Monday, August 24, 2020

Ngon Ngọt Chết Người - Nguyễn Thượng Chánh, DVM

**-Disclaimer-(Chối từ trách nhiệm) tác giả không phải là y khoa BS, và cũng không phải là dược  sĩ – Bài viết chỉ là một tổng kết từ các tài liệu khoa học ngoại quốc đáng tin cậy mà thôi-Mọi nghi vấn xin các bạn vui lòng tham khảo với bác sĩ gia đình.


Cảnh đó người đây luống ngậm ngùi

Trong  tiệm Café bánh ngọt rất quen thuộc bên nhà SAIGON.góc Bùi chu-HTT

Thèm ngọt là một nhu cầu thiết yếu của cơ thể, để củng cố năng lượng.
Carbohydrate hay Glucide là những hợp chất bao gồm đường (sugar), bột đường hay tinh bột (amidon, starch) và chất xơ (fibre).
Những chất nầy rất cần thiết cho chúng ta để sống. Nhưng ngọt quá đôi khi cũng nguy hiểm lắm đó!
VIDEO: High Fructose Corn Syrup  (Michael Pollan. New York Times) 15 phút
                                                           
Đường đơn giản hay đường hấp thụ nhanh
(Sucre simple ou à absorption rapide)

Photo NTC

Đây là đường thiên nhiên theo nghĩa thông thường mà chúng ta hiểu…Những chất tạo vị ngọt nầy được thấy trong bánh, kẹo, chè, chocolat hoặc trong các loại nước ngọt loại regular như Pepsi, Coca, Soda, Seven Up, v.v…

Đường mía (saccharose), đường trái cây (fructose), đường sữa (lactose) là những thí dụ điển hình.

Trong ruột, đường đơn giản chuyển thành glucose và được hấp thụ vào máu một cách rất nhanh chóng.

Khi đường huyết glycémie tăng, lập tức tụy tạng sẽ tiết ra insuline để giúp tế bào hấp thụ glucose vào đồng thời kéo đường huyết xuống mức bình thường.

Đường phức tạp hay đường hấp thụ chậm
(Sucre complexe ou à absorption lente)

Vị hơi ngọt và gồm có bột đường (tinh bột) và các chất xơ.
Tinh bột được thấy trong bánh mì, khoai Tây, cơm, gạo, ngũ cốc và trong các loại pasta như nouille, macaroni, spaghetti, v.v...
Chất xơ có nhiều trong rau, cải, hoa quả, đậu, trong hạt dẻ (walnuts) cũng như trong các loại cereal làm từ hạt thô (wholemeal grain, grain entier)...

Đường phức tạp cần sự tác động của một số enzymes để chuyển ra thành glucose rồi mới được hấp thụ vào máu. Bởi lý do nầy, cho nên đường huyết tăng lên chậm hơn so với trường hợp đường đơn giản. 
Đường phức tạp rất cần cho các hoạt động biến dưỡng của cơ thể.
Đường đơn giản và đường phức tạp không thể thay thế lẫn nhau được.

Một gram đường cho ra 4 calories. Năng lượng dư thừa sẽ được dự trữ dưới dạng glycogen và mỡ... Ăn ngọt thường xuyên quá, mập ra cũng dễ hiểu mà thôi.

Tình trạng béo phì dễ dẫn đến các bệnh tim mạch, tăng huyết áp và tiểu đường. Ngoài ra, việc ăn nhiều đường, kể cả đường thiên nhiên như đường trái cây và mật ong cũng vậy, có thể đưa đến tình trạng hư răng nếu không chịu súc miệng đánh răng kỹ lưỡng.

Ăn nhiều bánh kẹo ngọt cũng có thể làm chất triglyceride (một loại chất béo xấu) trong máu gia tăng.

Người bị bệnh tiểu đường có thể dùng đường được   không?

Theo l’Association Canadienne du Diabète, thì họ vẫn có thể ăn ngọt được, nhưng phải ăn một cách điều độ chừng mực và vừa phải thôi. Họ cũng có thể thay thế đường bằng cách ăn trái cây, rau cải, hoặc bằng các sản phẩm của sữa.

Trong một ngày họ không được ăn quá giới hạn tối đa 10% calories từ các thức ăn ngọt.
Biết rằng 1gr đường cho 4 calories...
Trên đây là những chỉ dẫn chung chung mà thôi. Bệnh trạng mỗi người mỗi khác, nên chỉ có bác sĩ điều trị mới có thẩm quyền quyết định.
Theo khuyến cáo của American Heart Assocation: Added sugar (đường thêm vào):
- đàn ông tối đa:không nên dùng hơn 9 muỗng café /ngày
- đàn bà tối đa: không nên dùng hơn 6 muỗng café/ ngày.
Thực tế cho thấy người Mỹ dùng lối 22 muỗng added sugar/ ngày.
Some of the common added sugars include: corn syrup, dextrose, corn sweetener, maltose, malt syrup, glucose, molasses, sucrose, syrup, and high fructose corn syrup. These ingredients are commonly found in candies, cakes, cookies, and soft drinks. Other sugars, the naturally occurring ones such as fructose and lactose, can be found in fruit and dairy products, respectively.

Video :Where is added sugar hiding?

Các nhà khoa học Âu Mỹ đều nói rằng, không có mối liên hệ trực tiếp cho thấy đường là nguyên nhân gây ra bệnh diabetes type II. Nhưng về mặt sinh lý học, rất có thể đường gây ra bệnh diabetes một cách gián tiếp, chẳng hạn như trong trường hợp chúng ta thường tiêu thụ những thức ăn thức uống có chỉ số đường huyết (glycemic index) cao, khiến tụy tạng bị mệt mỏi và trở nên yếu đi, vì phải thường xuyên tiết insuline.

Gs Jim Mann thuộc Đại Học Otago, New Zealand cũng nhận định rằng đường gây béo phì  và tình trạng nầy sẽ dẫn tới bệnh diabetes. Mập bụng (abdominal obesity) là một mối nguy cơ (risk factor) làm xuất hiện bệnh tiểu đường type II..

Trong thực tế, rất khó tách rời ảnh hưởng của đường trong bệnh diabetes. Thêm đường vào thức ăn thức uống chỉ làm tăng calories ăn vào chớ chẳng làm gia tăng giá trị dinh dưỡng của sản phẩm.

Các khảo cứu về bệnh tiểu đường những năm gần đây nghi ngờ các loại nước ngọt có gaz như Coca, Soda, Pepsi, Seven Up, v.v...đã dự phần quan trọng trong sự xuất hiện của bệnh diabetes.

Vậy thì đường fructose có tốt hơn không? 
Đây là đường trích từ trái cây.
Fructose ảnh hưởng ít hơn các loại đường khác trong việc làm gia tăng đường huyết, vì vậy từ trước tới giờ các bệnh nhân tiểu đường thường được khuyên nên sử dụng đường fructose để tạo vị ngọt, nhưng ngày nay thì fructose mất dần sự sáng chói của nó.

Được biết rằng ảnh hưởng của fructose không mấy quan trọng trong việc kiểm soát đường huyết, vì nó không kích thích sự tiết insuline, và tai hại hơn nữa là nó làm tăng hàm lượng loại chất béo xấu triglyceride lên.

Sự gia tăng triglyceride trong máu là một yếu tố làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch. Thí nghiệm trên súc vật cho thấy fructose còn làm tăng sự kháng insuline (résistance à l’insuline), đồng thời cũng làm thay đổi hiện tượng dung nạp glucose (tolérance au glucose) và hiện tượng cao máu.

Thí nghiệm lâm sàng sơ khởi thực hiện ở người, còn cho biết fructose làm tăng cân do tác dụng xấu trên hàm lượng của hai hormones liên hệ tới sự no (satiété) và sự đói  (appétit)... Đó là hormones leptine và ghréline.
Fructose có chỉ số đường huyết (index glycémique hay IG) rất thấp, lối 22 nên làm tăng glucose trong máu lên chậm  so với đường sucrose (đường mía) có IG lối 67.
IG là vận tốc chuyển hóa của một chất bột đường carbohydrate ra  thành glucose để được hấp thụ vào máu. IG càng cao, đường huyết càng tăng nhanh.
Về mặt tạo năng lượng, 1 gram fructose cho ra 3 Calories trong khi 1 gram sucrose tạo ra 4 Calories.
Trong cơ thể, năng lượng dư thừa sẽ được chuyển ra thành mỡ.

- Fructose thiên nhiên trong trái cây chiếm một tỉ lệ không đáng kể. Nếu sử dụng một cách bình thường sẽ không hại gì đến sức khỏe.
Trong rau quả, fructose (và một vài loại đường khác) luôn luôn phối hợp với một số dưỡng chất khác để giúp cho việc hấp thụ được dễ dàng.
Lấy thí dụ, các chất xơ trong trái cây làm chậm lại sự hấp thụ của đường, cũng như sự hiện diện của các bần tố oligoéléments  như chrome, magnesium sẽ giúp vào tác động chuyển hoá của đuờng.

- Fructose tự do là dạng đường được cho thêm vào (added sugar) trong thức ăn thức uống để tạo vị ngọt. Người ta sử dụng đường Fructose cao của sirop bắp (high fructose corn sirup hay HFCS).

Tại Canada, kỹ nghệ thực phẩm cố tình tránh né danh từ HFCS, và họ thay thế bằng cụm từ Sugar/glucose-fructose trên các nhãn hiệu của sản phẩm.

HFCS được cho thêm vào sản phẩm để tạo vị ngọt nhưng không có kèm theo những dưỡng chất khác để giúp vào tác động chuyển hóa.

Tại Hoa Kỳ và Canada lối 40% thức ăn và thức uống biến chế công nghiệp đều có chứa đường fructose cao high fructose corn syrup(HFCS).

HFCS có thể được chế biến thành nhiều loại đường có độ ngọt khác nhau bằng cách cho thay đồi tỉ lệ glucose-fructose.

Thông thường, trái cây có chứa một tỉ lệ glucose - fructose bằng nhau 50/50, nhưng hầu như kỹ nghệ nước ép trái cây thường có khuynh hướng cho thêm fructose cao HFCS trong sản phẩm để giúp tăng độ ngọt lên.

HFCS được thấy trong trong các loại nước ngọt như Coca, Pepsi, Seven Up, soda, iced tea,chocolate,yogurt, bánh mì sandwich, ketchup, tomato soup, cereal ăn sáng, thỏi cớm  ngọt (energy bars, barres tendres, chewy granola bars), trong các loại bánh kẹo, và trong mật ong (honey) được pha HFCS một cách bất hợp pháp  v,v…
Tóm lại món nào ngọt là có đường high fructose corn syrup trong đó.


Canada Pepsi : Glucose –Fructose có nghĩa là HIGH FRUCTOSE CORN SYRUP(Photo NTC)

Coke regular  Hoa Kỳ chứa High Fructose Corn Syrup
Nước ngọt soda chứa toàn đường Fructoe (high fructose corn syrup)(Photo Vietbao.com)


Ảnh hưởng của đường high fructose corn syrup trên sức khỏe  
Một sự tiêu thụ bình thường fructose sẽ không có hại gì nhưng ngược lại, một sự thặng dư hay tiêu thụ quá tải đường fructose dưới dạng sirop bắp hay HFCS sẽ là nguyên nhân của nhiều thứ bệnh tật như tim mạch, béo phì và tiểu đường type 2.

Thông thường thì chất bột đường carbohydrate tiêu thụ sẽ được chuyển ra thành đường dơn glucose. Vào máu, glucose sẽ kích thích tuyến tụy tạng pancreas tiết hormone insuline giúp đem glucose vào tế bào để tạo năng lượng đồng thời cũng giúp vào việc điều chỉnh đường huyết glycémie ở mức độ thích hợp.

Riêng fructose được chuyển hóa tại gan. Một sư tiêu thụ quá nhiều fructose sẽ làm cho gan không chu toàn được nhiệm vụ tạo năng lượng và thay thế vào đó là sự tạo ra những chất mỡ xấu  triglycerides và được thải vào máu. Đây là yếu tố nguy cơ gây ra bệnh tim mạch.

Cá loại thức uống ngọt như Soda, Coca, Pepsi, 7 Up đều có chứa rất nhiều đường fructose dưới dạng HFCS.
Từ hơn 20 năm nay HFCS đã được kỹ nghệ thực phẩm sử dụng hết sức rộng rãi trong thức ăn thức uống sản xuất theo lối công nghiệp.

Vào cơ thể HFCS sẽ tạo ra các chất reactive carbonyls và làm tổn hại tế bào bêta của tụy tạng (nơi sản xuất insuline) và dẫn tới bệnh tiểu đường type 2.

Các thí nghiệm sơ khởi ở người cho thấy, fructose cũng làm tăng cân, gây béo phì do tác dụng xấu trên liều lượng của hai loại hormones liên hệ đến sư no satiety và sự đói bụng appetite.
Đó là hormone leptin và hormone ghrelin.

Một khảo cứu của Gs Luc Tappy, Lausanne Univ School of Biology & Medicine Thụy Sĩ cho thấy ảnh hưởng chuyển hóa đường fructose có hơi khác biệt tùy theo giới tính.
12 tham số parameters chuyển hóa fructose  (như tăng triglyceride, tăng glucose...) xuất hiện nhanh hơn ở nhóm thanh niên so với nhóm phụ nữ tham dự trong cuộc thí nghiệm.

Sản phẩm có chứa high fructose corn syrup

Vậy tại sao có sự thặng dư fructose?

Vấn đề thặng dư ở đây là do fructose tự do mà ra. Đó là fructose cao của sirop bắp (HFCS) được cho thêm vào thức ăn hoặc thức uống để tạo vị ngọt.

Trước những năm 70, Hoa Kỳ sử dụng toàn đường mía và đường củ cải (sucrose- saccharose), nhưng từ những năm 80 chánh phủ Hoa Kỳ cho tăng giá đường lên và đồng thời họ cho tài trợ ngành trồng bắp  trong xứ. Nhờ đó mà giá bắp được giữ thật thấp.
Kỹ nghệ thực phẩm không còn cách nào khác hơn là phải chọn nguồn đường rẻ tiền được sản xuất từ bắp. Đó là lý do xuất hiện đường fructose cao của sirop bắp (HFCS).

 HFCS là một loại đường dễ hòa tan, dễ sử dụng và đồng thời nó cũng có thời hạn dùng (shelf life) dài hơn so với các loại đường khác.

Đường hóa học và các chất thay thế đường

Đây là những chất có vị ngọt nhưng tạo ra rất ít calories.
Người ta chia chúng ra làm 2 nhóm:

1)- Nhóm có tính dinh dưỡng (édulcorants nutritifs): 
Xylitol, SorbitolMannitol, là những chất được làm từ trái cây. Người ta còn gọi những chất nầy là đường rượu (sucre alcoolique). Chúng có vị ngọt, nhưng lại có thêm tính nhuận trường nữa. Ăn trên 30g/ngày có thể bị tiêu chảy...
Mỗi gram của các chất này chỉ cho ra có 2 calories, trong khi đường cát cho ra 4 calo.
Các loại đường này không mấy phổ biến cho lắm, chỉ thấy được sử dụng trong một số sản phẩm, chẳng hạn như trong kẹo chewing gum.

2)- Nhóm không có tính dinh dưỡng (édulcorants non nutrtifs):  

Những chất này không tạo ra năng lượng, nhưng lại có vị ngọt gấp cả trăm lần đường cát. Chúng thường được đựng trong các bao nho nhỏ màu xanh, vàng hoặc hường để chúng ta bỏ vào café.
Kỹ nghệ thực phẩm cũng sử dụng các loại đường hóa học này để tạo vị ngọt cho các loại sản phẩm nhược năng lượng (hypocaloric) và các thực phẩm diet. Đây là những chất tổng hợp hóa học để tạo vị ngọt (édulcorant synthétique) và thường được phân chia ra làm hai nhóm:

* nhóm thế hệ thứ nhất: saccharine, sodium cyclamate, aspartame.
* nhóm thế hệ thứ nhì: sucralose (Splenda), acésulfame-potassium (Sunnet, Sweet One, Acek)), neotame, alitame.

Thông dụng nhất, là chất aspartame mà chúng ta thấy trong các thức ăn thức uống diet.

Tuy nhiên cũng có dư luận cho rằng ăn thường xuyên các loại đường hóa học sẽ không tốt cho sức khoẻ.

Phe chống đối đường hóa học quả quyết rằng chất aspartame gây nhức đầu (migraine) cũng như có thể gây cancer não.

Được biết một phần aspartame sẽ chuyển thành methanol trong bao tử và chất nầy sau đó sẽ phân hóa thành formaldehyde và acide formique là chất độc cho hệ thần kinh.

Họ còn nói là trong cơ thể aspartame còn bị phân cắt ra thành acide aspartique và phénylalanine.

Đối với những người bị bệnh phenylketonuria (PKU), là một bệnh rất hiếm thấy do sự lệch lạc của một gene, khiến cơ thể không tạo ra được enzyme để khử chất phenylalanine, do đó chất nầy tăng nhiều trong máu và gây tổn hại đến hệ thần kinh trung ương.

Thí nghiệm cho thấy, chất saccharine  (Twin, Sweet N Low) ở liều lượng thật lớn nó có thể gây cancer bọng đái ở loài chuột.

Ngày nay tại Canada, saccharinesodium cyclamate (Sucaryl, Twin sugar) bị rút ra khỏi danh sách các chất phụ gia và bị cấm sử dụng trong kỹ nghệ, nhưng vẫn còn được cho phép sử dụng với liều lượng nhỏ để chúng ta tự bỏ vào café.

Phe cổ võ chất aspartame lẽ đương nhiên là giới kỹ nghệ thực phẩm, chánh phủ, FDA, Health Canada, các trung tâm nghiên cứu trong các đại học, National Cancer Institute Hoa Kỳ, Tổ chức Autorité Européenne de Sécurité des Aliments EFSA, Tổ chức y tế thế giới OMS, tổ chức Lương nông FAO thuộc Liên Hiệp Quốc...tất cả đều khẳng định là trong điều kiện sử dụng bình thường, chất aspartame rất an toàn cho sức khỏe cũng như chẳng có mối liên hệ nào với bệnh cancer cả.

Trên thế giới, aspartame (Nutrasweet, Equal, Egal, Canderel...) được sử dụng rộng rãi trong khoảng 6000 loại mặt hàng và sucralose có mặt trong lối 4000 sản phẩm.

Ý niệm về sự an toàn hoặc không an toàn của đường hóa học rất thay đổi tùy theo từng quốc gia... Alitame được sử dụng tại Mexico, Úc châu và Trung quốc, nhưng Canada và Mỹ thì cấm... Riêng neotame, một chất tạo vị ngọt anh em với aspartame thì được FDA Hoa kỳ chấp thuận từ 2002, nhưng Canada thì chưa cho phép.

Nói chung, các nhà dinh dưỡng đều đồng ý là các loại đường hóa học có thể giúp ích một phần nào cho con người, nhưng không thể xem chúng là một giải pháp thỏa đáng để giúp ta có một hàm răng tốt, để giảm cân, hoặc để kềm hãm bệnh tiểu đường.

Năm 2007 vừa qua, Bs Ramachandran Vasan, Hoa Kỳ, trong khảo cứu thực hiện trên một nhóm 9000 ngàn người trung niên đã cho biết, là có sự liên quan mật thiết giống như nhau, giữa sự tiêu thụ mỗi ngày trên một lon 355ml sođa loại thường regular tức là có chứa đường và loại diet (không có đường sugar free), cùng với sự xuất hiện của hội chứng biến dưỡng (metabolic syndrome) như tăng mỡ vùng bụng, cao máu, tăng hàm lượng chất béo xấu triglyceride, giảm hàm lượng chất cholesterol tốt HDL và tăng đường huyết.

Tất cả các nhà khoa học kể cả Bs David Jenkins (St Micheael’s Hospital Toronto), đều bối rối trước khám phá quá mới mẻ nầy «Before we were saying take the diet drink and you’re ok. Now we’re saying: watch it»...

Bs R.Vasan người thực hiện cuộc khảo cứu đăng trong tạp chí Circulation: Journal of the American Heart Association, cũng thắc mắc trước kết quả. Ông ta đưa ra giả thuyết rất có thể những người uống một hai lon soda một ngày cũng là những người có khuynh hướng tiêu thụ nhiều calories, nhiều chất béo bão hòa và nhiều trans fat (là những chất béo xấu). Đồng thời, họ cũng là những người ù lì ít chịu vận động

Một khảo cứu khác do Ts Susie Swithers (Purdue Univ. Indiana), đăng trong tạp chí Behavioral Neuroscience cho biết thức ăn thức uống nhược năng nghĩa là chỉ có chứa đường hóa học saccharine hoặc aspartame đều có khuynh hướng làm xáo trộn chức năng nhận biết calories của não.

Bình thường khi ăn ngọt thật sự, cơ thể sẽ nhận biết ngay số calories ăn vào để sau đó kích động biến dưỡng để đốt số năng lượng thặng dư và tăng thân nhiệt lên.

Trường hợp sử dụng đường hóa học saccharine để tạo cảm giác ngọt giả tạo, nhưng chẳng có calorie nào kèm theo, thì cơ thể tăng nhiệt độ rất ít và vì thế sẽ bị mập ra. Thí nghiệm đã được thực hiện trên loài chuột. Đây là một giả thuyết rất mới mẻ và trái ngược với ý niệm cũ là việc sử dụng các chất tạo vị ngọt hóa học như aspartame, saccharine để giúp giảm cân. 

Chuyện nước soda (nước ngọt có gas)
Thời đại nào, xã hội nào cũng thế, vị ngọt vẫn dễ hấp dẫn mọi người.
Các loại nước giải khát như Coke, Pepsi, Seven Up, Soda v,v...đều có chứa rất nhiều đường, mà đặc biệt là đường sirop bắp gọi lả high fructose corn sirup HFCS
Rất nhiều khảo cứu cho biết việc sử dụng quá thường xuyên các loại nước ngọt là nguyên nhân dẫn đến tình trạng béo phì, bệnh tim mạch và bệnh tiểu đường loại 2 tại Hoa Kỳ.

Tại Canada, từ 1977 đến 1997 số lượng nước ngọt có gas tiêu thụ đã tăng vọt lên 100% ở trẻ em theo tỉ lệ cứ bốn em thì có ba em uống các loại nước có gas mỗi ngày.
Trong một số lớn các em, các loại nước giải khát có gas đã chiếm lối 10% calories trong tổng số nhu cầu năng lượng cần thiết trong ngày.

Đây quả là một tỉ lệ quá lớn đối với một loại thức uống chả có ích gì cho sức khỏe hết nhưng ngược lại chúng còn chiếm chỗ các thức uống cần thiết như sữa và các loại nước ép trái cây.
Công ty Coca Cola và Pepsi Cola không ngừng tìm mọi cách để xâm chiếm thị trường, và khai thác thị hiếu hảo ngọt của dân chúng, đặc biệt là giới trẻ em, sinh viên học sinh.

Nước ngọt nhược năng (diet, zero calorie) có tốt không?

Thay thế nước ngọt có gas và nhiều đường bằng loại nước ngọt nhược năng hay nước kiêng (diet): Diet Coke , Coke zero, Diet Pepsi, v,v... là những thức uống chứa toàn chất ngọt hóa học như Aspartame,Acesulfame potassium không phải là một giải pháp tốt đẹp cho sức khỏe như mọi người thường lầm tưởng đâu.

Coke zero calorie cũng không khá gì hơn

Trên lý thuyết, nước giải khát diet, ít nhiệt năng sẽ giúp bớt đi tác hại của sự tăng cân, của bệnh tiểu đường loại 2 và của bệnh cao máu.

Thực tế cho thấy có thể là ngược lại.

Tạp chí Circulation số tháng 7/2007 của American Heart Association có đăng bài khảo cứu giá trị liên quan đến ảnh hưởng của hai loại nước ngọt, loại có đưòng và loại diet, trên  sự xuất hiện của triệu chứng biến dưỡng (metabolic syndrome).

Theo định nghĩa, triệu chứng biến dưỡng được xác định bởi các dấu hiệu sau đây:

- Dư cân (nguy cơ béo phì).

- Có hàm lượng insuline cao (nguy cơ bênh tiểu đường).

-Có hàm lượng chất béo glyceride cao (nguy cơ bệnh tim mạch).

-Có áp huyết cao (nguy cơ bị tai biến mạch máu não)

Ngoài ra, hội chứng biến dưỡng còn làm tăng thêm nguy cơ bị đứng tim (heart attack),  tiểu đường, hoặc có thể dẫn đến một vài loại ung thư.

Qua kết quả nghiên cứu, các nhà khoa học nhấn mạnh thêm một điểm ở đây là dù cho có uống nước ngọt loại nhược năng (diet) đi nữa thì sự nguy hiểm cho sức khỏe cũng y như mình uống nước ngọt có đường (regular).

Tóm lại, sự tiêu thụ  quá thường xuyên các loại nước có gas loại diet hay nước ngọt có đường regular cho thấy đó là một thói quen phản ảnh một lối sống không được lành mạnh cho lắm và rất có thể dẫn tới nhiều vấn đề sức khỏe trong tương lai.
Phòng bệnh không chỉ là việc thay thế nước ngọt có đường bằng loại nước diet mà thôi, nhưng  còn cần phải sửa đổi lối sống của chúng ta chẳng hạn như chỉ dùng những thức ăn thức uống trong lành, tinh khiết, bỏ rượu, bỏ thuốc cũng như cần phải chuyên cần vận động và tập thể dục.


Khuyến cáo của Tổ Chức Y Tế Thế Giới
Tổ chức Y tế Thế Giới (WHO) và Cơ Quan Lương Nông Quốc Tế (FAO) vừa phối hợp nghiên cứu và đồng khuyến cáo mọi người nên cắt giảm số calories do đường mang vào xuống dưới mức 10%. 
Nói một cách dễ hiểu, nếu tổng số nhu cầu của một người là 2000 calories/ngày, thì calories do đường tinh chế tạo nên phải thấp hơn 200.
Được biết, 1g đường cho 4 calories, 1 muỗng café đường có khoảng 16 calories và 1 lon  Coke regular chứa lối 9 muỗng đường tương đương với 145 calories. 

Mục đích của Cơ Quan Liên Hiệp Quốc là nhằm giúp ngăn chặn phần nào các loại bệnh mạn tính cũng như các bệnh về tim mạch, bệnh béo phì, bệnh tiểu đường và một vài loại cancer. 
Để duy trì một sức khỏe tốt, chúng ta cần theo đuổi  một chế độ dinh dưỡng ít dầu mỡ, ít đường, ít muối, không được dùng quá 2400 mg sodium hay 5g muối tương đương với 1 muỗng café muối ăn trong 1 ngày. 
Đồng thời cần phải ăn nhiều rau cải, trái cây tươi  và nên vận động, tập thể dục thường xuyên.

Chắc chắn là khuyến cáo nầy không làm hài lòng kỹ nghệ bánh kẹo và kỹ nghệ nước ngọt rồi. Một tài liệu khảo cứu mới vừa được phổ biến trong tạp chí JAMA, August 2004  cũng đưa kết luận là các loại nước ngọt classic hay regular như Coke, Pepsi, Soda….vì chứa quá nhiều đường nên là một trong nhiều nguyên nhân quan trọng làm gia tăng sự xuất hiện của bệnh tiểu đường type II ở Hoa Kỳ. 

Kết luận
Các nhà dinh dưỡng thường xếp các loại thức ăn thức uống bán trong máy (bánh, kẹo, chip, chocolat, Coca Pepsi, v.v...) vào nhóm tạp phẩm (junk food), không bổ dưỡng gì hết vì chứa nhiều calorie rỗng (empty calorie), nhiều đường, nhiều caffeine, nhiều gaz và chất hóa học...nhưng lại không có hoặc có rất ít vitamins.

Trong xã hội ngày nay, nước ngọt có gas nói chung, loại có đường cũng như loại diet, có mặt khắp mọi nơi.

Sử dụng nước ngọt có gas là một việc quá dễ dàng, quá đơn giản đối với mọi người.


Vấn đề là việc lạm dụng, uống quá nhiều và quá thường xuyên các loại nước ngọt mới thật sự có hại.
Tóm lại, sự tiêu thụ  quá thường xuyên các loại nước có gas loại diet hay nước ngọt có đường regular cho thấy đó là một thói quen phản ảnh một lối sống không được lành mạnh cho lắm và rất có thể dẫn tới nhiều vấn đề sức khỏe trong tương lai.


Phòng bệnh không chỉ là việc thay thế nước ngọt có đường bằng loại nước diet mà thôi, nhưng  còn cần phải sửa đổi lối sống của chúng ta chẳng hạn như chỉ dùng những thức ăn thức uống trong lành, tinh khiết, bỏ rượu, bỏ thuốc cũng như cần phải chuyên cần vận động và tập thể dục./.


Tài liệu tham khảo:
    *AHA Scientific Position on Carbohydrates & Sugars. Feb 10,2008

   *Matthias B. Schulze et al, Sugar- Sweetened Beverages, Weight Gain, and Incidence
        Of Type 2 Diabetes in Young and Middle-Aged Women; JAMA, August 25,
        2004, No 8

   *Passport santé.net. Sucré sans sucre et sans danger?

   *CBC News. Diet soft drinks linked to health risks: study. july 24, 2007

     * Nguyễn Thượng Chánh-Nuoc-lanh-tuyet-voi

    *Susie Swithers,Terry Davidson. Study: Artificial sweetener may disrupt body’s ability to count calories. Behavorial NeuroScience, Purdue Univ. Indiana. July 2004

     *Dr S.Hughes. Intensive-Glycemic- Control-Arm ACCORD Stopped.Medscape Feb12, 2008

* Ravi Dingra MD et al. Soft drink consumption and risk of developing cardiometabolic risk factors and the metabolic syndrome in midle-age adults in the community. Circulation 2007; 116:480-488



 Montreal, 2020
Nguyễn Thượng Chánh

No comments:

Post a Comment