Hình internet
Hôm đó, cách đây khoảng tám năm, tôi đang đứng giữa chợ, phân vân chưa
biết mua thứ gì để nấu thêm một món chay cho bữa ăn tối, cuối cùng tôi
quyết định sẽ làm đậu rán chấm tương Cự Đà.
Vừa đưa tay ra chọn miếng đậu hủ còn nóng hổi thì có người vỗ vai:
Hằng đấy à, lâu quá mới gặp.
Thì
ra là Ngà, chị bạn đã quen hơn bốn chục năm, từ thuở làm chung sở ở
Saigon. Chúng tôi rủ nhau qua tiệm bên cạnh vừa ăn chè vừa “báo cáo” cho
nhau những gì xảy ra trong suốt năm qua.
Tôi vừa mới về hưu được
hai tuần, còn Ngà cũng đã nghỉ làm khoảng mười tháng và đang học nhạc
với một ông thầy người Việt. Nghe thế tôi mừng quá, vội hỏi chi tiết để
cùng đi học cho vui.
Ngà và tôi mất liên lạc từ tháng 4 năm 1975,
phải đến bốn năm sau, nhờ cái duyên đưa đẩy chúng tôi may mắn gặp lại
nhau ở Quảng Đức, thế là Ngà lập tức đòi ông chồng dọn về San Jose, nơi
đông người Việt vì ở Vallejo vắng vẻ đìu hiu quá, khó mà tìm ra được một
người Á Châu chứ đừng nói Việt Nam. Thung lũng hoa vàng khí hậu ôn hòa
đã cho chúng tôi nhiều cơ hội thực hiện những điều muốn làm khi về hưu.
Ngay
hôm sau, tôi gọi điện thoại ghi tên vào lớp học nhạc. Đã mấy chục năm
quên bẵng chuyện sách vở nhà trường, bây giờ, ngày đầu tiên đi học vào
một sáng đầu thu, cầm mấy quyển sách nhạc trong tay, tôi bỗng có cảm
giác lâng lâng như ông Thanh Tịnh: “Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy
sương thu và gió lạnh…hôm nay tôi đi học.”
Đến nơi, Thầy đón tôi ở
cửa ngang hông đi vào một căn phòng nối sau nhà chứa xe ngó ra vườn.
Tôi nhìn quanh, trong lớp chỉ vỏn vẹn có mấy cái đàn keyboard cho học
trò tập. Tôi nhủ thầm, thì mình cũng chỉ cần thế thôi, chứ lính mới tò
te mà nhìn thấy mấy thứ nặng ký lại lạnh cẳng bỏ cuộc thì phí công toi.
Thầy
tuổi trung niên, cỡ trên dưới năm mươi, chỉ bảo chậm rãi, kỹ càng tùy
theo mức hiểu biết về âm nhạc và khả năng tiếp nhận của học trò nên tôi
cũng không đến nỗi khớp lắm.
Thuở nhỏ tôi rất thích đàn hát,
nhưng sinh ra trong một gia đình công chức bậc trung lại đông con, nên
tài chánh không cho phép và ngoài giờ đi học tôi còn phải phụ với Mẹ đi
chợ, nấu ăn và chăm sóc năm đứa em nhỏ vì chị tôi đã đi lấy chồng nên
ước muốn của tôi đành gửi gió cho mây ngàn bay.
Khi sang Mỹ, có
đủ điều kiện tài chánh thì lại bận bịu đi làm đầu tắt mặt tối và lo cho
gia đình riêng. Sáng sớm thức dậy cho ba đứa con ăn sáng, chở chúng đến
trường, rồi phóng xe trên xa lộ đến sở làm, hai giờ chiều chạy đến
trường đón chúng bỏ vào nhà rồi trở lại sở làm việc tiếp đến sáu giờ mới
về lo cơm tối. Khi con lớn tí nữa, chúng tự đón xe buýt của trường đi
học là lúc công việc làm của tôi đòi hỏi nhiều cố gắng và công sức hơn
nên vẫn không có thì giờ.
Tôi đi làm miệt mài, hăng say hơn ba
chục năm, các bạn tôi không ai tin rằng có một ngày tôi đành đoạn dứt áo
nghỉ việc về hưu để “ăn không ngồi rồi”, nhưng riêng tôi, tôi biết chắc
rằng dù hằng ngày không còn sáng vác ô đi tối vác về, tôi cũng sẽ chẳng
bao giờ ngồi không. Tôi sẽ chấp nhận sự vô thường như một lẽ đương
nhiên của cuộc đời và sẽ sống lạc quan, bận rộn. Một điều chắc chắn là
tôi sẽ không bao giờ phí phạm những ngày tháng “bonus”, phần thưởng trời
cho và nhất là vì còn có rất nhiều việc ngày xưa tôi ao ước muốn làm mà
không được.
Bây giờ các con đã có gia đình ra ở riêng, chỉ còn
hai vợ chồng già, nhân lúc về hưu có thì giờ rảnh, đi học đàn là điều
tuyệt vời.
Nhưng được cái này thì mất cái kia. Lúc có cơ hội và
điều kiện thì đầu óc bắt đầu chậm chạp, khó nhớ lại mau quên nên tôi
chọn học đàn keyboard, dễ hơn piano.
Mỗi tuần đến lớp tập một
tiếng còn dành thì giờ thực hành ở nhà. Mới đầu phải học thuộc những cái
nút trên mặt bàn phím để biết cách xử dụng cây đàn. Giời ạ! chỉ có bẩy
nốt nhạc thôi, mà sao bàn tay năm ngón không kiêu sa của tôi cứ cuống
quít cả lên. Ngày xưa là “đô rê mi pha son la si”, bây giờ thành “a, b,
c, d, e, f, g”, điệu slow rock, boston, tango… rồi nhịp nhanh nhịp chậm,
tông thấp tông cao, mấy ngón tay gầy guộc cứng đầu cứ chạy loạn xạ lên
thôi. Khi xử dụng những ngón tay phải thì những ngón bên trái chạy lạc
sang đến xứ…Congo.
Vài tháng sau chúng mới bắt đầu mềm mại nghe
lời một tí. Mặc dù chưa nhuần nhuyễn lắm, nhưng tay phải bấm nốt, tay
trái bấm hợp âm chỉ chậm…như rùa thôi chứ không còn ngoan cố chạy lung
tung vô kỷ luật nữa.
Một thời gian, khi thấy học trò đã có nền
nếp, thầy soạn hòa âm cho chúng tôi tập hát. Dưới sự hướng dẫn của thầy,
học trò cứ hát tự nhiên chứ không theo một lớp thanh nhạc nào, miễn là
đúng nốt, đúng nhịp và đúng tông. Thầy bảo hát hay không bằng hay hát và
hát mãi thì sẽ có ngày…nghe lọt lỗ tai mà.
Rồi thầy thâu đĩa
ngay trong phòng học đàn, mặc dù âm thanh rất loãng nhưng vì thầy mới
đến Mỹ định cư nên khả năng lúc đầu chỉ có thế. Ít lâu sau, thầy nhờ một
học trò mua ván che một ô vuông nho nhỏ trong góc phòng, vừa đủ chỗ cho
một người đứng với cái máy vi âm (microphone) và giá nhạc làm thành
phòng thâu âm “cây nhà lá vườn”. Nhờ cái “ô vuông bít bùng” này mà tiếng
hát nghe ấm áp hơn. Những người nào hát “nghe được”, thầy cho phát ra
trên làn sóng radio địa phương ngày cuối tuần. Mấy “lão ni” chúng tôi
hào hứng vô cùng dù chỉ là…ca sĩ miệt vườn.
Mỗi ba tháng, thầy tổ
chức “Hát Cho Nhau Nghe” trong đám học trò của thầy, thời gian này cũng
giữ cho Ngà và tôi rất bận rộn tập tành, bàn thảo với nhau, rồi cùng
nhau tìm tòi những bản nhạc mình thích để tập hát. Những hoạt động này
đã giúp chúng tôi lúc nào cũng cảm thấy tươi vui trẻ khỏe.
Vậy mà
tuổi già có tha cho ai bao giờ. Thời gian đã tàn nhẫn làm giọng ca “mới
nở” chưa nổi danh bây giờ đã trở thành…ống bơ rỉ, tôi ngồi nghe lại mấy
đĩa thâu ngày đó mà lòng thấy…ngậm ngùi!
Khoảng hai năm thì Ngà
và tôi cùng thôi học, không phải là đã giỏi hay đủ chữ nghĩa rồi nhưng
mục đích của chúng tôi là chỉ học những điều căn bản để tự đàn và hát
cho đúng nhạc, đúng nốt những bài mình thích mà thôi.
Cũng như
bao nhiêu…cụ nàng lớn tuổi khác, Ngà và tôi xin làm hội viên một Trung
Tâm Cao Niên gần nhà để theo tập mấy lớp Tài Chi và Line Dance. Ngoài
một người trong nhóm viết văn tên Mai, chúng tôi còn có vài người bạn
Việt Nam, thân nhất là Hồng và Quỳnh. Nhờ chúng tôi đều có cùng sở thích
nên rất tâm đầu ý hiệp, đi đâu cũng có nhau.
Tôi thường ỉ ôi với
các bạn là sao năm đứa mình không gặp nhau nửa…thế kỷ trước đây để được
gọi là “ngũ long công chúa”, nghe trẻ trung và văn chương chữ nghĩa, để
bây giờ bị gọi là “năm lão bà bà”, nghe sao…già ngắt đến tủi thân!
Là
trung tâm cao niên nên phần lớn người tham dự tuổi đều “quá đát” rồi,
do vậy thường không uốn người đúng theo một số điệu Yuan Chi, bà giáo
cũng thông cảm bỏ qua. Có những ngày tứ chi bải hoải, chúng tôi cũng nhớ
nhau và ráng đến lớp, múa may một tí là cảm thấy lên tinh thần ngay.
Trong lúc tập, nhiều khi cái bộ óc mòn mỏi và tay chân khô cứng đã khiến
chúng tôi khó thuộc bài nên đôi lúc làm sai, nhưng cứ an ủi nhau, bọn
mình chỉ cần múa chân múa tay cho máu lưu thông thôi, chứ có làm để đi
thi đâu mà sợ, thế mà cũng có lần chúng tôi phải đi “biểu diễn”, mắt cứ
dán chăm chăm vào bà giáo để làm theo cho đúng. Mô Phật, rồi cũng xong.
Không
những dạy học tự nguyện không lương mà các bà giáo còn thường đem theo
bánh kẹo thức ăn “dỗ ngọt” và “an ủi” đám học trò vụng về cũng…già không
thua gì bà giáo. Để tỏ lòng tôn sư trọng đạo, tôi thường đem biếu bà
một ít trái cây hái ngoài vườn như chanh, lê, táo tàu, lô quật, mùa nào
thức nấy.
Thỉnh thoảng trung tâm lại tổ chức đi thăm thắng cảnh,
chúng tôi cũng hăng hái ghi tên, khi thì đi San Francisco, lúc vãng cảnh
chùa Nhật hay khu Big Basin...Chúng tôi ríu rít tung tăng như bầy sẻ
nhỏ trong vườn hoa đầy màu sắc, ngồi trên bãi cỏ xanh mướt hay leo lên
cầu tạo dáng chụp hình như thuở còn đi học.
Một ngày nọ, chúng
tôi bỗng thấy gió thôi bay phất phơ những sợi tóc muối nhiều hơn tiêu,
đã một thời là mái tóc thề dầy mịn, bóng bẩy thả gió lê thê, từng làm
các anh học trò đi theo sau ngẩn ngơ. Sự mượt mà dày dặn đã lặng lẽ ra
đi, bây giờ chỉ còn là những sợi “bạch kim” mong manh yếu ớt, như lời
Trịnh Công Sơn:
“Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi”
Chúng
tôi hè nhau đi mua tóc giả, đứa này đội lên thử, đứa kia ngắm nghía rồi
trầm trồ hoặc lắc đầu xua tay, cứ như lũ con nít đang đi mua bánh kẹo
hay đồ chơi. Nhờ những giây phút trẻ con như vậy mà chúng tôi quên tuổi
già và thấy đời thật đáng yêu.
Chúng tôi cũng hay đến chùa làm
công quả, thường thì phụ việc trong bếp như chiên đậu hũ, cuốn chả giò,
làm bánh cam. Chị toán trưởng chỉ cho chúng tôi cách lăn mè sao cho che
kín đều bột bánh, gói chả giò như thế nào để vỏ bánh không bị rách và
cái nào cũng bằng y nhau. Chúng tôi đã học được rất nhiều từ những kinh
nghiệm lâu năm của các chị. Khi cần, chúng tôi phụ rửa chén bát. Những
việc nhẹ nhàng không đòi hỏi nhiều sức lực này khiến chúng tôi rất mừng
là mình còn hữu dụng.
Có vài cụ lưng đã còng, đứng lên ngồi xuống
khó khăn mà vẫn không chịu ở nhà nghỉ ngơi, cụ bảo: “Cuối tuần con trai
mới rảnh rỗi chở đến chùa, chiều nó lại tới đón về. Ở nhà một mình buồn
nẫu ruột, con lúc nào cũng bận rộn, các cháu nội ngoại đều có việc của
chúng nó. Nếu tự đi được thì tôi đã lại chùa hàng ngày. Đến đây vừa đọc
kinh lễ Phật, vừa được làm công quả giúp cho chùa, được tích phước lại
gặp nhiều các anh các chị nên tôi vui lắm quên cả ốm đau, chứ ở nhà là
nó nhức chỗ nọ, mỏi chỗ kia.”
Hình ảnh một cụ già rất đời thường
này, với nụ cười móm mém, bàn tay đầy tàn nhang và gân xanh cùng một tấm
lòng yêu tha nhân làm tôi xao xuyến và thán phục nên tôi theo gương cụ,
tiếp tục đi làm thiện nguyện đều đều.
Những lần đi làm công quả
gặp các cụ, tôi lại chạnh nghĩ đến mẹ mình. Tôi còn nhớ có một lần về
Saigon thăm Mẹ tôi đang nằm nhà thương, gặp được con gái, bà vui quá nên
khỏi bệnh. Mừng Mẹ qua được cơn nguy hiểm, tôi mời Mẹ đi Hà Nội chơi,
nhân thể cho tôi được một lần lạy bàn thờ tổ tiên ngày Tết và gặp bà con
nội ngoại.
Đến thăm các chú, bác trong họ, Mẹ tôi mặc áo dài
nhung màu hạt dẻ, tóc vấn khăn nhung màu nâu đậm, trên cổ là một sợi dây
chuyền vàng có tượng Phật Bà Quan m, tay đeo một vòng cẩm thạch lên
nước ngọc xanh biếc. Ngày ấy bà đã lớn tuổi mà còn ăn mặc điệu đà đúng
cung cách của một người phụ nữ Hà Nội xưa…
Hằng năm, cứ ngày mồng
hai Tết là chúng tôi “năm nữ thí chủ” cùng đi chùa, cả chùa gần lẫn
chùa xa, có khi đi đến bẩy tám cái vì San Jose nổi tiếng là có nhiều
chùa. Tuy tuổi đã phải đếm nhiều vòng trên các đầu ngón tay, chúng tôi
cũng vẫn lả lướt trong những bộ áo dài màu sắc trang nhã nhưng không kém
phần lộng lẫy cho hợp với ba ngày Tết. Đến chùa được ăn cơm chay còn
được hưởng lộc, thầy phát cho mỗi người một phong bao mừng tuổi màu đỏ
thường có 25 hoặc 50 xu và một quả quít, có chùa sang hơn, cho cả 1 đồng
và một cành hoa lan.
Chiều về ghé nhà tôi ăn Tết, cũng những món
sặc mùi Tết như bánh chưng, dưa món, dưa hành, chả giò, thịt heo kho
trứng ăn với dưa giá, gà luộc và canh miến, cá salmon kho ăn với dưa cải
chua, canh măng chân giò. Năm nay lại có thêm hai món rặt bắc kỳ là
thịt đông và chè hoa cau ăn với xôi vò. Cả ngày ăn chay, bây giờ chúng
tôi xin phép ngả mặn.
Ăn xong thì chúc nhau và mở quà mừng tuổi.
Hồng là người lúc nào cũng nhiều sáng kiến, nhất là Hồng đã đặt cả con
tim vào việc lựa những món thích đáng cho mọi người, vì thế 5 bà già
cũng cướp quà của nhau như điên, rồi đến màn văn nghệ, tưng bừng náo
nhiệt đủ món.
Tôi thường mua vé số tặng các bạn đầu năm lấy hên.
Để chắc ăn, tôi gửi ông thần tài một danh sách đầy đủ tên họ, địa chỉ
nhà, email và số điện thoại của cả năm đứa, nhưng chả biết ông thần tài
bao nhiêu tuổi mà ngài…đãng trí quá, cứ gõ nhầm cửa nhà người khác.
Khi
các bạn ra về, tôi tặng mỗi người một ít trái cây và một hũ dưa món,
chính tay tôi làm, để ăn bánh chưng ngày Tết. Riêng Mai, cô em út trong
nhóm đã có công lái xe đường xá xa xôi từ San Francisco xuống đi du xuân
với các chị già nên tôi đã tặng thêm một tô canh măng chân giò, một lát
cá salmon kho và một hũ dưa cải chua. Người ta thường bảo, giá trị của
món quà nằm trong chính tấm lòng của người trao tặng.
Chưa hết,
năm đứa chúng tôi cũng đi nghe nhạc thính phòng và không bao giờ bỏ sót
tham dự những buổi văn nghệ “Thank You America” và “Cám Ơn Anh, Người
Thương Binh VNCH” để tỏ lòng biết ơn đất nước Hoa Kỳ và các chiến sĩ
Việt Nam Cộng Hòa của chúng ta, những người đã hy sinh xương máu cho quê
hương, đất nước. “Năm bà già trầu” cùng mạnh dạn dương cao lá cờ vàng
ba sọc đỏ và hô to khẩu hiệu mà nước mắt rưng rưng. Mong rằng sự hiện
diện và đóng góp nhỏ nhoi của chúng tôi xoa dịu phần nào những vết
thương trên da thịt và trong trái tim của các anh chiến sĩ mà chúng tôi
hằng yêu mến và ngưỡng mộ từ lúc còn thanh xuân.
Năm 2014, tình
cờ một người bạn thuở tiểu học và trung học tìm ra tôi trên blog của
trường học sau hơn bốn mươi năm mất liên lạc. Bạn cho biết đang đăng bài
trên chương trình Viết Về Nước Mỹ của Việt Báo nên rủ tôi viết. Tôi
bảo:
Bạn biết tôi là dân ban toán thì văn của tôi chắc chắn “khô
như ngói”, người ta đọc xong sẽ la làng trách tôi làm họ nhức đầu, đừng
có xúi dại.
Năm lần bẩy lượt nghe lời khuyến khích, tôi cũng
xuôi tai nên liều viết mấy bài, thế mà không ngờ ngay năm đó, trời xui
đất khiến, tôi lại trúng Giải Danh Dự! Tôi vui mừng sẵn đà viết tiếp,
đến năm 2017, ngôi sao may mắn lại đem đến cho tôi một giải cao hơn.
Xin
gửi lời tri ân đến những vị đã sáng lập ra chương trình Viết Về Nước Mỹ
và cám ơn bạn hiền đã giúp tôi cơ hội đóng góp vào việc bảo tồn văn hóa
Việt Nam nơi hải ngoại.
Không đi ra quán cà phê như các ông, cứ
vài tháng, năm phụ nữ chúng tôi lại tổ chức cùng ăn trưa một lần cho có
thì giờ bàn tán, nào là ăn uống thứ gì và kiêng cữ ra sao cho tấm thân
già nua ọp ẹp được nhờ. Rồi cùng nhau chia sẻ những niềm vui cũng như
muộn phiền, cùng nghiền ngẫm chuyện đời để học hỏi lẫn nhau.
Chúng
tôi cùng đồng ý không tham dự vào cuộc sống riêng tư của các con, cháu;
nếu rủi mai này ông chồng già có bỏ đi trước thì nhất định sẽ sống một
mình, gần bạn gần bè để khi tối lửa tắt đèn còn ới nhau nhờ vả.
Khi
không còn tự lo được cho thân mình thì sẽ tự động vào viện dưỡng lão
khỏi làm phiền con cháu, chúng có thương thỉnh thoảng ghé thăm là phần
phước của mình, còn nếu chúng vì bận rộn cơm áo gạo tiền không nhìn nhõ
đến thì cũng chẳng tủi thân vì nước mắt chẩy xuôi mà.
Nhờ may mắn
có các con ở gần, nên niềm vui của tôi là cuối tuần nào cũng bận rộn
nấu nướng chờ các con cháu về quây quần ăn bữa cơm tối đông đủ gia đình
và khi nào cũng nấu thêm vài món cho các con đem về. Tôi hy vọng sự gặp
gỡ thường xuyên sẽ khiến cho các cháu nhỏ biết được lề lối sống và tình
gia đình gắn bó của người Việt Nam, như vậy chúng sẽ thân thiết với ông
bà và hai bên nội ngoại hơn.
Dù đã lớn tuổi chúng tôi cũng tìm
được cho mình những niềm vui hợp với tuổi tác và hoàn cảnh chứ không
muốn ngồi nhìn những mùa thu đi mà buồn bã nghe ngóng những lóng xương
tê nhức, bực bội vì cái đầu óc chậm chạp hay quên, rồi than vãn làm khổ
chồng, con và người chung quanh.
Cũng không để những chuyện lủng
củng khác biệt thế hệ và văn hóa với con cháu làm mình u uẩn ưu phiền.
Chúng tôi cũng không muốn ngồi nhớ đến ngày xưa má đỏ môi hồng mà tiếc
cho thời xuân sắc đã qua, và càng không muốn lúc nào cũng phải nghiêm
nghị, khó đăm đăm, đóng vai mẹ chồng, mẹ vợ, bà nội, bà ngoại, cho đời
mất vui.
Bây giờ tuy năm đứa tôi đã qua cái tuổi pha sữa, thay tã
cho các cháu nội ngoại rồi, nhưng lúc nào cũng vẫn ở trong tình trạng
“standby” để sẵn sàng lái xe đến trường đưa đón cháu khi ba má nó bận
việc hoặc trông đứa cháu này cho con gái chở đứa kia đi nha sĩ hay họp
nhóm phụ huynh…
Chúng tôi sống nương tựa vào nhau trong tình bạn
thân thiết và thường bảo nhau, sáng thức dậy nếu mấy ngón tay có làm reo
không chịu nhúc nhích, bả vai có kêu răng rắc hay đầu gối có đình công
thì chỉ là chuyện thường tình, cứ mạnh dạn thẳng người đứng lên hát câu
chào cờ “Này công dân ơi, đứng lên đáp lời sông núi” rồi đi làm những
việc hữu ích cho đầu óc và thân thể.
Cứ như thế, chúng tôi năm
đứa, những cánh hạc già đã quẳng gánh lo đi mà vui sống, đã đem quá khứ
và trầm luân của cuộc đời bỏ lại đằng sau lưng và hạnh phúc với niềm vui
chứa chan trong hiện tại vì bạn ơi, tương lai chỉ còn đếm từng ngày,
nên mỗi sáng còn thức dậy bình yên vươn vai hít thở khí trời là thêm một
ngày cám ơn Trời Phật, Thượng Đế, còn cho tồn tại, vậy thì cứ cười
nhiều để thâu nạp thêm những liều thuốc bổ thiên nhiên, các bạn tôi ơi!
Xuân 2019
Lê Nguyễn Hằng
vvnm.vietbao.com
No comments:
Post a Comment