Tôi có một người anh
cá tính hoang nghịch trổ trời mà lên. Từ nhỏ, thích trèo cây trong vườn. Có bữa
leo phải cành ổi giòn bị gãy, thế là anh rớt xuống nghe uỵch một cái như trái
mít rụng. Anh đau điếng cảm giác rêm ram cả mạnh sườn. Anh sợ quá nằm im một
lúc, nghĩ bụng chắc mình chết rồi! Mở mắt ra, giơ chân tay thấy còn ngọ nguậy
được. Vậy là chưa chết lại phủi đất lò mò ngồi dậy (như chưa hề có cuộc chia
ly). Anh chạy vô nhà thấy tôi ngồi chơi đồ hàng bên cửa sổ hỏi:
– Ê, lúc nãy mi thấy
tau té không?
– Anh có té à, nghe
bịch một cái, em tưởng trái mít rụng chớ!
– Mít mô mà rụng, tau
té đó, đừng méc mạ nghe!
Con nít trong xóm có
trò chi là anh tham gia trò nấy như thả diều, rượt nhau, bắn bi... Nghe nói bắt
chuồn chuồn cho cắn rốn để biết bơi, vậy là lũ bạn bắt chuồn chuồn rồi vén bụng
lên cho cắn xong rồi cùng cả nhóm bạn trong xóm ùa xuống bến nhưng chưa bơi
được sải nào đã chìm nghỉm. Nhờ có anh bạn chụp tóc kéo vô, may không thôi
chết. Sau về nhà ngồi ngẫm nghĩ chắc tại con chuồn chuồn kim cắn nên chưa hiệu
nghiệm. Phải là con chuồn chuồn voi mới được. Vậy là trưa trời nắng gắt thế mà
cũng lội từ vườn cây ra đến bến sông mà bắt cho được con chuồn chuồn voi. Cho
cắn rốn sao mà nó ngoạm cho một miếng tươm máu rồi tự động viên không hề hấn
chi miễn biết bơi là ok. Sau đó rủ tụi bạn xuống bến bơi nhưng vừa thả chân,
thả tay ra khoát khoát vợi vợi vài cái cũng lại chìm nghỉm. Nhưng lần này rút
kinh nghiệm chỉ bơi chỗ nước ngang bụng nên không sao!
Suốt ngày giỡn nhau,
chạy đuổi khắp xóm, khắp làng. Đến giờ cơm, tôi có nhiệm vụ đi tìm anh về ăn mà
kêu như kêu đò vậy. Đi coi đá banh thì về tận làng bên gặp trời mưa chạy về bao
nhiêu lần ướt lóp ngóp như chuột lột. Mẹ tôi nói, anh mi trên đầu có cái xoáy
trâu nên hoang nghịch rứa chớ tình cảm lắm. Quả có vậy. Ai mà chọc em là
không được với anh mô nghe! Thương em lắm! Mà tui thì chúa nhõng nhẽo vì con út
mà! Biết trong nhà ai cũng cưng, suốt ngày đòi anh làm đồng hồ lá chuối, lá
dừa... rồi bắt anh hái dâu, hái ổi hay thanh trà vào gọt ăn. Lúc thì bảo bắt
cào cào, châu chấu, chán rồi thì bảo anh làm thuyền giấy, múc thau nước bỏ vô
cho thuyền trôi. Nhiều lúc anh nổi cáu:
– Tau phát mệt với mi
rồi nghe con tê!
– Mạ ơi chơi với hắn
con mệt quá! Con chạy đi chơi đây!
Nói rồi dông thẳng một
mạch nhưng đi đâu, kiếm được cái gì hay, trái gì ngon cũng để dành cho em. Có
bữa, anh tui bị mấy đứa xóm bên bao vây. Thằng mặc áo bun xanh nói:
– Ê mi có đứa em mũm
mĩm giống con búp bê, mai mốt lớn gả cho tau nghe! Hứa đi tau khỏi kêu tên ba
mạ mi là K V, không tôi tau réo nì.
Thế là anh giơ nắm đấm
lao vào thằng mặc áo bun xanh bớp hắn mấy phát nhưng cũng bị nó quần lại tơi tả
không kém. Khi tui chạy tới la lên méc mạ mới buông nhau ra mà chạy về. Đầu
sưng cả cục u to như trái chanh. Về mẹ tôi lấy xác chè xanh, thêm ít muối bóp
trán cho ấy. Vừa làm vừa giảng giải thế nọ thế kia được vài ngày cũng chứng nào
tật nấy. Trời mưa thì chạy đi tắm mưa, đi dẫm nước mưa về, nước ăn chân ngứa
khóc ỏm tỏi, mẹ tôi phải nướng trái khế chua cho ấm rồi biểu anh đạp chân vào,
vài ngày là khỏi.
Anh học giỏi đều các
môn. Mẹ tôi bảo anh kèm cặp em kẻo mạ bận việc quá không coi sóc được việc học
của em. Lúc bắt đầu học chữ, anh viết mẫu rồi bảo tôi viết theo. Tôi lóng ngóng
đưa nét bút cong quẹo không ra chữ. Anh tôi phải cầm tay tôi đưa từng nét. Sau
thời gian hai tháng hè tôi biết đọc biết viết trước khi tới trường. Những lần
anh dò bài, tôi đọc không thuộc là bị cốc một cú trên đầu kèm theo câu mắng:
–Học ngu như mi mai
mốt lớn không có thằng mô rước.
Bị cốc một cú trên
đầu, thực ra thì cũng không đau mấy. Nhưng tôi cố tình khóc ít mà ré thật to để
cho mạ biết, thế nào anh cũng bị la.
– Dạy em mà cứ mắng
hắn rứa con. Phải chỉ vẻ em từ từ, đừng để em khóc mà mạ xót.
Rồi anh đổi giọng ngọt
như đường:
– Thôi, học đi chút
nữa anh dò lại, nếu thuộc mai anh về ghé chợ Đông Ba mua cho em cái kẹp nơ
hồng. Cài lên tóc em tui xinh lắm!
Khi anh vào học trường
Hàm Nghi trong Thành Nội, ở nhà hoang nghịch là vậy chứ tới trường cũng được
bầu làm lớp trưởng như ai. Anh học rất tốt các môn tự nhiên. Rồi anh thi đậu
vào Quốc Học. Lúc anh mới nhập trường, nhận bảng tên về đeo đi lui đi tới mấy
vòng trong sân rồi hỏi tôi:
– Thấy bảng tên QH oai
không? Mi lo học đi mai mốt phải thi đậu QH như anh rứa nghe không?
Lên đệ nhị cấp rồi anh
bớt hoang nghịch hơn, chú tâm vô bài vở của mình và kèm cặp em út học hành. Thế
rồi anh được du học ở Hoa Kỳ theo chuyên ngành vận tải hoa tiêu. Hết thời gian
học tập, anh về nước làm phi công thuộc bộ phận vận tải hàng không ở Tân Sơn
Nhất, rồi anh cưới vợ, chị là người miền Tây.
3 năm sau, do những
biến cố khách quan nên anh đưa vợ con qua định cư ở Tiểu bang Illinois, Hoa Kỳ.
Số là trước khi đi du học anh được học tiếng Anh 1 năm tại Gò Vấp nên quen bạn
gái người miền Tây. Anh nói với mẹ tôi là lấy vợ xa cho chắc, chứ ở nhà cứ đi
ra ngõ là gặp bà con. Trong phường xóm dính vô ai nghe nói cũng họ hàng hết.
Bởi vậy cứ ra đường gặp ai cũng phải chào: Thưa anh, thưa o, thưa chú... Mà
không biết họ có nghe không. Cũng chẳng đợi họ trả lời. Nhưng nếu không chào là
sẽ có có người nhắn về với mẹ tôi ngay.
Thế rồi, khi tôi lập
gia đình, anh tôi cũng đưa mẹ tôi qua ở với anh để phụ chăm cháu. Lúc này anh
chị sinh bé Đan Thanh. Anh xin làm ở nhà máy sản xuất máy cày tại TP Chicago
(thuộc tiểu bang Illinois). Nhà máy này mỗi ngày sản xuất 150 chiếc. Nhân viên
khoảng 40 nghìn người, trong đó người Việt khoảng 100 người. Anh làm việc trách
nhiệm và có nhiều sáng tạo nên được trả lương gấp rưỡi so với đồng nghiệp của
anh. Ngoài ra còn thưởng và các phụ cấp khác. Cứ 2 tuần anh lãnh lương 1 lần,
tiêu chuẩn 4h bệnh, 1 tháng có 8h bệnh và 1 năm có thêm kỳ nghỉ..Công việc đang
trôi chảy, anh làm được 5 năm ở đây thì nghiệp đoàn cứ đòi tăng tương 3 tháng 1
lần. Nên nhà máy phải tăng lương cho họ. Vì nếu không tăng họ sẽ đình công. Lúc
đầu sản xuất 150 chiếc/ngày. Sau hạ xuống 100 chiếc/ ngày... rồi chỉ còn 50
chiếc/ ngày nên sau này nhà máy tính toán thấy thua lỗ không đủ chi phí nên nhà
máy đóng cửa. Anh tôi phải ăn lương thất nghiệp nhưng cũng đủ sống.
Ở hiền gặp lành, có 1
chị người Việt có chồng là người Mỹ ở gần nhà anh không biết lái xe, có biết
lái nhưng ra đường cứ quẹo trái, quẹo phải tùy thích nên anh chồng sợ quá liền
nói anh rảnh thì nhờ anh qua kèm cho chị ấy. Sau 2 tuần, chị ấy lái xe được ngon
lành. Chồng chị ấy mừng lắm! Anh chồng bảo anh viết đơn anh ấy sẽ tiến cử đi
làm ở chỗ cơ quan anh ấy. Và may mắn thay, anh đã được vào làm việc ở 1 nhà máy
của bộ quốc phòng đóng tại 1 hòn đảo thuộc bang này. Nhà máy có số lượng nhân
viên là 20 nghìn người nhưng người Việt chỉ có duy nhất một mình anh tôi. Ở nhà
máy này sản xuất xe tăng 113, súng M15 (súng trường), mặt nạ chống ngạt. Lương
hướng ở đây và phụ cấp cũng khá, ngoài ra còn có phụ cấp thêm cho vợ anh
$1000/tháng. Chị xin đi làm thợ may ở hãng chỉ là đi làm cho vui, lương mỗi
tháng chẳng là bao với khoảng $500/tháng gọi là làm cho có. Đó cũng là lý do ra
ngoài để giảm tiếp xúc với mẹ chồng. Mẹ tôi sinh trưởng trong gia đình nề nếp
xưa, thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa, chuẩn mực từ lời ăn tiếng nói cho đến việc
làm. Hai thế hệ sống cùng nhà, mẹ chồng nàng dâu là vấn đề muôn thuở khó dung
hòa. Tuy nhiên ở đời vẫn có những cặp mẹ chồng, nàng dâu, quan hệ rất tốt, rất
thuận hòa nhưng quả thật càng ngày càng thấy hiếm. Bên tình bên hiếu, anh đứng
giữa thật khó xử. Anh hiếu thảo với mẹ và cũng rất yêu thương vợ con, chiều vợ
hết mực. Tiền bạc làm ra anh cho vợ con xài thoải mái, không tiếc với vợ thứ
gì, nhưng sự đời nhiều khi không như ý muốn.
Năm 1989, chị dâu tôi
bỏ nhà đi theo tiếng gọi tình mới. Anh lâm vào cảnh gà trống nuôi con. Anh đau
khổ tột cùng, tưởng như sẽ gục ngã, nhưng anh hiểu là mình phải sống không phải
cho mình mà sống vì con. Nên anh gắng gượng làm lụng và nuôi con. Lo cho con
đầy đủ, một gánh hai vai thay thế cả mẹ nó. Làm sao cho con đỡ thiệt thòi nhất
khi thiếu mẹ. Anh dành hết tình thương cho con. Thời gian trôi đi, bé Đan Thanh
vào đại học, cháu đề nghị ba về Hawaii sống để tìm, thuyết phục mẹ về.
Năm 1991, anh thương
con, nghe lời con xin nghỉ việc ở nhà máy của bộ quốc phòng một công việc không
dễ gì kiếm được ở Chicago. Anh về Hawaii xin vào làm ở một nhà hàng. Như vậy là
bỏ một công việc ổn định ở Chicago mà về đây để lao động tự do là một việc mạo
hiểm. Công việc vất vả nhưng anh hy vọng có cơ hội để gần chị, thuyết phục chị
trở về. Lúc này thì anh cũng hiểu tình cảm như ly nước đã đổ đi khó lòng hàn
gắn nhưng vì con anh mà gắng gượng níu kéo. Lại nói về anh tình nhân của chị
thì khi thấy anh tôi, anh ta rất ngạc nhiên và nói với anh tôi rằng:
– Tôi hoàn toàn là
không biết cô ấy đã có gia đình. Vì cô ấy nói với tôi là độc thân nên mới ra cơ
sự này.
Nhưng chị vẫn không
lay chuyển, không nhớ con, cũng không vì nghĩa tào khang vợ chồng dù “một ngày
nên nghĩa” huống gì đã có với nhau một mặt con, lòng chị lạnh băng khi gặp anh.
Thậm chí chị không thèm đến dự đám tang mẹ chồng (khi chưa ra tòa ly hôn thì
chị vẫn là dâu con nhưng chị đã không xem “nghĩa tử là nghĩa tận” để làm tròn
phận sự lần cuối với mẹ chồng). Sau 4 năm vô vọng, năm 1993 anh làm giấy ly hôn
với chị. Lúc này anh nuôi cháu Đan Thanh đã học xong đại học tài chính kế toán
và đã có việc làm nơi đây.
Anh một mình khăn gói
về Texas. Nơi này, thời trai trẻ, lúc đi du học đã có thời gian anh được học ở
đây. Bước đầu chân ướt chân ráo, anh thuê 1 phòng trong khách sạn để sống một
thời gian ngắn rồi tính tiếp. Tại đây có một chị phục vụ và đứa con trai của
chị là người Việt. Hàng ngày qua câu chuyện, biết em ấy cần học tiếng Anh. Thế
là anh dạy tiếng Anh cho em ấy. Mỗi ngày lúc rảnh em trai ấy chở anh đi chơi
đây đó cho biết, tìm lại những người bạn. Anh cũng đã liên lạc lại được với một
số bạn bè. Rồi anh ra ngoài thuê tạm 1 căn hộ để sống và bắt đầu cuộc sống mới
ở đây. Làm lụng, tích cóp rồi anh cũng mua được nhà. Về Texas, anh thấy khí hậu
ở đây ít lạnh hơn ở Chicago. Anh bảo bé Đan Thanh về sống dưới này nhưng cháu
nói cháu quen ở Chicago rồi với lại công việc đã ổn. Nay cháu đã lập gia đình
và đã có 1 cháu trai kháu khỉnh. Như vậy anh cũng đã yên tâm phần nào về con
cái.
Trong một lần anh dự
đám cưới tại nhà người anh ở Oregon, cậu của người chị dâu thấy anh sống đơn
chiếc nên đã giới thiệu cho anh 1 người bà con của ông ấy. Anh lập lại gia đình
với chị (chồng chị đã mất, nay chị sống với đứa con trai). Anh rất chiều chuộng
chị. Mọi việc trong nhà từ A đến Z một tay anh đảm nhận. Lúc chị ngủ, anh cũng
buông mùng, đắp mền cho chị rồi anh mới đi lo việc của anh. Bà con của chị, ai
cũng mừng cho chị là gặp anh nửa sau cuộc đời nhưng thật quý hóa. Anh xem con
riêng của vợ như con mình, chăm chút, nuôi nấng cháu cho đến khi cháu vào đại
học, lập gia đình và ra riêng.
Lại nói về người vợ cũ
của anh, mặc dù ly dị rồi, nhà nước vẫn báo cho anh biết là vẫn phụ cấp cho vợ
cũ ăn theo anh mỗi tháng $1000. Bây giờ về già, bà ấy cũng sống một mình vì anh
nhân tình sau cũng đã bỏ đi vì ông ấy cho rằng người thiếu chung thủy đã từng
bỏ chồng để sống với anh ta thì không chắc là sẽ lại không bỏ anh ta lần nữa.
Hơn 30 năm, không hiểu
do hối hận hay là so sánh lại thấy không có ai chiều chuộng như anh tôi, cũng
là lúc về già rồi cần có người chăm sóc nên đã đánh tiếng nhờ bé Đan Thanh gọi
điện với ba cho mẹ nó về lại sống cùng anh tôi. Bé nói:
– Nếu mẹ về sống với
ba thì sẽ tốt cho con hơn. Nhưng con cũng hiểu là không dễ gì nên tùy ba thôi!
Nhưng anh không đồng
ý. Muộn quá rồi! Tình xưa đã hết và lửa lòng đã nguội. Anh đã đi qua sóng gió
cuộc đời, từng tan nát lòng và gặm nhấm nỗi buồn như thế. Bây giờ muốn bình
yên. Anh nói với tôi là đời anh như bị sao quả tạ chiếu vào. Chuyện học hành, công
việc thì hanh thông mà duyên tình lận đận, có lẽ là những gì thử thách cam go
của 1 kiếp người. Giờ đây anh sống khép kín, ít giao du với ai. Hàng ngày lui
cui với mảnh vườn và dăm ba người bạn trong xóm. Cảm thấy an bài với số phận
vui ít buồn nhiều của anh. Anh em giờ ở cách xa nhau, ai có gia đình nấy và
những bận bịu riêng. Không thể có những tháng ngày vui vẻ bên nhau như thời thơ
ấu. Nghĩ về anh tôi xót xa lòng. Nước mắt lại tuôn trào. Thương anh, chỉ biết
cầu mong anh luôn được an lành, sức khỏe với cuộc sống bình yên!
Hoàng Thị Bích Hà
No comments:
Post a Comment