Ai cũng biết VC là vua chơi chữ, lúc chúng mới vào miền
Nam, cũng như bây giờ. Chúng bày ra nhiều danh từ quái dị, ví dụ “bức xúc”,
không biết từ tiếng nào ra (đúng nghĩa là “cần kíp”, nhưng người dân lại dùng
như “khó chịu, bực bội”: nghe nó nói, tôi bức xúc quá) hoặc “ẩm thực”,
từ Việt Hán, trong khi đã có sẵn chữ Việt thuần túy “ăn uống”, hoặc “lô-gích” bởi
tiếng Pháp logique, nghĩa tiếng Việt là “hợp lý”. Thật là dốt mà hay nói
chữ.
Vốn sắt máu, VC dùng những danh từ
mang giọng tranh đấu, đàn áp, bắt bớ. Từ ngữ vô tội bỗng bị “nâng cao quan
điểm”, trở thành phương tiện phô bày bản chất võ biền nằm trong tiềm thức của
chúng. Vài ví dụ:
- giải phóng
mặt bằng; giải phóng chất khí
- quản lý đời em, quản lý đời
anh (lấy vợ, lấy chồng?)
- xử lý hạt giống; xử lý từ
xa (remote control?) ; xử lý văn bản
- khống
chế tốc độ; khống chế chi
tiêu
- giáo án (thay vì bài dạy)
Vân vân...
Tương tự chữ chém trong
từ ngữ dưới chế độ phong kiến ngày xưa, như theo một chuyện khôi
hài ta thường được nghe kể: Thay vì nói “đang cắt khoai ăn”, một vị thuộc
hoàng tộc đã trả lời: “Mệ đang chém củ khoai.”
Từ ngữ VC chuyển biến, đổi màu như cắc kè
tùy theo lập trường, hoàn cảnh. Cũng là phi công nhưng của “ngụy” thì
trở thành giặc lái, của bọn chúng là chiến sĩ lái. Đối với Trung
Cộng, khi còn là tay sai, VC nâng bi hết cỡ: nào là “đồng chí anh em”, “tình
hữu nghị Việt-Trung thắm thiết, môi hở răng lạnh, đời đời bền vững”, “trăng
Trung quốc sáng hơn trăng Mỹ [đồng hồ Liên Xô tốt hơn
đồng hồ Thụy Sĩ]”. Khi bị Tàu
Cộng đánh cho tơi bời ở biên giới cuối thập niên 70 thì chúng chửi các “đồng
chí anh em” là “bọn bành trướng Bắc Kinh”, “chủ nghĩa Xi-ô-nít (sionisme)
xâm lược”. Khi đã bán đất, bán biển cho Trung Cộng, và ở cái thế đầy tớ, VC
sợ bọn này đến mức không dám viết “tàu Trung quốc bắn chìm thuyền đánh cá Việt
Nam”, mà gọi là “tàu lạ”.
2.
Tuy nhiên, khi cần lừa bịp, bọn lãnh đạo VC
không ngần ngại dùng cả kho từ ngữ nghe rất xây dựng, ngọt
như mía lùi: đi tù thì chúng gọi là đi học tập (cải tạo). Một
nhà văn bạn đồng tù của tôi, nguyên là nhân viên Việt Tấn Xã, thỉnh thoảng ghé
tai, nói nhỏ:
- Tao phải đề nghị cái thằng
viết bức thông cáo kêu gọi quân nhân “ngụy” đi trình diện học tập cải tạo sau
ngày 30/4/75 được lãnh giải Nobel về văn chương láu cá...
- ?
- Chúng bắt binh sĩ, hạ sĩ
quan tập trung “học” tại chỗ ba ngày, rồi cho về thật. Sĩ quan cấp úy cũng
"được" đi học, và đem theo lương thực đủ 10 ngày. Cấp tá mang theo
lương thực đủ một tháng. Thì thử hỏi bố ai mà không tin?
Nuốt một hớp nước cho đỡ tức,
anh ta tiếp:
- Mới đây, thằng cha X đứng
lên hỏi: “Thưa cán bộ, tại sao trong thông cáo trình diện, Cách mạng nói học
tập mườì ngày, mà bây giờ học đã hơn một năm rồi, chúng tôi chưa được về?”
Thằng quản giáo cười khinh khỉnh, trả lời tỉnh bơ: “Đâu, anh chỉ tôi xem chỗ
nào trong thông cáo Cách mạng nói các anh “học tập mười ngày”? Thông cáo chỉ
bảo “mang theo lương thực đủ mười ngày”. Anh thấy không, mười ngày ăn hết thì
Cách mạng cung cấp tiếp kia mà!”
Cứng họng. Anh bạn VTX lắc đầu
chép miệng:
- Tiên sư chúng nó, đau như
hoạn, tức như bò đá. Tao cũng không rõ, tại chúng mình ngu, hoặc tại chúng nó
quá lưu manh?
Ngừng một giây, anh ta phun
tiếp:
- Hoặc là tại người quốc gia
mình quá ngay thẳng, nếu không nói là ngây thơ, nên suốt đời bị chúng nó lừa,
từ 1945 tới hôm nay.
Có thể anh ta nói đúng: cho đến bây giờ, một số người tỵ nạn chúng
ta vẫn còn ngây thơ trước từ ngữ của VC, bị bịp hoài mà vẫn chưa tởn. Ngày nay,
sau khi chạy trối chết ra tới hải ngoại, an toàn rồi, mà bọn VC vẫn đuổi theo
phá đám, dụ dỗ, lần này bằng những lời đường mật, dĩ nhiên, đầy dẫy trong Nghị
quyết 36, nào là Việt Kiều, “khúc
ruột ngoài ngàn dặm”, “bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam”
(thay cho “bọn vượt biên là ma
cô, đĩ điếm” trước kia), nào là “quê hương là chùm khế ngọt”,“hãy hoà giải hòa
hợp, xóa bỏ hận thù”, nào là “hãy đem tiền bạc và chất xám về xây dựng
đất nước, đầu tư đi, làm từ thiện đi, về mua nhà mua đất, hưởng già đi, gái
Việt Nam bây giờ đẹp lắm, đẹp lắm...”
3.
Tại trại cải tạo Vĩnh Phú, có anh bạn đồng nghiệp tại trường Đại
Học CTCT Đà Lạt, tên Nhung, kiếm đâu ra được chức thủ kho dụng cụ lao động,
cũng nhàn và ấm thân. Một hôm, anh ta kể, một tên công an vẻ phách lối đến mượn
cái xẻng. Theo thủ tục ai mượn cũng phải ghi tên vào sổ. Thủ kho, người Bắc,
lịch sự hỏi:
- Xin cán bộ cho biết quý danh.
Tên nọ không hiểu "quý danh", há mồm, ngơ ngác, suy nghĩ một hồi, rồi
đột nhiên sừng sộ:
-
Anh vi phạm nội qui. Ai cho anh nói tiếng nước
ngoài hử?
Nhung sửng sốt, á khẩu. May phước,
nhờ các bạn đồng tù xúm vào thông dịch giùm, anh ta mới thoát nạn, sau khi bị
xỉ vả tận tình:
-
Bây giờ mà anh vẫn còn ôm chân đế quốc, dùng toàn là chữ tư bản, phản động.
4.
Ngày Chúa Nhật
tù nhân thường được nghỉ lao động. Nhưng thỉnh thoảng bọn cán bộ bắt làm cái mà
chúng gọi là “lao động xã hội chủ nghĩa”, kiểu volunteering ở Mỹ, ví dụ
đào “ao cá Bác Hồ”, "trồng cây Bác Hồ", "trồng rau cải
thiện". Coi như mất toi một buổi sáng. Tôi đang nằm ngủ nướng, anh tù đội
trưởng, tên Dũng, đến vén mùng lôi dậy:
- Đề nghị anh thức dậy đi lao động xã hội chủ nghĩa.
Tôi cự nự:
-
Anh đề nghị, nhưng tôi từ chối, được không?
Dũng
là một đội trưởng tốt, đấu dịu:
- Trong từ ngữ tụi nó, đề nghị có nghĩa là bắt buộc đó cha nội.
Không biết mà cứ lý sự hoài, khổ quá!
5.
Thời gian đầu
mới ra Bắc, sĩ quan tù nhân bị giam ở những trại do “bộ đội” quản lý được dựng
lên cấp thời bằng gỗ, tranh, nứa. Dãy hố vệ sinh được đào phía sau nhà (khác
với những trại Công an sau này, như Vĩnh Phú, phòng tiêu tiểu cất ngay trong
mỗi buồng). Ban đêm, tiểu tiện, đại tiện tù nhân phải xách đèn ra trước vọng
canh, hô to, xin phép vệ binh. Những thằng vệ binh, đa số gốc nhà quê, nói ngọng,
dùng nhiều thứ thổ ngữ địa phương khác nhau.
Tại trại Hoàng Liên Sơn, thường
xuyên có tiếng vang lên trong đêm trường lạnh lẽo:
- Báo cáo cán bộ, tôi
xin đi tiểu.
Vệ binh gác hỏi:
- Đi tiểu là đi đâu?
- Là đi tè, tức đi đái đó...
- Đi đái thì nói đi đái, còn văn vẻ đi tiểu với đi đại... Được.
Đêm sau, rút kinh nghiệm, một tù nhân khác xin phép
một thằng vệ binh khác:
- Báo cáo cán bộ, tôi xin đi đái.
Tiếng từ vọng gác:
- Đi đái... anh ăn nói kém văn hóa quá.
- Vậy cán bộ bảo tôi nói thế nào?
Thằng vệ binh:
- Đi giải.
Một đêm khác, một cải tạo viên khác:
- Báo cáo cán bộ, tôi xin đi giải...
Tiếng vệ binh:
- Không được. Đi đái thì nói đi đái. Giải
gì? Giải rút hả? Dân Nam bộ mà cũng tập nói tiếng Bắc. Nói lại.
Được lời như cởi tấm lòng, anh cải tạo viên la lớn:
- Báo cáo cán bộ, tôi xin đi đái.
Âm “ái... ái... ái” vọng lên trên dãy núi Hoàng Liên
Sơn trong đêm vắng lặng, nghe “khẩn trương”, đau khổ.
- Được.
Cũng may, vào thời kỳ đó, đa số sĩ quan còn trẻ, còn
khỏe, thận tốt, nên ráng nhịn được. Nhưng những ông già trên sáu bó, đứng tranh
luận về chữ nghĩa kiểu này, giữa trời sương lạnh, chưa kịp đến hố đã “giải
phóng” ra quần mất rồi.
6.
Chuyện bị Tào Tháo rượt sau đây thì bất kể tuổi tác, già trẻ, nhiếp
hộ tuyến sưng hay không sưng. Cũng tại trại Hoàng Liên Sơn, cũng lại chuyện chữ
nghĩa. Một cải tạo viên, vì buổi chiều lén ăn sắn sống, nên đang đêm bị đau
bụng, xách đèn chạy vội ra vọng gác, khá xa.
- Báo cáo cán bộ, tôi xin đi cầu.
Thằng vệ binh, giọng còn trẻ:
- Không được. Giờ này anh đi ra cầu nàm cái gì, có ý
đồ gì?
Anh bạn ta, Nam kỳ rặt:
- Hổng phải đâu, đi cầu là
đi ỉa đó. Lẹ lẹ giùm lên cán bộ, tui chịu hết nổi rồi...
- Không được, anh phải học
cách ăn cách lói cho đúng văn hóa, nghe chửa: tôi xin phép đi đại tiện.
Các anh toàn nà người có tú tài hai, tú tài ba mà không biết dùng chữ cho đúng
và nịch sự. Anh lói nại đi...
Bạn ta trả lời, cộc lốc:
- Thôi khỏi cần nữa. Xong rồi.
- Anh lói xong rồi nà xong cái gì?
Bạn ta đùng đùng nổi giận, la lớn, dường như
không sợ gì nữa:
- Là ỉa ướt quần rồi đó cha !. Không tin cha cứ trèo xuống mà hưởi. Đau bụng thấy mụ
nội mà cứ lèng èng quoài.
“Sự cố đột xuất” không mấy
thơm tho này, và sự hy sinh vĩ đại của bạn ta, hôm sau, đến tai quản giáo đội,
không ngờ lại có kết quả tốt, ngoài dự liệu. Theo lệnh trên, kể từ đêm đó, khi
cải tạo viên cầm đèn xin phép ra hố tiêu, nói kiểu nào, lính gác phải cho đi,
không hạch hỏi gì nữa.
7.
Một bữa, vác một bó nứa to
tổ chảng ở rừng về, tôi bị té xỉu, và được chuyển vào đội Rau Xanh của mấy ông
già lụ khụ, ốm yếu ho hen, loại sứt cán gãy gọng, và vì trẻ nhất tôi được chỉ
định làm trưởng tổ hốt phân, mỗi bữa ít nhất năm chuyến, đem giao cho một tổ
khác chế biến thành nước tưới rau, hoặc ủ thẳng trên các luống khoai. Trước khi
xuất quân, tên quản giáo lên lớp:
- Có bốn thứ phân:
phân bắc, phân chuồng, phân xanh. Các anh phải lấy ba thứ này cho đầy đủ chất
lượng. Còn phân đạm, hay u-rê là phân cao cấp, ta chưa dùng đến.
Phân chuồng (trâu bò)
và phân xanh (lá cây ngâm mục) thì ai cũng hiểu. Riêng phân bắc tên quản
giáo không cắt nghĩa. Một anh tổ viên, gốc Quảng, giơ tay hỏi:
- Thưa coáng bộ, còn
pheng béc là pheng chi?
Tên quản giáo nhìn anh chằm
chằm, rồi dằn từng tiếng:
- Có thế mà không
hiểu. Phân
bắc là phân tươi...
- Pheng tươi là pheng
chi, coáng bộ ?
- Là cứt chứ còn gì
nữa. Hỏi mãi.
Sau khi tên quản giáo đi,
một anh già trong đội lên tiếng cắt nghĩa :
- Mấy cha biết tại
sao tụi nó gọi cứt là phân bắc mà không là phân nam, phân trung
không?
- Làm sao biết được!
- Tại vì ở ngoài Bắc,
cứt quý như vàng, cho nên tụi nó giành lấy hết, cả trong chữ nghĩa tụi
nó cũng không chừa cho ai.
8.
Tại
trại Vĩnh Phú, tôi được Linh mục Trần Thanh Cao, cựu tuyên úy, giỏi nhạc, vui tính, có
quen biết ngoài đời, “chiếu cố” bốc về đội văn nghệ mới thành lập do ông
làm đội trưởng, để tỵ nạn lao động vài tháng, mặc dù tôi dốt đặc về ca nhạc
kịch. Nhân tài, cũng cỡ tôi, được biệt phái từ các đội. Ðội được lệnh trình
diễn giúp vui một phái đoàn thanh tra trung ương sắp đến thăm trại.
Cha
Cao cho tôi vào ban hợp ca, bè alto là bè hỗn tạp, ngang phè phè. Ông
khuyến khich các ca viên:
- Ăn sắn và hút thuốc lào mà hát như vậy là được rồi!
Một hôm trại phó đến thăm.
Ban hát đang tập một bài có nhắc Hồ Chí Minh và hang Pắc Pó, hay ao sen, ao cá
gì đó, do cha Cao đặt hòa âm thành bốn bè, mỗi bè tập riêng. Hắn chăm chú nghe ca sĩ bè alto của tôi
dượt, vui vẻ, rồi bỗng nhăn mặt, gọi cha Cao lại, giận dữ quát :
- Anh bôi bác Cách mạng đấy phỏng? Tên Bác kính yêu như thế mà... mà anh dám
đổi nà Hô, Hố, Hộ, Hổ như thế thì... thì nà anh nếu
náo thật!
Cha
phân trần, nhưng hắn gạt đi:
-
Bỏ, bỏ tất ! Bè với không bè !
9.
Một sĩ quan đồng tù kể: được thả về, anh hành nghề xe ôm. Nhờ bộ mã phi công
đẹp trai còn sót lại sau tám năm cải tạo, anh lọt vào mắt xanh của một em “cán
bộ gái” tại một cơ quan nọ, Bắc kỳ hai nút chánh hiệu.
Anh nóí:
- Tao tranh thủ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến lên chiếm mục tiêu
ngay. Vì lần đầu lụp chụp, tao khóc ngoài quan ải, nên thấy quê, mới rụt rè hỏi
nhỏ em, “em thấy thế nào?” -
Rồi em trả lời sao? tôi nôn nóng hỏi.
Anh bạn thở dài:
- Mẹ kiếp, còn đang ôm nhau, em bật ngồi dậy, nghiêm nét mặt, và lên lớp
y chang mấy thằng quản giáo của mình trước kia. Em bảo: "Cơ bản thì anh
làm tốt đấy, có chất lượng. Nhưng về mặt tiêu cực, em chưa thấy có ấn tượng sâu
sắc, anh chưa biểu hiện phấn đấu năng nổ để khống chế tốc độ. Rút kinh nghiệm,
lần sau, anh cần khắc phục sự cố tốt hơn" !!!...
Người Lính Già Oregon
Portland,
19/11/2011
Kính chào Bà/Cô Trầm-Vân ! (Vị chủ trang Blog này)
ReplyDeleteXin hỏi : Có cách nào để liên-lạc được với tác-giả "Người-Lính-Già-Oregon" được không à ? Nếu có thể, xin Bà/Cô Trầm-Vân, chuyển lời thắc-mắc, câu hỏi dưới đây đến Ông NLGO :
Quote NLGO : "Khi bị Tàu Cộng đánh cho tơi bời ở biên giới cuối thập niên 70 thì chúng chửi các “đồng chí anh em” là “bọn bành trướng Bắc Kinh”, “chủ nghĩa Xi-ô-nít (sionisme) xâm lược”."
Xin hỏi : Từ khi nào ? Chủ-nghĩa "Xi-ô-nít", Sionisme, có nghĩa là chủ-nghĩa "bành-trướng", và xâm-lược, lại có liên-hệ thế nào đó đến Bắc-Kinh ?!
Theo như các định-nghĩa thông-thường, đương dùng ngày nay, thì Sionisme hay còn viết với chữ Z là Zionisme, là chủ-nghĩa "dân-tộc" của người Do-Thái Israelites mà ! Thì có ăn-nhập, dính-dáng gì tới chủ-trương bành-trướng, xâm-lược của Bắc-Kinh ?!