Thế là ông đã được về
nhà. Sáu năm, ba tháng và thêm mấy ngày lẻ tù đày kể từ một buổi chiều tháng
sáu năm 1975, các sĩ quan quân đội và công chức của chế độ miền Nam phải ‘trình
diện học tập’ theo lệnh của Ủy ban Quân quản.
Con ông chở ông và một người bạn là sĩ quan Thủy quân lục chiến đến trường tiểu
học Nguyễn Tri Phương. Đến cổng trường, hai chiếc xe gắn máy dừng lại, ông bước
xuống rồi tháo chiếc đồng hồ Seiko Five, vốn được ông mua tại phi trường Tokyo
trong chuyến tu nghiệp về từ Mỹ mấy năm trước, khỏi cổ tay rồi đưa cho con.
Người con trai lẳng lặng đeo vào tay mình. Thế là trên người ông không còn vật
gì đáng giá ngoài chiếc nhẫn cưới mỏng mảnh làm bằng vàng 18K và chiếc túi vải
khoác vai, trong có vài bộ quần áo, ít thức ăn.
Ông nói với người bạn tháo chiếc đồng hồ để con mình đem về hộ giao lại gia
đình bạn. Người bạn gạt phăng: “Học mươi hôm rồi về! Chẳng có gì đâu!” Chỉ 24
giờ sau, chiếc đồng hồ Omega “Người nhái” đã được cán bộ giữ giùm và không bao
giờ trở về với người bạn của ông. Phải! Chẳng có gì! Có điều là người bạn của
ông phải học đến hơn mười năm chứ chẳng phải mười ngày.
o0o0o
Cả gia đình mừng rỡ khi
thấy ông bước vào. Có tiếng đứa con gái hét lên: “Bố về!” Tiếng hét như một
dòng điện truyền nhanh và những bước chân chạy rầm rầm từ trên sàn gác, từ sau
bếp ùa ra phòng khách.
Ông có một bầy con đông đúc và chúng chen nhau để ôm và hôn ông. Có tiếng mừng
reo vui nghẹn ngào dòng lệ. Ông bồi hồi hôn lên tóc, lên trán hoặc lên má của
từng đứa một.
Hai nghìn ba trăm ngày ông chưa được ôm hôn chúng nó. Bóng hình và tình thương
của chúng nó đến với ông qua những lọ thức ăn, những viên thuốc của những lần
ông được vợ ông mang đến khi có dịp “đi thăm nuôi”. Bà chắt chiu từng hạt nếp,
hạt gạo, hạt đậu, miếng thịt, thỏi đường, . . . và làm thành thức ăn khô để khi
có dịp đi thăm là mang lên cho ông.
Bà đang đứng dựa vào góc tường và nhìn hạnh phúc nở trên từng khuôn mặt thân
yêu và lan tỏa trong căn nhà nhỏ cũ kỹ. Ông lơi tay ôm các con và nhìn về phía
bà. Có đứa con gỡ chiếc giỏ đệm đan bằng lát khỏi khủy tay ông. Bà nở nụ cười
nhẹ, chớp mắt và đôi mắt đỏ hoe lên. Chiếc áo ngắn tay có nền những cánh hoa
màu tím nhạt làm nổi bật làn da trắng xanh xao trên cánh tay của bà. Cánh tay
gầy và gương mặt xương xương mà ông nhớ hằng đêm.
Ông bước vội đến gần bà, đưa tay đỡ lấy gương mặt bà, hai bàn tay áp vào má,
những ngón tay chạm vào đôi tai và những sợi tóc xám bạc phía sau gáy. Ông kéo
nhẹ đầu bà cúi thấp xuống và đặt môi hôn nhẹ lên trán, nơi những nếp nhăn xuất
hiện nhiều sau ngần ấy đêm xa ông thao thức.
Bà đón nhận nụ hôn rồi nắm hai bàn tay đen đúa, chai sạn và sần sùi của ông
trong hai bàn tay gầy và nổi những sợi gân xanh của bà. Bà nói: “Quang! con lên
thỉnh chuông để bố con thắp nhang trình báo ông bà. Đứa nào chuẩn bị nước cho
bố tắm rồi dọn cơm”.
Trông bà vẫn trầm tĩnh, nhẫn nại và có vẻ thản nhiên nhưng ông biết, có bóng
dáng ông trong nhà, nhịp đập trong trái tim bà đã thôi vội vã, sẽ đập nhẹ nhàng
và hiền hòa lại như đã trở về trong sự nương tựa bên ông từ bao nhiêu năm nay.
0o0o0
Những buổi tiếp bà con
lối xóm đến thăm hỏi đã qua. Ông sống rất chân tình nên mọi người trong xóm
cũng yêu mến ông. Họ dành cho ông sự quý trọng đúng mực vì khi còn là người sĩ
quan cấp tá trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), ông luôn tươi cười, chào
hỏi thân ái đến mọi người và cả những người đàn ông láng giềng mà cấp bậc chỉ
là hạ sĩ quan.
Dường như không phải ông là người lính ác ôn bị chế độ mới gọi một cách miệt
thị là “ngụy”. Dường như không phải ông bị đi học tập cải tạo ngần ấy thời
gian. Ông chỉ vừa đi xa khỏi xóm ít ngày và nay trở về. Những ngày bảo con chở
đi thăm bạn hữu, họ hàng thân thuộc đã qua. Đa phần bạn trong quân ngũ tương
đương cấp bậc với ông thì vẫn còn bị lưu đày trong các trại tù suốt từ Nam ra
Bắc, bạn ngoài dân sự thì sự đổi đời cũng đã khiến cuộc đời họ thay đổi. Người
thì co lại và cố sống lặng lẽ với số tài sản còn giữ được. Người thì thích nghi
nhanh với đời sống mới và vẫn ‘làm ăn’ được. Ông không gặp được một số người.
Nghe nói có người đã về vùng kinh tế mới; có người đã mang gia đình vượt biên.
Và bây giờ, trước mắt ông là những ngày khó khăn chờ đợi.
Chẳng mấy người sống thanh liêm như ông. Thời chiến tranh, bom đạn khắp nơi. Ai
cũng sợ chết và ai cũng cố kiếm lợi khi có chút quyền hành. Chiếc ghế ông ngồi
tại một cơ quan trực thuộc Bộ Quốc Phòng đã khiến bao kẻ thèm thuồng vì là
chiếc ghế gắn đầy những quyền lợi.
Nhưng chỉ ngồi và kiếm chác mà không làm được việc thì cũng sẽ ra chiến trường
hay chí ít thì cũng về các tỉnh. Ông đã từng rời bỏ chiếc ghế đó vì bị ganh
ghét và nhận một công việc nhàn hạ hơn mà rồi cũng phải quay về nhận lại chỉ
sau ba tháng khi người thay ông với nhóm nhân viên tăng cường đông nhiều lần
hơn vẫn không thể hoàn thành công việc.
Ngồi trên chiếc ghế được ví như nạm vàng hoặc cẩn kim cương đó, ông lại giúp
người khác nhiều hơn và không cần đòi hỏi tiền bạc hoặc đổi chác gì cả. Ông
giúp vì hoàn cảnh của họ đáng được giúp. Có lẽ sự hay giúp người đã tạo phúc
cho ông. Ông chỉ học tập ở phía Nam, trong các trại “cải tạo” ở miền Đông: Suối
Máu, Bù Gia Mập, Minh Hưng . . .
Ít nhất đã ba lần, vào lúc nửa đêm, ông đột ngột bị gọi tên và chuẩn bị hành lý
để chuyển trại để rồi khi những người khác lần lượt bước lên xe làm chuyến đi
trong đêm vô định, còn ông lại sót tên ngồi một mình giữa sân và lại quay về
lán trong sự mừng rỡ của các bạn. Bạn bè đưa lại cho ông những thứ mà ông khi
chuẩn bị đi đã đưa cho họ và thì thầm: “Ông may mắn đấy! Nghe nói chuyến đó ra Bắc.”
Trong trại, ăn uống cực khổ và thiếu thốn như thế, làm việc nặng nhọc, bị sỉ
nhục tinh thần, thương nhớ người thân và tinh thần bị giằng xé bởi những quyết
định trong những ngày cuối của cuộc chiến, ông vẫn không bị bệnh tật đe dọa.
Nhờ quen ăn uống đạm bạc và điều độ nên ông chịu đựng được những cơn đói triền
miên hành hạ. Những cơn đói hoa mắt váng đầu khiến con người ta nếu không đủ
nghị lực dễ đánh mất danh dự.
Có lần ông còn thoát chết khỏi tai nạn lao động. Những cây to trong rừng phải
đốn chặt chỉ bằng sức người và dao rựa và không có sự bảo vệ nào. Những cái
chết thảm đến với các sĩ quan VNCH trong thời gian đi cải tạo như là sự phó mặc
cho tự nhiên. Cái tàn ác của Cộng sản chính là sự phó mặc mang vẻ tự nhiên đã
được sắp đặt. Chết vì buồn phiền, chết vì lao lực, chết vì đói, chết vì bệnh
tật không có thuốc trị, chết vì thú dữ, vì lao động không được bảo hộ, . . .
Lần ấy cả thân cây to đổ ập xuống về phía ông đứng, mọi người hét lên, ông bỏ
chạy. Nhưng lúc ấy vì quá sợ ông lại chạy trong chiều cây đang đổ xuống. Đột
nhiên, ông nhớ lại, dường như có một sức mạnh vô hình kéo ông ngã văng sang một
bên.
0o0o0
Ông cố tìm sự tĩnh lặng
trong đời sống bằng mỗi buổi sáng cùng vợ đi dạo công viên. Trong làn gió sớm
ông nhớ lại quãng thời gian hơn ba mươi năm làm lính. Từ Bắc vào Nam, từ một
người lính khinh binh trẻ tuổi đến vị trí người sĩ quan nhiều lần tham dự các
cuộc họp liên quan đến vận nước, đời binh nghiệp của ông kết thúc trong cái
khóa tay uất hận và cùng bao đồng đội ngồi đếm niềm đau thân phận từng đêm giữa
núi rừng rét lạnh. Vợ ông sức ngày càng yếu. Bà như một người đã cố kéo căng
hết sức mình để vượt qua những trở ngại và kiệt lực khi hoàn tất. Ông khuyến
khích bà đi bộ mỗi sáng cho khỏe và dấu sự lo lắng về cuộc sống vào sự tập
trung chăm sóc bà.
Ông cố đi tìm việc để đỡ đần cho con cái. Cuối cùng, một người bạn nhường một
phần công việc kế toán cho các tổ hợp gia công trong Chợ Lớn cho ông. Ông phấn
khởi đi làm dù thu nhập không nhiều. Ông nhủ thầm: “Thế là tốt lắm rồi.” Công
việc giúp ông thoát được cảm giác vô dụng và những giờ ưu tư đè nặng tâm hồn.
Cái ý nghĩ là trụ cột cho gia đình luôn thúc dục ông phải bước tới dù con ông
nhiều đứa đã trưởng thành. Mười năm qua chúng đã chẳng làm rất tốt đấy sao?
Một buổi sáng như thường lệ, ông và bà đi bộ về. Các con pha trà và gọi quà
sáng cho ông ăn. Bát phở vào dạ dày chưa được bao lâu, một cơn đau bụng khủng
khiếp đột nhiên bùng phát. Ông bổ nhào người khỏi chiếc ghế salon đang ngồi,
xuống nền gạch bông và quằn quại. Các con hoảng hốt chạy đến đỡ ông dậy rồi vội
vã đưa ông vào bệnh viện Nguyễn Văn Học. Các bác sĩ đến khám nhưng không biết
ông bị bệnh gì và ông lại tiếp tục chịu đựng những cơn đau xé người. Ông chợt
nghĩ đến cái chết. Phải chăng sau ngần ấy năm bị đày đọa ông phải nhận kết quả
sau cùng cho cuộc đời mình trong đớn đau như thế này? Hốt nhiên ông lại nghĩ
đến bà và tiếc nuối.
Một đứa cháu biết tin chạy vào bệnh viện. Ông đã nằm trong đau đớn hơn 5 giờ
đồng hồ. Bác sĩ vẫn không có sự chữa trị nào. Đứa cháu nói với con ông:” Phải
đưa bác xuống bệnh viện Sàigòn ngay. Để ở đây như thế này thế nào bác cũng
chết. Bác sĩ dưới đó toàn là dân ‘quân y’ hồi trước.” Con ông lo ngại “Bác sĩ
không cho mang đi.” Thằng cháu quả quyết:” Không cho mình cũng mang. Người nhà
của mình mình lo.” Chúng tranh cãi với bác sĩ, y tá rồi mang ông xuống bệnh
viện Sàigòn nơi một số bác sĩ của “chế độ trước” còn được lưu dụng vì tài năng.
Ông được cứu sống sau khi mấy ông ‘quân y’ cắt bỏ đoạn ruột bị hoại tử dài 8
tấc. Bác sĩ nói đến chậm một chút là cứu không kịp, nhưng cái bụng của ông sẽ
mang vết mổ rất xấu vì không có đủ chỉ khâu. Trong đêm nằm tại phòng hồi sức,
phía ngoài hành lang mờ tối các con ông thức trắng và cầu nguyện cho cha được
bình an.
Ông được ra khỏi bệnh viện và về nhà. Ông cần ăn uống kiêng cữ một thời gian.
Con ông nói: “Bố đừng lo nghĩ nữa. Lần này đúng là ‘rầu thúi ruột’.” Vết thương
đang lành nhưng do không có đủ chỉ khâu, chỗ mổ dần dần bị căng ra và lồi lõm.
Đoạn phía dưới rốn lồi ra thành một cục to tướng khiến ông mặc quần khó khăn.
Ông tặc lưỡi: “Đành chịu xấu vậy thôi”.
0o0o0
Ông mang bầy con sang Hoa
Kỳ định cư theo diện H.O. dành cho các sĩ quan bị “cải tạo”. Khi đi khám sức
khỏe các bác sĩ đã hốt hoảng khi nhìn thấy vết mổ. Họ năn nỉ ông cho họ khâu
lại vì toàn bộ phần nội tạng chỉ còn có lớp da mỏng che chở và họ không biết
lúc nào thì vết khâu sẽ rách bung ra và toàn bộ ruột gan của ông sẽ đổ hết ra
ngoài. Trong tuần kế tiếp ông đã đến bệnh viện để bác sĩ khâu lại bằng dao
laser. Không một giọt máu chảy, vết mổ mảnh như một sợi chỉ vắt trên da và sau
khi nằm nghỉ một tiếng ông thư thái ra về.
Vết thương đời đã kết thành sẹo vô hình trong tâm hồn hay gồ ghề xấu xí trên
thân thể đã là bằng chứng của cuộc đời ông gắn liền với các biến cố của đất
nước. Thỉnh thoảng, nhìn vết sẹo dài còn lưu trước bụng, ông thầm nhớ những
buổi sáng đi bộ cùng vợ. Ông vẫn giữ thói quen ấy mỗi sáng. Một mình. Chỉ một
mình lặng lẽ bước trên những con đường vắng và rợp mát. Bà đã không còn để cùng
ông dạo sáng nữa, vì một căn bệnh nan y, đã vĩnh viễn yên nghỉ lại với quê
hương, trước ngày ông mang con ra đi, đã như niềm đau chôn chặt vào tim khôn
nguôi. Dù thời gian có thu nhỏ nó lại mảnh mai như sợi tơ đi nữa, vẫn tồn tại
nơi ông đến cuối đời.
Lê Khánh Long
Nguồn: tredeponline.com
No comments:
Post a Comment