kia phải cất lư hương. Họ bày tỏ một loại đức
tin quá khích mà cứ tưởng làm sáng danh Chúa. Thành phần này Thiên Đàng chưa chắc
vào được mà chỗ đứng dưới trần gian đã bị mất đi.
Theo thiển ý của người viết, người khôn ngoan giao tiếp với mọi người để được
người ta, chứ không phải để giống những tiêu cực hay sai quấy của thiên hạ. Người
bản lĩnh biết giúp người khác hiểu đúng điều mình tin, song song với việc khéo
léo phê bình những điều mình biết là không đúng. Chỉ có kẻ dại mới hung hãn tấn
công niềm tin tôn giáo người khác chứ người khôn không ai làm như thế. (Tôi nói
niềm tin tôn giáo, chứ không phải các loại mê tín, dị đoan)
Tôi chưa từng thấy hay nghe nói có một ai đó tin Chúa hay theo đạo Tin Lành bởi
vì thái độ quá khích của mấy ông bà Tin Lành nào đó. Trái lại, tôi có bằng chứng
và kinh nghiệm là nhiều người tin Chúa là do cách ăn nết ở của những người thật
sự kính Chúa và yêu người.
Cũng do thái độ sai lầm của một số người Tin Lành quá khích đã khiến nhiều người
muốn tìm hiểu lẽ đạo của Chúa phải chọn làm người "vô đạo". Họ từ chối
tiếp nhận ơn cứu rỗi của Chúa để tội họ được tha, linh hồn của họ được cứu theo
lời Thánh Kinh và đây là điều ma quỷ luôn mong đợi.
Hai chữ "bàn thờ" rất thiêng liêng đối với nhiều người Việt Nam. Ngày
xưa bàn thờ còn được gọi là "giường thờ" hay "tủ thờ". Gọi
cách nào thì cũng để nói lên ý nghĩa thiêng liêng của những người xem bàn thờ
là biểu tượng cao cả về mặt tinh thần của gia đình và dòng họ. Lớn hơn nữa và
có tầm vóc một đất nước, người ta gọi là "Bàn Thờ Tổ Quốc".
Dù tôn giáo nào, dù cá nhân đó là ai cũng không có quyền xúc phạm đến biểu tượng
niềm tin tôn giáo mà người khác tôn thờ. Người không tin lời Thánh Kinh hay
không biết lời Chúa, đối với họ bàn thờ Tổ Quốc là thiêng liêng. Con dân Chúa
thật sự hiểu lời Chúa, sợ gì mà không dám đến gần "Bàn Thờ Tổ Quốc".
Ai tin tưởng, khấn vái là chuyện của người ta. Mình bày tỏ lòng kính trọng hay
cách hiếu thảo với Tổ Tiên theo lời dạy của Thánh Kinh, nhưng mình cũng phải biết
tôn trọng niềm tin của người ta chứ. Họ không biết Chúa phán gì trong Thánh
Kinh nên thờ Tổ Tiên hay Tổ Quốc kiểu của họ, có gì sai với cá nhân chúng ta
hay tiêu chuẩn con người trần gian?
Nếu có người Tin Lành nào không đồng ý với lời giải thích trên, xin cho tôi hỏi:
Lúc bước xuống tàu vượt biên lánh nạn VC, có ai bỏ tàu nhảy lên bờ chỉ vì thấy
trên tàu có trang thờ hay bàn thờ, mà người chủ tàu thờ "bà cậu" gì
đó của họ? Có ai vào nhà hàng Á đông hay Việt Nam mà phải bỏ chạy vì thấy có
trang thờ hay bàn thờ, để thờ thần tài, thổ địa, ông táo, hay ông tà mà người
chủ họ tin? Nếu ai muốn giữ sự "thiêng liêng" nên ngại những nơi có
bàn thờ, xin cho tôi hỏi tiếp: Có ai về Việt Nam du lịch hay thăm gia đình mà
phải nhảy ra khỏi máy bay khi phi cơ hạ cánh xuống các phi trường Thái Lan, Cam
Bốt hay Việt Nam với đầy dẩy bàn thờ ở dưới đất?
Vấn đề lập bàn thờ trong gia đình để thờ Tổ Tiên, hoặc tưởng nhớ Ông Bà và Cha
Mẹ sau khi qua đời, cũng như bày biện thức ăn để cúng vái những ngươi đã khuất
là việc làm của những người chưa biết hay chưa tin lời Chúa dạy. Đây cũng là một
trong những lý do đã khiến nhiều người Việt Nam khó chấp nhận niềm tin vào
Thiên Chúa bằng cách thờ phượng Chúa theo nghi thức của người Tin Lành. Điều
này giới lãnh đạo Tin Lành phải nhiệt tình giải thích hay cần nói rõ khi huấn
luyện người chăn bầy hay làm chứng đạo. Đừng để họ sau khi ra trường thi hành
chức vụ lại đi vào vết xe đổ của bậc đàn anh (Tin Lành Việt Nam) cả trăm năm về
trước. Theo tôi, các vị mục sư tiền bối đã vô tình tạo ngộ nhận "chết người"
mà sự ngộ nhận này đáng lẽ không nên có. Sự ngộ nhận hay hiểu lầm đó đã di hại
đến ngày nay cho việc làm chứng đạo trong vòng người Việt Nam vốn tôn trọng
phong tục thờ cúng tổ tiên và ông bà.
Mọi người cần hiểu rõ rằng, tin Chúa không phải chỉ thuần túy theo một tôn
giáo, nhưng để bày tỏ lòng tuân phục Ðức Chúa Trời, bằng cách công khai xưng nhận
đức tin của mình với Chúa Cứu Thế Jesus. Con người cần tin rằng Đức Chúa Jesus
đã chết vì tội của mình (tội tổ tông) và nhận Ngài làm cứu Chúa của mình để
linh hồn được cứu rỗi sau khi lìa trần. Điều này hoàn toàn không liên can gì đến
chuyện bàn thờ của người đời.
Sở dĩ người Tin Lành không lập bàn thờ để cúng vái hay thờ lạy người đã khuất
là vì việc làm đó nghịch lại Thánh Kinh. Điều cấm kỵ đó được chép trong mười điều
răn của Đức Chúa Trời. Thánh Kinh Cựu Ước, Xuất 20, chép về Mười Ðiều Răn. Tôi
chỉ xin nêu ra hai điều, một và hai có liên quan đến bài viết này: Một: "Trước
mặt ta, ngươi chớ có các thần khác." Hai: "Ngươi chớ làm tượng
chạm cho mình, cũng chớ làm tượng nào giống những vật trên trời cao kia, hoặc
nơi đất thấp này, hoặc trong nước dưới đất. Ngươi chớ quì lạy trước các hình tượng
đó, và cũng đừng hầu việc chúng nó; vì ta là Giê-hô-va Ðức Chúa Trời ngươi, tức
là Ðức Chúa Trời kỵ tà, hễ ai ghét ta, ta sẽ nhơn tội tổ phụ phạt lại con cháu
đến ba bốn đời, và sẽ làm ơn đến ngàn đời cho những ai yêu mến ta và giữ các điều
răn ta." (hết trích)
Với lời khuyến cáo trên của Đức Chúa Trời, con dân Chúa không thể sống theo
tiêu chuẫn do chính mình nghĩ ra nữa, nhưng tất cả phải được đặt trên nền tảng
Thánh Kinh. Người nào chịu trách nhiệm về phần thuộc linh cho tín hữu, người đó
có bổn phận phải giảng lời Chúa một cách ngay thẳng, giống như lời khuyên của Sứ
Ðồ Phao-lô dành cho Ti-mô-thê, "Hãy chuyên tâm cho được đẹp lòng Ðức Chúa
Trời như người làm công không chỗ trách được, lấy lòng ngay thẳng giảng dạy lời
của lẽ thật" (II Ti-mo-thê 2:15).
Nhiều người Việt Nam đã hiểu lầm rằng theo đạo Tin Lành là bỏ ông bà, bỏ cha, bỏ
mẹ. Ðiều đó hoàn toàn sai, nhưng tôi thông cảm và không ngạc nhiên về sự ngộ nhận
đó. Những câu chuyện mà tôi kể ở đầu bài viết là nguyên nhân tạo ra sự ngộ nhận
"chết người" này. Ngay cả Thiên Chúa mà Cơ Đốc Nhân cũng không vẽ ra
hình, hay tạc ra tượng để thờ lạy hoặc khấn vái những hình tượng đó bởi vì hành
động đó là nghịch với Thánh Kinh. Chính Đức Chúa Jesus đã phán, "Ðức Chúa
Trời là thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy"
(Giăng 4:24).
Bàn bạc nhiều nơi trong Thánh Kinh, Chúa dạy con người phải hiếu kính ông bà và
cha mẹ bằng cách hết lòng phụng dưỡng khi các vị còn sống, chứ không đợi đến
khi họ qua đời rồi mới làm việc đó. Có nhiều bằng chứng cho thấy, khi ông bà
hay cha mẹ còn sống, con cháu cho ở "nhà lá", nhưng khi các vị đó qua
đời, cháu con tranh nhau xây "nhà lầu" cho họ ở.
No comments:
Post a Comment