“Con đường vạn dặm bắt đầu bằng một bước chân” – Lao Tzu
Đi hay ở là một câu hỏi đã ám ảnh nhiều người Việt, ít nhất hai thế hệ,
như một bi kịch của quốc gia, với nhiều hệ quả khôn lường. Phải rời bỏ
quê hương đất nước “di cư” tới một xứ sở khác là điều bất đắc dĩ. Các
cuộc di cư lớn thường do chiến tranh hay thay đổi chế độ chính trị.
Nhưng câu chuyện đáng nói ở đây không phải là về chuyện di cư thông
thường đã từng xảy ra trong lịch sử (như sau năm 1975), mà về hiện tượng
ra đi bất thường đang diễn ra hiện nay tại một số nước chuyên quyền
(như Trung Quốc và Việt Nam).
Có một cuốn sách nhỏ mà mỗi khi đọc lại người ta không khỏi liên tưởng
đến thực trạng đang diễn ra tại quốc gia, công ty, hay cơ quan của mình.
Đó là cuốn “Ra đi, Lên tiếng, và Trung thành” (Exit, Voice, and
Loyalty, Albert Hirschman, Harvard University Press, 1970). Một cuốn
sách hay nhưng dường như ít người đọc.
Trong bài này, chúng ta thử nhìn lại làn sóng di cư diễn ra tại Trung
Quốc và Việt Nam, như một hệ quả tất yếu của những bất ổn trong nước
(như phần nổi của tảng băng chìm). Dòng người và dòng tiền ra đi không
chỉ là bi kịch mà còn là thảm họa.
Bi kịch của Việt Nam
Thay đổi là bản chất của tạo hóa và xã hội. Không ai thoát được quy luật
“sinh, lão, bệnh, tử”. Nếu không thay đổi thì không thể phát triển, dẫn
đến diệt vong. Nhưng thay đổi cũng làm người ta lo sợ, nhất là khi đụng
chạm đến lợi ích và thói quen. Thái độ ứng xử của nhiều người trước
biến đổi của thời cuộc cũng khác nhau. Thường có 3 sự lựa chọn. Một là
ra đi (exit); Hai là lên tiếng (voice); và ba là trung thành (loyalty).
Trong ba sự lựa chọn đó, có lẽ trung thành để giữ nguyên trạng là dễ
nhất (vì an toàn hơn cả); Lên tiếng để thay đổi là khó nhất (vì phải
chấp nhận rủi ro); Ra đi tuy không khó bằng lên tiếng nhưng cũng phải
trả giá. Tuy nhiên, vấn đề không phải chỉ là chuyện ra đi, mà là ra đi
như thế nào, và ra đi vì lý do gì (chính đáng hay bất minh).
Hầu hết người Việt Nam ra đi lặng lẽ như một làn sóng ngầm (còn gọi là
“bỏ phiếu bằng chân”). Họ gồm ba nhóm đối tượng chính: Một là giới trí
thức (và sinh viên), hai là các doanh nhân (giàu có), ba là gia đình các
quan chức (thường là tham nhũng). Họ ra đi do nhiều nguyên nhân, nhưng
nguyên nhân chính thường do cảm giác bất an.
ĐBQH Trương Trọng Nghĩa bức xúc, “Tại sao trí thức giỏi không về nước
làm việc, doanh nhân giỏi muốn bỏ nước ra đi? Tại sao cán bộ về hưu hay
đương chức tìm cách cho con cháu mình ra định cư ở nước ngoài?” Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan bình luận, “Ai
cũng định cư ở nước ngoài cả thì đất nước này lấy ai xây dựng đây? Tôi
cho rằng nhân tố cảm thấy kém an toàn là nhân tố chính khiến người Việt
rời khỏi Việt Nam”. Bà Lan lý giải, “Khi họ có khoản thu nhập
không đàng hoàng thì họ có tâm lý nơm nớp sợ bị lộ nên phải tranh thủ
khi còn cơ hội, còn quyền lực thì cho con ra nước ngoài…”
Ví dụ, Nguyễn Thị Nguyệt Hường là một đại gia có tham vọng chính trị.
Vấn đề không phải vì bà Hường có tài sản và quốc tịch Malta (tương tự
như Panama hay Virgin Islands) vi phạm quy định của Quốc Hội nên bị bãi
miễn ĐBQH, mà còn vì mâu thuẫn lợi ích nhóm nên bị thanh trừng. Trường
hợp của chị Hường cũng giống trường hợp của doanh nhân Đặng Hoàng Yến và
Đặng Thành Tâm (Tập đoàn Tân Tạo). Đó là những đại gia gắn với nhóm lợi
ích, nên khi thất thế dễ bị thanh trừng, phải ra đi (Như bên Trung
Quốc)
Trương Đình Anh (đã từng là CEO của FPT) là một doanh nhân thành đạt, có
tài và có tiền, có thể đóng góp nhiều cho đất nước. Anh không bất đồng
chính kiến hay khó khăn gì về kinh tế. Những người như Anh ra đi là tổn
thất cho đất nước, như một chỉ dấu (indicator) về tình trạng “chảy máu
chất xám” (brain drain) và “thất thoát tài sản” “wealth drain”. Nhiều
người lo ngại sau Trương Đình Anh sẽ có nhiều người khác tương tự ra đi.
Theo số liệu của UN DESA, từ 1990 đến 2015 có 2.558.678 người Việt di cư
ra nước ngoài. Trung bình mỗi năm có 100 nghìn người di cư. Việt Nam
nằm trong top 10 quốc gia di cư nhiều nhất khu vực Đông Á – Thái Bình
Dương (tính đến 2013). Hầu hết người Việt di cư đến các nước phát triển,
trong đó đông nhất là Mỹ (1,3 triệu), Úc (227,3 nghìn), Canada (182,8
nghìn), Pháp (125,7 nghìn), Hàn Quốc (114 nghìn), Đức (113 nghìn). Tại
Đông Âu và một số nước châu Á (như Lào, Campuchia, Malaysia) mỗi nước có
khoảng 10.000 người. Trong năm 2015, có 2,67% công dân Viêt Nam sinh
sống tại nước ngoài.
Theo Kim Hạnh (cựu Tổng Biên tập báo Tuổi Trẻ và Sài Gòn Tiếp thị),
người Việt đang ra đi ngày càng nhiều (cùng với dòng vốn), trong đó có
nguồn nhân lực di cư theo loại visa EB-3 (có bằng cử nhân trở lên) và
loại visa EB-5 (doanh nhân có vốn đầu tư đáng kể). Mỗi năm chính phủ Mỹ
cấp hơn một trăm nghìn visa nhập cư, trong đó có khoảng 40 nghìn visa
thuộc loại EB-3. Đối với loại visa EB-5, năm 2014 chỉ có 6,418 trường
hợp định cư, đến năm 2015 con số này đã đã tăng vọt lên tới 17,662
trường hợp. Khoảng một năm lại đây, số người xin visa định cư tại các
nước phát triển đã tăng lên khoảng 30%.
Việt Nam có khoảng hơn 100 ngàn du học sinh ở 49 quốc gia, trong đó có
90% du học tự túc. Riêng tại Mỹ có 28.883 sinh viên, tại Úc có 28.524
(tính đến 10/2015). Việt Nam có khoảng 600 ngàn lao động làm ở nước
ngoài (gọi là “xuất khẩu lao động”). Hàng trăm ngàn phụ nữ Việt lấy
chồng ngoại quốc (gọi là “Cô dâu Việt”). Nhiều công ty khởi nghiệp của
giới trẻ có học thức trong lĩnh vực IT và kinh doanh về Internet đang
chạy qua Singapore. Trong khi đó một số nghệ sĩ Việt di cư hợp pháp sang
Mỹ qua kết hôn với Việt kiều có quốc tịch Mỹ (như Thu Phương, Trần Thu
Hà, Lam Trường, Bằng Kiều, Quang Dũng, v.v.).
Cách thức di cư của người Việt ngày càng đa dạng và phức tạp, quy mô di
cư ngày càng lớn. Người dân ra đi chủ yếu vì khủng hoảng lòng tin và môi
trường sống không an toàn (thực phẩm, môi trường, giáo dục, an ninh bất
ổn). Trí thức cảm thấy thiếu tự do dân chủ, tuyệt vọng và bất lực vì
đất nước chậm đổi mới và phát triển. Doanh nhân ra đi để “phân tán rủi
ro” (chân trong chân ngoài). Quan chức (tham nhũng) ra đi để bảo vệ tài
sản…
Một số doanh nghiệp lớn đang thoái vốn để tháo chạy. Năm 2015, tập đoàn
Kinh Đô đã bán 80% cổ phần cho Mondele’s International (Hoa Kỳ), tương
lai có thể thoái vốn tới 97%. Ông chủ Kinh Đô nói, “Khi Kinh Đô đã bán
cho nước ngoài, thì khó có doanh nghiệp Việt Nam nào có thể trụ lại
được.” Đợt thoái vốn tới sẽ là Vinamilk và FPT Telecom. Vinamilk được
khuyến cáo là sẵn sàng bán cho nước ngoài 100% cổ phần.
Theo số liệu của viện VEPR (quý I/2015), lượng tiền của người Việt gửi
ra nước ngoài đã tăng đột biến lên 7,3 tỷ USD. Trong vòng 5 năm
(2008-2013), số tiền từ Việt Nam đã chuyển ra nước ngoài là 33 tỷ USD
(Vũ Quang Việt). Theo hồ sơ Panama, 92 tỷ USD đã được chuyển phi pháp ra
khỏi Việt Nam (năm 2015 là hơn 9 tỷ). Đó là những con số thất thoát quá
lớn, trong bối cảnh ngân sách nhà nước thâm hụt quá nhiều do bội chi
ngân sách.
Bi kịch của Trung Quốc
Ngày càng nhiều người Trung Quốc “bỏ phiếu bằng chân”. Họ di cư khỏi
Trung Quốc với tài sản để định cư ở nước khác. Từ năm 1990 đến 2000,
trung bình mỗi năm có 143 nghìn người di cư. Từ năm 2000 đến 2010 con số
này tăng lên đến 418 nghìn người/năm. Từ 1993 đến 2015, tổng số dân di
cư đã tăng từ 4,1 triệu người lên 10 triệu người, trong đó có 2,02 triệu
người định cư tại Mỹ, 896 nghìn người tại Canada, 657 nghìn người tại
Hàn quốc, 655 nghìn người tại Nhật, 547 nghìn người tại Úc, và 457 nghìn
người tại Singapore.
Từ năm 1978 đến 2003 có 4.000 quan chức tham nhũng chạy trốn khỏi Trung
Quốc, đem theo hơn 50 tỷ USD. Từ giữa thập niên 1990 đến nay, có 18.000
quan chức tham nhũng chạy ra nước ngoài, đem theo 123 tỷ USD. Hầu hết họ
chạy sang các nước Phương Tây (như Mỹ, Canada, Úc, Hà Lan). Cơ quan an
ninh Trung Quốc cho biết có 150 tội phạm kinh tế đang sống tại Mỹ để
trốn tránh cáo buộc tham nhũng tại Trung Quốc.
Theo Hurun Report, có 64% số người giàu (có 1,6 triệu USD trở lên) đã
hoặc có ý định di cư khỏi Trung Quốc. Hiện nay có 1,2 triệu người sẵn
sàng ra đi. Người ta xác định có 149 người Trung Quốc siêu giàu, với tài
sản trên 1,6 tỷ USD. Danh sách siêu giàu này còn tăng thêm 150 người
nữa nếu tính cả “tài sản ngầm” của họ. Theo GFI Report, Trung Quốc đã
thất thoát mất 3,79 ngàn tỷ USD trong thời gian từ năm 2000 đến 2011.
Theo Bloomberg Intelligence, 1,4 nghìn tỷ USD đã chạy khỏi Trung Quốc
trong 10 năm qua (trung bình 140 tỷ/năm). Năm 2015, 1.000 tỷ USD đã chạy
khỏi Trung Quốc, tăng gấp 7 lần so với năm 2014 (là 134,3 tỷ). Đây là
do khủng hoảng lòng tin, khó lòng ngăn chặn nổi, dù Trung Quốc có xây
vạn lý trường thành xung quanh đất nước.
Năm 2004, chỉ có 16 người Trung Quốc nhận được visa loại EB-5 (13% tổng
số); Năm 2008 con số này tăng lên tới 360 người. Đến 2013, con số này đã
tăng vọt lên 6.895 người (chiếm 80% tổng số). Năm 2014, có 9.128 người
Trung Quốc nhận được visa EB-5 (chiếm 85% tổng số 10.692 visas EB-5 được
cấp). Người Trung Quốc chiếm 85% tổng số người xin visa EB-5 để đầu tư
vào Mỹ, chiếm 76% tổng số 59.000 người xin visa đầu tư vào Canada; chiếm
91% của 1.679 người xin visa đầu tư vào Úc (từ 2012 đến 2015).
Năm 2014, số sinh viên Trung Quốc đi học ở nước ngoài là 459.800 người,
trong đó 274.000 người học tại Mỹ. Tuy chính phủ Trung Quốc có chủ
trương khuyến khích vật chất như trả lương cao để họ trở về nước làm
việc, nhưng xu hướng “chảy máu chất xám” vẫn gia tăng. Trung Quốc vẫn
tiếp tục mất đi một tỷ lệ khá cao những sinh viên đi học nước ngoài
nhưng không về nước (tỷ lệ cao hơn hầu hết các nước khác).
Người giàu Trung Quốc không ủng hộ mà cũng không thách thức chế độ. Họ
chỉ muốn chuyển phần lớn tài sản ra nước ngoài rồi ra đi. Họ không giống
những người bất đồng chính kiến hay tị nạn chính trị. Thái độ ứng xử
của họ có thể thay đổi với lòng yêu nước hay chủ nghĩa dân tộc. Khi ra
đi dễ dàng thì họ lựa chọn ra đi, chứ không chọn lên tiếng. Họ sẽ lên
tiếng mạnh hơn nếu chính quyền cởi mở hơn cho phản biện và cải cách
Những người giàu có ở Trung Quốc được hưởng lợi lộc nhiều nhất từ sự
tăng trưởng kinh tế, nhưng họ lại bỏ đất nước ra đi, thay vì lên tiếng
phản biện và góp sức đổi mới đất nước. Một thập kỷ qua, việc họ ra đi đã
làm Trung Quốc thất thoát hàng nghìn tỷ USD và chảy máu chất xám nghiêm
trọng. Giới nhà giàu đã chuyển 458,3 tỷ USD ra khỏi Trung Quốc, trong
tổng số 5,45 ngàn tỷ USD tài sản của họ. Con số thất thoát này bằng 3%
GDP. Đây là một vấn nạn kinh tế, vừa “chảy máu chất xám” vừa “thất thoát
tài sản”.
Chính phủ Trung Quốc đang đứng trước nguy cơ khủng hoảng ngân sách
nghiêm trọng do hệ quả của sự ra đi ồ ạt của tầng lớp giàu có nhất, và
tiếng nói phản biện của tầng lớp trung lưu và lao động. Sức ép từ cả hai
phía có thể buộc Chính phủ phải cải cách thể chế một cách có ý nghĩa
như là sự lựa chọn duy nhất để tránh nguy cơ sụp đổ.
Theo các học giả, Trung Quốc đã hết lợi thế phát triển và đã “kịch
đường” (Paul Krugman). Kinh tế đang nguy khốn (in big trouble), tài
chính có thể phân rã (meltdown). Lợi thế dân số không còn (Gordon
Chang). Chủ nghĩa chuyên chế có sức sống đã hết thời (David Shambaugh).
Tỷ phú George Soros dự báo kinh tế Trung quốc sẽ “hạ cánh cứng” (hard
landing) có thể khủng hoảng như Nga (năm 2014). Trước đây Mỹ lo Trung
Quốc vượt mặt, nay lo Trung Quốc sụp đổ, gây sốc lớn cho kinh tế toàn
cầu, trong khi họ chưa sẵn sàng đối phó. (“When China Stumbles”, Paul
Krugman, New York Times, January 8, 2016).
Nghịch lý của “Mô hình Trung Quốc”
Sau khi Tập Cận Bình tập trung quyền lực tuyệt đối vào tay mình, ông ta
đã phục hồi những ý tưởng cực đoan của Mao Trạch Đông, như độc tài và
sùng bái cá nhân, tuyệt đối tuân thủ hệ tư tưởng, hành xử độc đoán. Đó
là sự kết hợp đầy nghịch lý giữa độc tài kiểu Mao với hiện đại hóa kiểu
Đặng. Tập nắm nhiều quyền lực còn hơn cả Mao và Đặng (nhưng không bắt
chước Đặng). Tập đề cao chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tăng cường kỷ luật
đảng, để duy trì ổn định chính trị (là ưu tiên hàng đầu), và để thực
hiện “Giấc mộng Trung Hoa”.
Vì vậy, Tập Cận Bình đòi hỏi tất cả phải trung thành tuyệt đối với Đảng,
với chế độ, và với cá nhân ông ta. Tập tăng cường đàn áp mọi sự chống
đối, kể cả xã hội dân sự, giám sát chặt chẽ giới trí thức, kiểm soát
khắt khe giới báo chí truyền thông, và chống lại mọi giá trị phổ quát
của phương Tây. Kể từ sau sự kiện Thiên An Môn, chưa bao giờ xã hội
Trung Quốc lại hà khắc như hiện nay, làm giới cải cách và dân chúng rất
bất bình.
Tập thậm chí không tin các ủy viên thường vụ Bộ Chính trị khác, mà chỉ
tin vào một nhóm trợ lý thân cận nhất như Vương Kỳ Sơn (trưởng ban Kiểm
tra Kỷ luật Trung ương – CCDI, phụ trách chống tham nhũng), Lật Chiến
Thư (chánh Văn phòng Trung ương – CCP, phụ trách nhân sự), Mạnh Kiến Trụ
(phụ trách Ủy Ban An ninh Quốc gia), Lý Thành (học giả, phụ trách lý
luận), và Vương Thiếu Quân (phụ trách an ninh riêng).
Ván cờ của Tập Cận bình phải dùng đến ý thức hệ để cai trị thực ra không
dựa trên sức mạnh đang lên mà bộc lộ thế yếu đang xuống (breaking down,
rather than building up). Chế độ Trung Cộng rất dễ đổ vỡ vì kinh tế
Trung Quốc đang suy thoái một cách đáng lo ngại, làm cho những người cải
cách bất bình và dân chúng nổi giận. Nói cách khác, những mưu toan của
Tập có thể tạo ra chính sự khủng hoảng mà Tập đang muốn tránh.
Tập đã phát động một cuộc vận động ý thức hệ rộng lớn, lợi dụng chủ
nghĩa dân tộc để che đậy những lỗ hổng của chế độ. Nhưng chủ nghĩa dân
tộc cực đoan cũng là con dao hai lưỡi, và chơi với ý thức hệ cũng nguy
hiểm như đùa với lửa. Xét cho cùng, Tập có thể bắt chước Mao, nhưng
không thể hóa thành Mao. Sự đàn áp dựa trên ý thức hệ không mang lại lời
giải nào cho các vấn đề của Trung Quốc, và không thể kéo dài mãi. Nước
cờ của Tập không phản ánh sức mạnh mà bộc lộ sự lúng túng, và thú nhận
sự mỏng manh của chế độ.
Theo Suisheng Zhao (“Xi Jinping’s Maoist Revival” Suisheng Zhao, Journal
of Democracy, July 2016), ngày 17/3/2013, Tập đề xướng chủ trương “ba
tin tưởng”: (1) lý luận về “Chủ nghĩa Xã hội mang màu sắc Trung Quốc,”
(2) con đường mà Trung Quốc theo đuổi, và (3) hệ thống chính trị mà
Trung Quốc” lựa chọn. Đây là câu trả lời của Tập cho “ba cuộc khủng
hoảng niềm tin” (chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Marx, và Đảng). Quan điểm
Maoist của Tập ngày càng cứng rắn, đe dọa sử dụng “chuyên chính vô sản”,
và tiến hành “đấu tranh giai cấp”. Tập đã vay mượn “cẩm nang của Mao”,
sử dụng những khẩu hiệu sặc mùi Maoist như “bảy điều đừng nói” để tránh
“các sai lầm lịch sử không thể sửa chữa được”, và kêu gọi cán bộ đảng
viên phải “tự thanh lọc, tự cải thiện, tự đổi mới…”
Về giáo dục, Tập kêu gọi phát huy “năng lượng tích cực” với một “thái độ
tươi sáng” đối với Đảng và nhà nước, biến các trường đại học thành “các
lò nghiên cứu Maxist”. Theo chủ trương đó, tháng 1/2015, Bộ trưởng giáo
dục Yuan Guiren (Viên Quý Nhân) đã đề xuất “hai củng cố”, nhằm hạn chế
việc sử dụng các nguồn học liệu của phương Tây trong nội dung giảng dậy,
để cảnh giác đối phó với “các rủi ro tư tưởng”.
Về truyền thông báo chí, Tập Cận Bình ép buộc các nhà báo phải ngừng phê
phán Đảng CSTQ, và kêu gọi họ “nói bằng một giọng” và “tường thuật tích
cực” để ủng hộ các chính sách của đảng. Trong bài phát biểu tại hội
nghị tuyên truyền (8/2013), Tập nói huỵch toẹt ra rằng các chính trị gia
phải “vận hành các báo”, và nhà báo phải trở thành “cái họng và cái
mồm” (the throat and the mouth) của Đảng.
Bắc Kinh nhấn mạnh khái niệm “chủ quyền không gian mạng” và cho rằng các
công nghệ truyền thông mới đang phá vỡ các ràng buộc không gian và thời
gian, làm mờ nhạt sự phân biệt giữa tác giả, nhà xuất bản, và công
chúng của thị trường tin tức. Khái niệm này hình dung ra một thế giới
mạng trong đó các nhà chức trách sẽ “tuần tra” các cuộc nói chuyện
online giống như tuần tra kiểm soát biên phòng.
Tháng 7/2015, Chính phủ đã thông qua dự luật an ninh mạng, theo đó sẽ
lập ra “các đồn cảnh sát an ninh mạng” để kiểm soát các website và các
hãng cung cấp dịch vụ Internet, nhằm “tóm cổ các hành vi phạm tội
online” càng sớm càng tốt. Một blogger Trung Quốc đã cảnh báo, “các
tường rào trong nhà tù thông tin Trung Quốc nơi sự ngu dốt nuôi dưỡng
các tư tưởng hận thù và đối kháng. Nếu bức tường lửa tồn tại vô hạn
định, Trung Quốc sẽ quay lại cái thời mà nó bị cô lập, thiển cận, hung
hăng, và bất ổn”.
Nhà sử học Xiao Gongqing gọi chính thể của Tập là “Neo-Authoritarianism
2.0”. Theo ông, “Chủ nghĩa Độc đoán Mới 2.0” là cần thiết nếu Trung Quốc
muốn tránh tai họa trong cuộc “trường chinh” tiến đến trật tự dân chủ
hóa. Xét cho cùng, Đảng là nạn nhân của thành công cũng như thất bại của
chính họ. Không có nước nào lại hiện đại hóa nhanh như Trung Quốc mà
không phải chịu các hệ quả xã hội to lớn như vậy.
Sự ổn định chính trị và sự sống còn của chế độ là mối quan tâm chủ yếu
của Tập Cận Bình, “Sự ổn định cao hơn mọi thứ”. Vì vậy, Tập quyết tâm
phải “bóp chết mọi yếu tố chống đối từ trong trứng nước”. Tập đã bị chỉ
trích không những bởi những người ủng hộ cải cách, mà còn bởi những
người cánh tả cấp tiến. Chế độ kiểm duyệt tăng lên cùng với mối lo về
khả năng quản lý sự bất mãn của dân chúng. Trong thời đại Internet, việc
khóa miệng sự bất mãn là hầu như không thể. Cái gậy hạn chế quyền tự do
trực tuyến có thể “đập lại lưng ông”, bằng việc gây thêm oán hận và mất
lòng tin. Đồng thời nó cũng kìm hãm sự phát triển của đất nước vì các
nhà khoa học và doanh nhân khó tiếp cận với các nguồn lực trực tuyến vốn
đã làm cho Internet trở thành tác nhân đổi mới và phát triển.
Sự lẫn lộn về lý luận được minh họa rõ ràng qua các giá trị XHCN cốt lõi
mà ban lãnh đạo của Tập đưa ra từ năm 2013 và được đăng tải khắp nơi ở
Trung Quốc. Nó bao gồm “sự thịnh vượng, dân chủ, văn minh, hài hòa, tự
do, bình đẳng, công lý, pháp quyền, chủ nghĩa yêu nước, cống hiến, chính
trực, hữu nghị…” Tóm lại đó là một danh sách gồm đủ các từ ngữ chắp vá
lộn xộn, chứ không bắt nguồn từ một tầm nhìn chính trị mạch lạc. Vì vậy,
“Chủ nghĩa Độc đoán Mới 2.0” có thể là sự kéo dài vô hạn chủ nghĩa độc
đoán, chứ không phải là sự chuẩn bị quá độ tiến đến cải cách dân chủ cho
quản trị quốc gia.
Theo Cheng Xiaonong (Chủ nghĩa Tư bản với Bản sắc Trung Quốc, Epoch
Times, 19/8/2016), Đảng CSTQ đã sử dụng kinh tế tư bản để tăng cường chế
độ độc tài. Đây là một điểm mấu chốt của “Mô hình Trung Quốc”. Chế độ
Trung Cộng đã bắt tay với hệ thống kinh tế Tư bản (từ thời Đặng Tiểu
Bình kêu gọi “mèo trắng, mèo đen, miễn là bắt được chuột”). Không những
Đảng CSTQ chấp nhận CNTB, mà hàng ngũ lãnh đạo Đảng còn tự mình trở
thành những nhà “tư bản đỏ” giàu có đầy quyền lực. Mô hình “Kinh tế Thị
trường theo Định hướng Xã hội Chủ nghĩa” của Việt Nam chỉ là bản sao của
“Mô hình Trung Quốc”.
Về cơ bản, giới “tư bản đỏ” đã thâu tóm tài sản thông qua tham ô, biển
thủ, chiếm đoạt bất hợp pháp các tài sản nhà nước, duy trì sự độc quyền
của các ngành quan trọng, và thao túng các chính sách để đạt được lợi
ích và duy trì chế độ độc tài của mình. Họ đã trở thành các doanh nhân,
chủ bất động sản và chủ sở hữu tài chính lớn. Quá trình tích lũy của họ
đầy đen tối và tội lỗi. Vì vậy, họ cần chế độ bảo vệ tài sản và cuộc
sống của mình. Họ cũng cần sự độc quyền của nhà nước để tiếp tục tích
lũy của cải nhiều hơn nữa.
Nhiều học giả phương Tây đã tưởng bở rằng sau quá trình tự do hóa kinh
tế, giới ‘tư bản đỏ” Trung Quốc sẽ tự nhiên chuyển đổi theo khuynh hướng
dân chủ và tự do. Thực tế quá trình chuyển đổi của Trung Quốc đã chứng
minh rằng suy nghĩ này không những rất ngây thơ mà còn sai lầm nghiêm
trọng. Giới “tư bản đỏ” có một vị thế chính trị tuyệt vời (không có cạnh
tranh) nên họ dễ dàng ngăn chặn quá trình dân chủ hóa, có thể dẫn đến
sự phá sản kinh tế và chính trị. Đây chính là bản chất của “Mô hình
Trung Quốc”.
Thay vì lên tiếng góp phần thúc đẩy quá trình dân chủ hóa tại Trung
Quốc, giới “tư bản đỏ” lại chuyển tài sản cá nhân của họ đến các nước
phương Tây, trong khi thu xếp cho các thành viên trong gia đình của mình
nhập cư vào các nước đó. Đây là một nghịch lý. Chính điều này chỉ ra
rằng tương lai của “Mô hình Trung Quốc” thực sự mỏng manh. “Mô hình
Trung Quốc” vừa mâu thuẫn với chủ nghĩa Mác, vừa trái ngược với nền dân
chủ. Trong tương lai gần, Đảng CSTQ không thể tránh khỏi một cuộc khủng
hoảng ý thức hệ. Bộ máy chuyên chính tuy có thể ngăn chặn được sự bùng
nổ (explosion) nhưng không ngăn ngừa được sự suy sụp (implosion). Tập
Cận Bình muốn tránh vết xe đổ của Liên Xô, nhưng không thoát được quy
luật lịch sử.
Lối thoát duy nhất là phải cải cách thể chế chính trị đã lỗi thời.
Thượng Tướng Lưu Á Châu (con rể cựu phó thủ tướng Lý Tiên Niệm, có nhiều
phát biểu gây tranh cãi) đã cả quyết, “Trong vòng 10 năm nữa, một cuộc
chuyển hình thái từ nền chính trị uy quyền sang nền chính trị dân chủ
chắc chắn sẽ phải xảy ra, Trung Quốc sẽ có một sự biến đổi to lớn. Cải
cách thể chế chính trị là sứ mệnh lịch sử trao cho, chúng ta không còn
có đường lùi”.
La Vũ (con trai của cố đại tướng La Thụy Khanh, là bạn thân của Tập Cận
Bình) đã đăng một loạt 10 bài viết công khai khuyến nghị với Tập Cận
Bình rằng lối thoát duy nhất của Trung Quốc là từng bước dân chủ hóa.
Ngày 19/6/2016, La Vũ đã cho đăng bài thứ 10 trong loạt bài với nhan đề
“Bàn bạc với chú em Tập”, trong đó La Vũ thẳng thắn vạch ra rằng chính
quyền Trung Quốc từ lâu không được lòng dân, “đến hôm nay, đã không còn
được lòng dân nữa“. La Vũ khuyên Tập, “Người dân sẽ không cho chú nhiều
thời gian nữa đâu“. Trong lá thư viết cho Tập, La Vũ đề xuất 5 điểm:
“xóa bỏ lệnh cấm báo chí; xóa bỏ các lệnh cấm của Đảng; có hệ thống tư
pháp độc lập; tuyển cử; quốc gia hóa quân đội”.
Dư luận Trung Quốc và thế giới đang quan tâm đến Hội nghị cơ mật Bắc Đới
Hà (8/2016). Trang mạng Weixin lan truyền tin Tập Cận Bình đề xướng “20
chinh sách cải cách chính trị-xã hội”. Không biết thực hư ra sao, nhưng
người dân Trung Quốc đang háo hức chờ mong. Ngày 18/7/2016, trang mạng
Mingjingnews.com đăng bài xã luận nhận xét: “Hội nghị Bắc Đới Hà lần
này sẽ là hội nghị căng thẳng nhất từ trước đến nay…”. Trang
Weixinqz.com cũng đưa tin: “Tập Cận Bình sắp tới sẽ có những tuyên bố về
chính sách cải cách to lớn, khiến cho cả thế giới phải kinh ngạc…” Đó
là Trung Quốc, còn Việt Nam?
Thay lời kết
Đáng lẽ phải “xoay trục” để thoát dần cái bóng Trung Quốc, thì Việt Nam
vẫn núp bóng ý thức hệ đã lỗi thời và bắt chước “Mô hình Trung Quốc, mà
không có tiềm lực kinh tế và quốc phòng đủ mạnh làm đối trọng để thoát
Trung. Ý thức hệ là cái bẫy làm Việt Nam bị mắc kẹt tại ngã ba đường,
nên bảo hoàng hơn cả vua, làm mất dần độc lập kinh tế và chủ quyền quốc
gia. Khái niệm trung với nước bị đánh tráo, trở thành trung với Đảng và
chế độ. Vì vậy, tiếng nói phản biện vì tương lai của dân tộc thường bị
coi là “phản động”.
Đã đến lúc người Việt phải thức tỉnh để đổi mới tư duy và thể chế, nhằm
thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc. Trước xu hướng người Việt đang đổ
xô di cư, cần có cách khuyến khích họ ở lại để chung tay chấn hưng đất
nước, khôi phục các giá trị cốt lõi của dân tộc. Tại sao người Miến Điện
và người Mông Cổ làm được mà người Việt Nam lại không? Aung San Suu
Kyu và Tsakhiagiin Elbegdorj đâu phải là siêu nhân từ trên trời rơi
xuống. Nhưng họ không bỏ nước ra đi vì lợi ích riêng, và cũng không chấp
nhận thực trạng độc tài của đất nước, mà kiên trì đấu tranh (bất bạo
động) để thay đổi vận mệnh của dân tộc họ.
Quyền tự do cư trú và di cư là quyền chính đáng của mọi công dân, là
chuyện bình thường của mọi xã hội. Nhưng hiện tượng nhiều người bỏ đất
nước ra đi ồ ạt như hiện nay tại Trung Quốc và Việt Nam là chuyện bất
bình thường. Nó phản ánh não trạng bất an của cộng đồng và thực trạng
bất ổn của đất nước. Tại sao người ta không ở lại để lên tiếng phản biện
và góp phần đổi mới thể chế và phát triển đất nước? Câu chuyện đi hay ở
không chỉ là bi kịch, mà còn là thảm họa quốc gia. Phải đổi mới thể chế
trước khi quá muôn.
Nguyễn Quang Dy
(Blog Kim Dung)
No comments:
Post a Comment