Hình minh họa
Người đàn bà trẻ để nhẹ cái thau đồ giặt xuống kế bên miệng giếng rồi
đặt đứa con nhỏ nãy giờ chị xốc nách đứng hơi xa xa một chút. Chị vừa
kéo nước vừa ngó chừng con bé. Giặt quần áo dơ của con mà chị nhăn nhăn
mũi kiểu tiểu thơ nhà giàu phải săn sóc con so khi chưa quen cực khổ.
Đứa nhỏ lẩn quẩn bên mẹ. Con bé chừng 4 tuổi kháu khỉnh, mặt mày rất dễ
thương. Thằng Tín nằm dựa lưng vô gốc mít nghỉ trưa tránh nắng thấy hết
cảnh tượng. Nó đưa hai ngón tay búng ‘tróc tróc’ con bé để hai đứa cùng cười. Rồi nó thiu thiu ngủ gà ngủ gật khi một vài cơn gió mát thổi qua.
Trong mơ màng nó cảm giác như ai đó bỏ gàu kéo nước mà nhấp cái gàu
gần đầy xuống mặt nước quá mạnh. Nó vẫn chập chờn giữa mê và tỉnh của
cơn nắng trưa chói chang muốn làm nổ màng tang người. Rồi nó tỉnh giấc
hẳn hòi, mắt ráo hoảnh khi nghe tiếng khóc kể của người đàn bà trẻ.
Không cần suy nghĩ nhiều nó cũng biết chuyện gì đã xảy ra. Buổi trưa
nắng nóng, quanh giếng không có bao nhiêu người, chắc nịch là chẳng ai
có thể giúp gì cho chị ta: vợ chồng ông thầy giác lể thì khỏi nói, yếu
nhớt như sên, ba bà cụ quá già người Bắc di cư, mới tới Xóm Giếng không
được bao lâu.
Thằng Tín ngó qua năm người kia rồi chú ý tới người đàn bà trẻ. Mới
nhìn thấy nước mắt nước mũi của chị ta thì nó đã tính leo xuống giếng
rồi, nhưng khi bắt gặp ánh mắt khinh khi của ông thầy giác lể, nó thấy
lại như in cặp mắt đó với hai bạt tai nẩy lửa trên má nó mấy tháng trước
thì lòng lại lạnh tanh và chần chờ rồi lại muốn bỏ đi. Hình ảnh sư phụ
nó bị lính kín còng tay dẫn độ về đồn. Tiếng xầm xì về sự cáo gian để
đoạt chùa. Cặp mắt hớn hở và cái cười thỏa mãn trước đây của bà thầy như
mình bắt được kẻ trộm danh tiếng làm cho thằng Tín muốn quay lưng bỏ đi
hơn nữa.
Nó ngừng suy nghĩ thiệt hơn khi nhớ tới nụ cười vô tư của con bé chừng nửa tiếng đồng hồ trước khi nó đưa tay làm tiếng ‘tróc tróc’…
*****
‘Anh em nói mình từng là người Sàigòn, sống ở đó mấy chục năm chớ có biết đường Huỳnh Quang Tiên không vậy?’
Ông Ba ngừng nói, đảo mắt qua mấy người bạn cùng bàn. Ai nấy đều tránh cặp mắt của ông như thầm thú nhận rằng mình không biết.
Ngoài kia nắng đã liếm tới chưn cột bàn ông Thiên. Người đàn bà đương
cong lưng quét sân, bụi bay lên coi bộ nhiều, thỉnh thoảng ngó về phía
tiệc nhậu dã chiến của bốn người đàn ông, lắc lắc đầu nhè nhẹ. Ông Ba
nhăn mặt không vừa ý nhưng rồi cũng kể tiếp.
‘Hồi nẵm đó nhe, tôi lăn lóc từng ngày gần hai chục năm ở đó, qua bao
khốn khổ nầy nọ nên thỉnh thoảng cảnh xóm giếng đường Huỳnh Quang Tiên
hiện ra trong chiêm bao với đầy đủ tình huống buồn, sợ, chán chường, với
chuyện tình si, tình lụy đớn đau. Nhiều khi thức dậy còn thấy nước mắt
chảy ròng, kiểu như đàn bà lưu lạc tha phương, hôm nào đó chạnh lòng nhớ
quê sụt sùi thổn thức.’
Thấy mấy bạn cùng bàn vẫn còn ngơ ngác, ông Ba nói tiếp, kiểu lập đi lập lại của dân nhậu:
‘Đường Huỳnh Quang Tiên đó hả?’
‘Nói vầy cho dễ hiểu nè! Bắt đầu từ góc đường Nguyễn Cư Trinh với
Trần Hưng Đạo nhe! Từ đó băng qua đường Trần Hưng Đạo thẳng xuống tới bờ
sông Bến Chương Dương là đường Huỳnh Quang Tiên. Tôi nói là nói tên
đường Việt Nam có sau thời Pháp chớ nói tên đường trước đó như là
Blancsubé de CauKho, Galiéni hay Quai de Belgique thì anh em còn bù trất
hơn nữa!’
Cả bàn lại yên lặng. Một người nhẹ nhàng đưa tay quơ quơ đuổi vài ba
con ruồi hổn hào đậu lên miếng cánh gà xương xẩu nảy giờ chưa ai chịu bỏ
vô chén mình.
‘Bây giờ thì tên mới là con mẹ gì đó hổng nhớ nỗi… Ối! Hơi sức đâu mà
nhớ mấy cái tên lạ huắc lạ huơ đó! Anh hùng với ai chứ đâu có anh hùng
gì với bọn mình, phải không các bạn?’
‘Đường Huỳnh Quang Tiên đó nhe, dọc theo đường nầy bên tay mặt hồi
trước là khu nhà sàn cất trên đầm lầy rạch cùn rạch cạn, nước ra nước vô
hằng ngày. Đi ngoài đường thì hổng thấy nhà sàn gì hết nhưng chỉ cần rẽ
vô một đường hẻm là thấy liền bởi vì mặt tiền đường nhà cửa tương đối
khang trang, họ cất tiếp nối che kín bên trong. Tốt khoe xấu che mà!’
Ông Ba ngừng nói, đưa tay bóc một miếng cóc bỏ vô miệng. Miếng mồi coi bộ cứng nên ông nhả ra bỏ lại vô chén mình.
Ông Ba ngừng nói, đưa tay bóc một miếng cóc bỏ vô miệng. Miếng mồi coi bộ cứng nên ông nhả ra bỏ lại vô chén mình.
Mẹ! Lúc nào cũng tưởng răng cỏ còn cứng như hồi đó. Cắn nhẹ mà đau thấu tới óc. Ông than thầm. Thấy bạn nhậu ngó mình, ông tiếp:
‘Còn bên tay trái phía trong có một khu đất trống lai rai vài ba cái mả đá ong, giữa đám đất trống là cái giếng mội.
Người ta quen kêu như vậy nhưng mà hỏng trúng. Giếng nào lại chẳng là
giếng mội, không mội làm sao có nước? Tui nói vậy anh em thấy phải
không?
Lại vài ba phút yên lặng, yên lặng tới tiếng ruồi bay vo ve cũng nghe…
‘Giếng nầy phải kêu bằng giếng xây mới đúng, xây đàng hoàng,
lớp dưới cùng thì là đất sét, trên đó là đá ong, dầy đâu chừng hai
thước, trên cùng cũng độ hai thước là gạch đỏ, thứ gạch xây tường đó.
Xưa người ta không văn minh bằng mình bây giờ nhưng xây giếng có ý lắm,
chừng cách ba bốn tấc thì họ chừa một lỗ nhỏ để thợ vét giếng hay khi ai
đó có chuyện gì cần xuống giếng thì leo dễ dàng. Tứ bề đều như vậy!’
‘Tui nói vầy anh em hình dung được không nè!’
‘Hai chưn giang ra hai bên, hai tay cho vô hai lỗ đối diện, lần lần
thay đổi vị trí tay chơn là leo tới đáy giếng ngon lành. Nước giếng luôn
luôn chỉ cao tới ngực người lớn nên người bình tĩnh té giếng cũng không
có gì phải quá sợ. Lên thì cũng cách đó thôi. Anh em biết không? Thợ
vét giếng dầu kinh nghiệm nghề bao lâu cũng vậy, không được ở dưới đáy
giếng quá mười lăm phút. Ngộp thở mà chết. Muốn ở lâu họ phải đem theo
một cái đèn dầu, hay là cây đuốc dầu chai, đốt lên để thay đổi không khí
mới có đủ ốc xy mà thở.’
Bạn nhậu hai người há hốc miệng ra nghe, một người trẻ nhứt bọn chăm chăm địa mấy miếng thịt ngon trong dĩa rồi từ tốn gắp một miếng ngon nhứt bỏ vô chén mình. Bác Ba chuyển hệ liền:
‘Ừ ăn đi! Tự nhiên nhe! Miếng đó nhiều thịt mà bợm nhậu tụi nầy thì không ưa thịt, chỉ khoái xương thôi.’
Bác tiếp câu chuyện của mình tỉnh bơ.
‘Giếng nầy nước trong veo mà xài bao nhiêu cũng không cạn nên cả xóm
đâu độ chừng cả trăm nhà xúm xít nhau cùng xài. Tụi tui hồi đó kêu là
Xóm Giếng Huỳnh Quang Tiên. Lúc đó xa lắm mới có một cái phông tên,
bây giờ kêu là máy nước đó! Còn nước của nhà máy nước chuyền vô nhà hả?
Đừng có mơ! Chỉ xóm giàu nhà gạch, nhà lầu mới có, xóm nghèo thì đừng
hòng. Tưởng giếng sâu anh nối sợi dây dài. Ai dè giếng cạn anh tiếc hoài sợi dây… Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.
Giếng vàng không phải là giếng có vàng đâu à nhe! Đó là giếng có vài ba
lá ngô đồng trổ màu vàng rụng xuống trong đó. Thi sĩ nói giếng có lá
rụng vô thì đẹp. Đẹp ông nội tôi chứ đẹp. Thúi giếng thì có.’
Ông Ba hễ rượu vô thì nói chuyện nọ xọ chuyện kia sang đàng nhưng bạn
nhậu không ai tỏ ý bất mãn để phê bình. Có người còn tán thưởng bằng
cách khi thấy ông ngừng nói liền mời chun rượu nãy giờ đương chờ. Thường
thì ông tiếp cái chun mời một cách lịch sự nhưng cầm chừng vài phút là
đặt xuống kiếm chuyện gì đó làm để câu giờ!
Lúc nầy không biết ông ứng bà hành gì mà ông Ba cầm chung đế đưa lên
miệng húp cái rột, để xuống mạnh tay, k…h…à một hơi dài dáng vẻ gì đó
như tự hào mình đã làm tròn bổn phận với anh em. Ông ngả lưng vô ghế
dựa, mắt chớp chớp:
‘Nói nầy nghe nè! Ở gần xóm giếng có cái lợi là biết nhiều chuyện hay
lắm của xóm. Biết trước thiên hạ à nhe! Cô nào bắt cặp với cậu nào. Con
gái nhà ai chịu đèn với con trai nhà ai, mình khỏi cần có cặp
mắt tinh đời cũng biết qua cái nhìn vui buồn của họ hay nghe vài ba câu
đong đưa trao qua đáp lại. Không trật đâu được, mười lần như một đều
trúng.’
Một người trẻ đưa tay rót cho mình một chung rồi rót vòng cho ba
người khác. Cậu để chai rượu xuống, cầm chung của ông Ba đưa lên cao,
nói:
‘Cháu kính Bác Ba chung nầy. Ngồi uống với bậc trưởng thượng có cái
lợi là biết được nhiều chuyện đời xưa mà không có sách vở nào ghi lại.
Lần trước được nghe chuyện con Gái, em mà biết lo thay mẹ tắm cho anh.
Lại nghe chuyện bà già chuyên nghề khóc mướn tới chừng con gái mình chết
thì không còn nước mắt để khóc. Thảm biết là bao nhiêu. Bữa nay Bác kể
chuyện gì đó của Xóm Giếng Huỳnh Quang Tiên cho anh em mở trí khôn nha
Bác!’
Một người tuổi cũng xồn xồn, xách chai rượu đứng dậy:
“Để tui lo vụ nầy’. Chú vừa nói vừa đưa chai rượu còn chút cặn lót
đáy lên lắc lắc. Trước khi dợm cẳng bước đi còn nói thêm: ‘Nhưng chú Ba
chậm kể chuyện đợi tôi về nha!’
Bác Ba trở mình vói lấy gói thuốc rê trong túi áo móc trên lưng ghế của người bạn ngồi gần:
‘Xóm giếng đó thì đã để lại cho tôi mấy kỷ niệm nhớ đời, nhớ đời buồn
buồn trong dạ… nhưng đời mà, kỷ niệm buồn làm cho cuộc sống của mình
phong phú hơn, chứ trơn lu, trớt quớt thì đời đâu có gì đáng nói. Tôi
quí hai chục năm ở đó còn hơn vàng. Càng quí hơn nữa là mình đã làm
đúng, chẳng hại ai, chẳng làm lỡ đời ai. Tiếng lỡ đời bác xuống giọng
kéo dài hơi với âm thanh thê lương kiểu than thở của kép Năm Phồi ngày
nào.’
Bàn nhậu trở nên im lặng một cách kỳ lạ.
Xóm Giếng sống bình thản tháng ngày. Ngôi chùa Hoa Nghiêm Tự làm
tròn vai trò tạo nên nếp sống êm ả của vùng. Sáng chiều đều có tiếng gõ
mõ công phu. Nhà ở gần nghe lời kinh ê a của sư trụ trì miết rồi biết
giờ giấc khỏi cần coi đồng hồ. Chú tiểu Tín Giác ra vô quét tước, nấu
nước pha trà sớm chiều cho thầy cách kính cẩn và nghiêm trang của một
đứa trẻ hiểu chuyện mình cần làm.
Một sáng kia hai xe traction đen, bản xanh, bảng số VNN-XXX đậu trước
chùa. Bốn người lính áo vàng đẩy cửa hùng hổ bước vô. Người lối xóm
không dám bu tới coi chuyện gì như họ thường làm khi có chuyện lạ trong
xóm, chỉ rút trong nhà, len lén vạch màn ngó ra.
Một lúc sau mấy người lính áp giải sư cụ ra xe. Tay cụ bị còng về
phía trước. Tiểu Tín Giác vừa khóc vừa chạy theo trao vội tay nải cho sư
khi xe bắt đầu lăn bánh.
Lối xóm ào ra. Mỗi người một câu quanh mấy từ thường nghe trao đổi
nho nhỏ trên miệng người dân: Việt Minh, truyền đơn, quốc sự, lựu đạn,
dao găm, thuốc Tây, trong khu, tiền giả…
Ai nghe cũng lắc đầu le lưỡi.
Rồi tiểu Tín Giác phải về nhà với cha mẹ, cũng ở trong xóm sau khi ở
trong chùa một mình độ chừng mươi bữa nửa tháng trông đợi thầy về mà
không thấy.
Tiểu về lại nhà, cái đầu trọc chừa chóp tóc trên mỏ ác được hớt gọn
để chờ ngày mọc tóc. Chùa đóng cửa, coi như bỏ hoang từ đó. Cho tới một
hôm nhà ông bà thầy giác lể kế bên cho người mở cửa chùa dọn đồ đạc nhà
mình vô, hạ những liễn đối, những đồ vật thờ phượng xuống và kêu người
đem tất cả tượng Phật dâng tặng cho mấy chùa ở gần gần như Thủ Đức, Nhà
Bè, Giồng Ông Tố, Bình Nhâm, Bình Hòa…
Người trong xóm bàn tán cho rằng gia đình kia chiếm ngang vì ông thầy
chủ chùa không còn nữa. Thằng Tín mỗi khi đi ngang ngôi chùa xưa, nơi
nó từng sống những năm êm đềm dưới sự dạy dỗ của thầy mình luôn luôn
thấy nao nao lòng. Bốn tiếng bao hàm sự kính trọng thân thiết chú tiểu Tín Giác đã được thay bằng mấy tiếng coi thường đượm chút khi dể Thằng Tín xách nước mướn ban đầu nó không muốn nghe, nhưng thét rồi cũng quen.
Có lần thằng Tín tình cờ nghe một người nào đó trong xóm xầm xì với
ba nó là nên làm đơn đòi lại chùa cho nó với lý do nó là đệ tử ruột của
thầy. Ba nó là người bình dân, ít học, có đời sống đơn giản nên chỉ nghe
mà không ý kiến cũng không có hành động gì sau đó.
Người kia nói rõ ràng ý mình:
‘Chắc ông bà thầy giác lể toan tính trước nên tố cáo gian gì đó để
ông thầy bị bắt. Tố cáo thì đâu khó gì. Có chứng cớ hay không người bị
tố cáo cứ bị lính kín bắt đi trước đã. Vài tháng ở trong bót Catina, hay
vài ba năm ở trong Khám Lớn nếu được thả về, thân tàn ma dại, sản
nghiệp về tay người khác cũng được kêu là may mắn do phước đức ông bà để
lại…’
Người đàn bà quét sân ý chừng đã làm xong phận sự, xách chổi vô nhà,
đi ngang qua đám nhậu, để xuống bàn họ mấy trái xoài sống lấy từ dĩa
trái cây cúng bàn ông Thiên. Bác Ba ngó theo từng cử chỉ của vợ nhưng
không nói gì. Người vợ đi ra nhà sau, một lúc đem tới cho tiệc nhậu con
dao Con Chó với chén nước mắm đường trong đó lềnh bềnh ba bốn trái ớt
mọng đỏ. Ông Ba ngó lên vợ như cảm ơn rồi ngó bạn nhậu, tiếp tục câu
chuyện của mình….
‘Ờ… ờ… ờ. … Hồi đó tôi nghe bàn tán thiếu điều đầy lỗ tai nhưng mà
nghe thì nghe vậy chớ không biết đúng không nữa. Mấy chục năm nay tôi
nghĩ hoài mà không ra câu trả lời. Thôi thì mình theo cách từ bi, không
đổ oan cho người, nên bỏ qua không truy cứu.’
Ông cười ra tiếng, nói giọng mai mỉa:
‘Mà truy cứu mẹ gì được. Bằng chứng đâu?’
‘Rồi chú Tiểu gì đó sau nầy sống ra sao ông Ba biết không?’
Ông Ba trầm ngâm thiệt lâu, mới thủng thẳng kể từng tiếng chậm chậm
như xúc động chuyện đời mình. Bạn nhậu chăm chú lắng tai nghe.
******
Trong xóm giếng, thằng Tín không ghét ai hết. Vậy mà hôm rằm vừa qua
nó bắt đầu ghét ông chồng bà thầy giác lể. Số là nhà bà Tư giác lể có
tục cúng rằm trước bàn Ông Thiên. Mỗi lần cúng thì bà thầy thắp nhang xá
bốn phía xong xuôi rồi vô nhà ngồi ngó ra canh chừng dĩa trái cây. Xóm
thỉnh thoảng có đứa bưng nguyên dĩa khiến cho bà cảnh giác trong giận
hờn trách móc. Để bào chữa tánh keo kiệt của mình bà thường nói rằng đứa
lớn nhỏ nào bất kỳ, thèm thì xin, bà cho không hẹp lượng. Nếu không dám
xin thì trút hết trái cây cũng được nhưng đừng bưng nguyên cái dĩa bà
mất công mua dĩa khác.
Thằng Tín sau khi hết ở chùa thì về nhà sống với cha mẹ nghèo ở ngoài
rìa xóm giếng, nghĩa là ở sát chợ Cầu Kho. Nó không còn cái chỏm tóc
trên đầu của chú điệu nữa và nhiều lần khi tóc lún phún ra chừng hai
lóng tay là đã lo đi hớt để mong tóc mọc lên nhiều… Người trong xóm kêu
nó bằng thằng Tín xách nước mướn. Mười ba tuổi nó bự xộn, cao
nhồng, xách hai tay hai thùng nước, loại thùng dầu hôi hiệu con gà, đi
te te một hơi tới nhà ai đó mướn đổ nước tháng mà nước vẫn còn mấp mé
miệng thùng, không vơi bao nhiêu. Nghề đơn giản vậy mà sống được, còn có
tiền giúp cho cha mẹ nó là đằng khác.
Bực bội nhứt là bà thầy giác lể quả quyết là nó ăn cắp đồ cúng rằm trên bàn ông Thiên kỳ rằm đó.
‘Chuyện hay a nhe, mà Bác Ba biết là anh Tín có ăn cắp không vậy?’
Tiếng một bạn nhậu phát ngôn lớn hơn bình thường. Người vợ bác đứng
đâu đó ngước mặt lên ngó rồi nói nho nhỏ nhưng cũng đủ cho bạn nhậu của
chồng nghe. ‘Cũng ba cái chuyện đó mà kể năm nầy qua năm khác không
nhàm. Người thiệt lạ lùng! Hễ có chút rượu vô là giở chuyện cũ ra nói
hoài.’
Ông Ba nghe hết từng tiếng lèm bèm của vợ nhưng coi như không, trả lời bạn hùng hồn:
‘Đâu có! Nó gốc tu mà! Tu đâu hồi 6, 7 tuổi gì đó. Sanh khó nuôi khó,
ban cua lưỡi trắng nên cha mẹ nó đem dâng cho Phật, ăn mày cơm Phật,
nghe kinh nghe kệ nên tánh cũng thuần lương. Tu chừng 4 năm thì sư cụ bị
nạn. Nó mới rời chùa chừng độ 2, 3 năm chứ mấy, đâu nhiễm thói hư tật
xấu mau được.’
…Thằng Mẹo đi ngang nhà bà thầy giác lể. Nó chíp trong bụng dĩa trái
cây trên bàn ông Thiên nhưng chưa dám ra tay, bả ở trong nhà ngó ra lườm
lườm. Dịp may là bà thầy nghe tiếng chồng kêu liền đi vô, nó chạy mau
tới bưng cái dĩa xuống, lật vạt áo lên đổ hết vô. Lật đật nó làm rớt hai
trái xoài xuống đất. Nó lượm lên, chợt thằng Tín xách hai thùng nước đi
ngang nó lẹ tay liệng vô thùng nước rồi ba chưn bốn cẳng chạy mất.
Bà thầy giác lể ra không thấy dĩa trái cây lại thấy thằng Tín với hai
thùng nước, đứng xớ rớ đó thì cũng hơi nghi. Bà tới dòm vô thì thấy hai
trái xoài của mình. Bà la lớn…
Thằng Tín thiệt thà, không đủ miệng lưỡi chỉ ú ớ là không phải tui…
Và hai ba bạt tai xáng xuống làm nó xiểng niểng. Những lời miệt tuôn
ra phũ phàng rằng là đồ tu dối thế, may mà hết tu chớ không thì sau nầy
thành Đạo Chuối, Đạo Xôi hay là kiểu thầy chùa Lỗ Trí Thâm ăn thịt
chó... Mặt đỏ gay, thằng Tín đứng thẫn thờ buồn hiu. Nó chợt nhớ tới
thầy mình năm ngoái ông về không thấy chùa, hai thầy trò nói với nhau
rằng mình đã hết duyên tu chùa, bây giờ ra đời tu chợ cũng
là cách tu, nhưng phải nhẫn thiệt nhiều… Nó rươm rướm nước mắt, ngó
bâng quơ rồi xách hai thùng nước tiếp tục làm công chuyện của mình.
Thằng Tín được cả xóm nhìn bằng cặp mắt có chút xanh sau việc cứu con
bé té giếng. Cô gái rượu của ông thầy giác lể đã chịu cười chào với nó.
Con bé Diễm thì thân thiện hết mức. Cái thuộc từ xách nước mướn bị rớt đi lúc nào không biết. Tiếng thằng trước
tên Tín cũng được nhiều người tự động bỏ đi. Năm 18 tuổi thì thằng Tín
mua được chiếc xe mobilette xanh. Nó làm nghề bổ hàng cho mấy tiệm tạp
hóa trong vùng bằng cách xách xe vô Chợ Lớn Mới mua về theo đơn đặt hàng
của từng chủ tiệm với một chút tiền công.
Bữa kia con nhỏ Diễm đem tới cho thằng Tín cái thơ của Dì Út nó mà
mặt mày bùng thụng bùng thịu, hỏi gì cũng không nói. Thơ chỉ có mấy dòng
nói là hai người mình nên làm quen nhau qua thơ từ. Câu nó thích nhứt
là: Cháu Diễm sẽ làm chim xanh cho hai người. Thơ từ qua lại
chừng hai năm thì Thằng Tín nhận được cái thơ chót rằng bao lâu nay nàng
viết thơ qua lại cho đỡ buồn do thất tình anh H. đương học trường Y
Dược. Cô cháu Diễm bây giờ mới thấy có bộ vui vui. Rồi Dì Út đi lấy
chồng không buồn từ giã người tình thơ. Ông thầy giác lể không nói thẳng
mặt với ai nhưng bắn tiếng là con gái mình lầy chồng giàu, có tưong lai
vì thằng rể sắp ra trường làm Dược sư, mở nhà bào chế thuốc như hai ông
La Thành Nghệ, La Thành Trung ở đường Boresse vùng Cầu Ông Lãnh. Xóm
giếng Huỳnh Quang Tiên thêm một kẻ thất tình thường thẫn thờ ngày mấy
lần đi qua nhà ông bà thầy giác lể mà len lén ngó vô như cố tìm hình
bóng người xưa còn vương vấn đâu đó.
Nó lục tìm hoài trong trí mà vẫn không giải thích được thích đáng
rằng người ấy nói câu giã từ dối hay thiệt. Nó thường tưởng tưởng ra
khuôn mặt của cô Dì Út rồi tự an ủi để khỏi đau lòng. Rằng đó là lời
thiệt. Nó bị đùa dai, cái thói đùa tàn nhẫn của bọn con gái nhà giàu mới
tanh tanh chút tiền mà những năm gần đây học trò các trường lớn thường
bắt chước nhau. Đùa để vui, để tự hào có người si mình và để khoe với
chúng bạn. Nó nhủ mình tin như vậy để khỏi đau đớn vì bị tình phụ. Nhưng
mà vẫn đau đau, vẫn thẩn thờ, vẫn nghi ngờ câu trả lời của mình không
đúng.
Thằng Tín bỏ xóm giếng Huỳnh Quang Tiên qua vùng Tân Qui Đông sình
lầy, muỗi mòng sanh sống để quên mối tình được ban phát bất ngờ hai năm
qua.
Một lần nhớ xóm giếng ngày xưa nó trở về thăm. Ba năm mà vật đổi sao
dời nhiều, lắm nhà mọc lên bề thế. Có nhà làm hàng rào bao bọc luôn ngôi
mả để chiếm đất. Mấy gia đình di cư đã khá hơn nên rủ nhau cùng dọn đi
nơi khác. Ông thầy giác lể đã chết. Bà thầy bị ung thư gì đó rề rề ốm
yếu thường ngồi trong nhà ngó mong, vô hồn. Cô bé Diễm bây giờ trổ mã
coi cũng được ớn. Mẹ của bé trở thành cô phụ khi người chồng biền biệt
không để lại vết tích.
Thấy thằng Tín, con nhỏ Diễm mừng rơn, chạy ra nắm tay nắm chưn trách
móc sao bỏ đi biền biệt không nói lời chia tay để nó được đứng trông
theo tới khi anh trở thành cái bóng nhỏ mờ lần. Nghe trách, thằng Tín,
chỉ cười trừ. Con nhỏ nầy cải lương dễ sợ. Nó nói thầm.
Con Diễm coi bộ tự do. Nó liến thoắng leo lên chiếc xe mobilette cả
chục tuổi đời của tôi bắt chở ra Sàigòn. Nó nói leo lẻo khi mới ngồi an
vị và choàng tay qua hông tôi nhột nhột:
‘Anh Tín còn nhớ hồi đó em đếm trước ngực anh có mấy mụt ruồi son và sau lưng anh có mấy mụt ruồi đen không?’
‘Nhớ chứ sau không? Cứ đếm hoài nhột muốn chết. Bà ngoại em rầy bao
nhiêu lần mà cũng không sợ. Hồi đó nghèo, trưa chiều gì cũng ở trần bận
quần xà lỏn. Trời nắng nằm dựa gốc mít ngủ nên mới cứu được con nhỏ té
giếng.’
Có tiếng cười như nức nẻ, tiếp theo là tiếng thỏ thẻ nhẹ nhàng:
‘Tám tuổi mà em biết yêu anh rồi đó. Muốn ở gần anh nên lẩn quẩn ngoài giếng hoài. Trưa má kêu đi ngủ lần nào cũng chần chờ!’
‘Em còn nhớ anh dọa là con gái gần con trai hoài thì có chửa không?’
‘Nhớ!’
Cả hai làm thinh một hồi hơi lâu. Đường Sàigòn chật chội. Ga xe lửa
Sàigòn túa người băng qua đường Boudhonné bất chấp xe cộ. Mấy chiếc xe
buýt xịch tới xịch lui khiến con nhỏ ôm người chở mạnh hơn.
‘Em hỏi bà ngoại. Bả nói gần nầy khác, không phải gần như vậy.’
Tôi thấy chuyện nầy cũng lạ. Con bé quyến luyến mình từ đời cố Hỷ cố
Lai nào không biết mà lẽo đẽo theo mỗi khi có dịp dầu là mới có 8, 9
tuổi.
‘Hay là mình ăn trưa cơm gà nấu đậu ở quán Thanh Bạch kế bên rạp hát Vĩnh Lợi đi anh.’
Tôi e dè:
‘Đi lâu coi chừng chị Hai chửi.’
Con nhỏ sửa liền:
‘Anh không được kêu bằng chị Hai nữa, thay đổi cách xưng hô ngay từ bây giờ là vừa.’
Trời mát mà tôi nghe lạnh xương sống. Con nhỏ nói xa gần, thiệt thà
như tôi cũng hiểu ý. Tôi ngó lên mấy con chim bay trên bầu trời rồi ngó
sang bên kia đường, dãy tiệm bán vải của những người Chà Bombay giàu có
để quên hiện tại. Không biết nên buồn hay nên vui, cũng không biết ứng
phó kiểu nào cho hợp. Nó vừa mới lớn, còn lanh chanh trong tình yêu trai
gái. Tôi lại còn tương tư Dì Út nó chết bỏ làm sao dính dáng với nó
được?
‘Anh cứu em té giếng hồi nhỏ. Nếu không có anh cứu thì em đâu còn
sống nên em thấy mình thích anh. Cũng là một cách trả ơn vậy mà.’ Con
nhỏ nói có vẻ thành thật nhưng với tôi chỉ là trò chơi của ngôn ngữ.
Lấy tay gỡ tay con nhỏ ôm mình quá chặt, tôi nói:
‘Chở em đi như vầy anh sợ Chị Hai má em rầy, chị có thể kêu cảnh sát
bắt anh đó. Mà em nói chuyện đàng hoàng đi, nhỏ bằng hột tiêu mà nói
chuyện gì đâu không!’
‘Lại chị Hai, anh đổi cách xưng hô đi thì vừa. Đâu anh nói coi, kêu má em bằng gì?’
‘Tới nơi rồi, vô ăn món gì dằn bụng rồi về Diễm ơi!’ Tôi đánh trống
lảng và giao xe cho người giữ xe trước tiệm, lấy cái thẻ bỏ vô túi quần
vỗ vỗ cho chắc ăn.
‘Cả chục năm rồi không đi ngang chỗ nầy. Hồi trước mỗi lần anh bịnh,
sư phụ dắt đi nhà thương Sàigòn thế nào cũng xin sư phụ cho mấy phút đọc
chuyện tình của công chúa Margaret và ông Thompson dán ở phòng Thông
Tin Anh kế đây.’
‘Anh cù lần và làm kiểu thầy chùa như vầy hèn chi Dì Út bỏ anh đi lấy chồng. Cũng phải thôi, đâu có oan ức gì.’
Con nhỏ mau lớn và coi bộ trưởng thành về sự suy nghĩ hơn mình tưởng.
Nó dùng chiêu vừa trách cứ về doạ nạt, khiến tôi nín thinh.
Ngồi chưa yên vị con nhỏ nắm hai bàn tay tôi đương mở cái khăn bọc
muỗng nĩa dao vừa mới được đặt trên bàn, và đương ngạc nhiên khi thấy
lần đầu cái khăn trắng muốt, sang trọng quá chừng:
‘Anh Tín nầy, em lớn rồi phải không? Thành nhơn chi mỹ rồi, Học Đệ
Nhị rồi, cuối năm thi Tú Tài rồi. Phải không nói thiệt đi? Mà chỉ lớn
với anh thôi nhe. Người khác thì đừng hòng tới gần.’
Tôi chu mỏ:
‘Lớn cái con khỉ. Ngày nào cũng lật báo đọc mục Mai Bê Bi mà đòi làm người lớn.’
Con bé mặt tươi vui, chợt đổi đề tài:
‘Nhớ khi đó anh nói anh tuổi Tý phải không. Tuổi Tý là người có tánh
chù chừ, không quyết định gì đúng lúc hết. Nói cho anh nghe: Lẹ tay thì
còn, chậm tay thì hết, con chuột chù chừ thì… thì có thể mất mồi và mất
mạng.’
Con bé làm tôi hoang mang, Gì mà ghê vậy em?
Nó nói nhỏ: Anh hiền như cục bột lò bánh mì, ai muốn nặn sao thì nặn,
không ý kiến. Bộ anh mới đẻ ngày hôm qua chắc. Còn em, bộ em là gỗ đá
chắc, không biết yêu.
Hai tay nó nắm tay tôi bóp mạnh:
‘Anh Tín, có cần phải nghe em nói là em yêu anh anh mới chịu hay sao?’
Tôi rút tay về khi người bồi bàn đem hai dĩa cơm gà nấu đậu ra, nói nhỏ:
‘Anh vẫn còn nhớ Dì Út. Không thể để em đền bù chuyện cứu mạng ngày xưa bằng tình yêu nông nỗi của em.’
Nông nỗi! Con bé lập lại hai tiếng đó rồi đứng phắt dậy chạy ra đường phóng bạt mạng lên một chiếc xích lô đương trờ tới.
Tôi ngồi lặng. Rồi em sẽ quên thôi.
Tôi về thẳng bên Tân Qui Đông. Lúc qua bến đò Tôn Thất Thuyết, nhìn
bóng mình trôi trôi trong dòng nước tôi tự an ủi rằng mình đúng, rồi má
với bà em sẽ bắt em đi lấy chồng. Cuộc sống mới sẽ giúp em quên chuyện
tình cảm thời mới lớn. Nhưng mà cha mẹ ơi, hai chục năm lính, hai chục
năm sống bất như ý, hễ khi trời mưa thì tôi nhớ đến chuyện mình với hai
người con gái, chuyện nào cũng lỡ làng. Mình tới họ lui. Họ tới mình
lui. Lỗi tại duyên số hay lỗi tại tui trù trừ không quyết đoán. Tôi như
cục bột ở lò bánh mì, chỉ chờ người ta nặn mình, chứ không thể tự mình
thành gì hết.
Ta chỉ có một đời để sống, chỉ có một lúc thật quyết liệt để quyết
định. Phải sống chơn thật với lòng và với giá trị phổ biến. Phải quyết
định cách đúng đắn không lợi dụng để thủ lợi. Tôi trên căn bản là một
chú tiểu mà, một người con Phật ngay từ nhỏ mà…
Mấy bạn hỏi sao mưa thì lại nhớ đến chuyện tình buồn của mình hả?
Ông nhạc sĩ nào đó thiệt rành đời lắm mới viết câu: Mưa bên chồng có làm em khóc?
Bất như ý cuộc hôn nhân thì trời càng mưa càng nghe buồn, càng thấy
cuộc đời mình là một đau thương lớn. Không khóc sao được. Thương cho
thân phận của họ nên mình buồn thôi.
(Đón xem: Chuyện người Nhật Bổn cuối cuộc chiến)
Câu chuyện thật hay, thật cảm động, có sâu lắng, có hoài cổ, có lịch sử. Chỉ có một điều, người đọc tôi còn phân vân: Hồi đó bác Ba quyết định không chấp nhận tình yêu từ một người con gái thật dạ với mình, chưa chắc là “một quyết định đúng đắn, không lợi dụng để thủ lợi. Có khi quyết định đó là tàn nhẫn, chính bác Ba đã “làm lỡ đời con gái người ta”, mà về sau bác phải hối hận (“lỡ đời” ở chỗ này là lỡ làng duyên phận). Không biết tác giả có viết thêm một bài nào nói về cô Diễm quá tội nghiệp này không, kể từ khi không còn được “anh Tín” che chở, trong miền đất Saigon nhiều cạm bẫy, cuộc đời cô đã như thế nào rồi? Chuyện vẫn còn hấp dẫn, người đọc tôi chờ đọc khúc sau.
ReplyDeleteHai năm sau mới thấy lời nhận định nầy. Nhân vật nầy trong truyện phải chịu bàn tay định mạng do tác giả đưa ra để biện hộ/xây dựng hành động cho nhân vật kia. Phải chịu thôi nếu bị tác giả xử ép...
ReplyDeleteCám ơn Hiệp Nguyễn đã bỏ công mà viết mấy dòng trên.