Ai đến Bạc Liêu mà chưa ăn món mì tàu thì coi như chưa biết gì về cái xứ
“Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu” này. Người Hoa quê quán Triều
Châu trôi dạt về mảnh đất cực Nam này từ thời phản Thanh phục Minh ở bên
Tàu, được nhà Nguyễn dung dưỡng và thâu nhận, sử dụng, phần lớn họ đã
coi Việt Nam như quê hương bản quán của mình, trong đó có nhiều người
tài hết lòng phụng sự quê hương mới như danh nhân Mạc Thiên Tích, danh
nhân Phan Thanh Giản. Cho nên không có gì lạ khi người miền Tây Nam bộ
có cách ăn uống giống với người Triều Châu bởi sự sinh hoạt hòa đồng
giữa người Việt bản địa và người Hoa Minh Hương.
Từ thời Pháp, hai dãy phố chợ ở Bạc Liêu đều là nơi người Hoa buôn bán
đủ thứ mặt hàng, quán ăn cũng tấp nập, cứ mười quán thì có đến chín quán
đề bảng hiệu hai thứ tiếng Hoa – Việt “Mì Gia”. “Mì gia” tức là tiệm ăn
bán mì, quán bán mì. Tuy nhiên, vô đó khách không phải chỉ có duy nhất
món mì, mà còn có món khác để ăn, ví dụ như hủ tiếu, hủ tiếu mì, giò
chéo quảy, bánh bò, bánh tiêu, cơm sườn, bánh mì xíu mại, bánh bao, xây
chừng (cà phê đen nóng), cà phê đá, hùn xà (tức hồng trà, trà chanh
nóng), trà đá…
Lúc này, nổi tiếng bán thức ăn ngon, đắt khách nhứt là Sừng Ký Mì
Gia, kế đến là An Lạc Viên Mì Gia. Người sành ăn bao giờ cũng kéo nhau
vô quán Sừng Ký trước, nếu quá đông khách không đủ chỗ ngồi mới chịu dạt
vô mấy quán khác. Quán có đủ loại khách từ tao nhân mặc khách “ngồi
thiền” bàn chuyện chánh trị lẫn chuyện phiếm trên trời dưới biển, uống
hết ly hùn xà này đến ly hùn xà khác, lẫn bác nông dân ghé vô ăn tô mì,
hủ tiếu cho có sức làm việc.
Chủ quán mì hầm một nồi nước súp to đùng từ xương heo, gan heo, thịt
heo nạc, lòng non heo, cật heo, thêm gia vị cho nước súp vừa ăn. Bỏ thêm
củ cải trắng để hầm cho ngọt nước và làm cho nước súp trong vắt nhìn
mới bắt thèm. Ngon hay không nhờ vô nồi nước súp này, vị ngọt từ xương,
thịt, vị mặn vừa phải, bay thơm phức nhờ hành tỏi phi vàng và ngò rí.
Xương cứ để hầm nhừ trong nồi trên ngọn lửa sôi nhẹ, khi nào khách ăn
kêu mua xương thì múc ra tô lớn cho khách. Thịt và lòng luộc thì vớt lên
treo trên giá cho ráo nước, lúc nào bán cho khách người bán mới lấy
xuống, dùng con dao thật là bén xắt miếng thịt, gan mỏng cỡ một li để
bán cho khách, lòng thì cắt khúc khoảng một phân. Tôm đất con lớn bằng
ngón tay út, cắt râu, cắt đuôi, để nguyên con nhúng bột gạo chiên giòn
để sẵn trong rỗ sắt trên bếp. Ðó là những thứ để cho vô tô mì.
Người miền Tây không ăn thìa là, mà ăn ngò rí, hình thức hơi khác
nhau tí chút, ngò rí giống y cây rau cần Tàu nhưng nhỏ xíu như que tăm
và cây kim may đồ, cũng thơm nức mũi gần giống thìa là.
Mì bán cho khách ăn cũng có hai loại, loại sợi dẹp bản lớn khoảng hai
li, loại sợi tròn nhỏ bằng cái tăm xỉa răng, cả hai đều là mì do người
Hoa làm. Tùy ý thích của khách mà kêu chủ quán làm mì sợi lớn hay sợi
nhỏ.
Trước tiên, người bán lấy một vắt mì cho vô cái vợt lưới sắt trụng vô
nồi nước sôi cho vắt mì mềm, sợi mì bung ra, xốc xốc mấy cái cho ráo
nước rồi đổ vô cái tô lớn. Múc một muỗng canh mỡ tỏi phi rưới vô tô mì,
lấy đôi đũa xốc cho mỡ tỏi thấm đều bóng mượt sợi mì, thêm một chút hắc
xì dầu vô xốc trộn cho đều rồi rắc lên một nhúm ngò rí xắt nhỏ, lấy
thịt, lòng xắt chỗ xếp lên trên, để thêm hai con tôm chiên giòn lên
trên. Nếu khách ăn mì khô thì như vậy là xong, bưng tô mì ra bàn cho
khách, múc ra thêm một chén lớn nước súp, trong chén súp cũng cho một ít
ngò rì, mỡ tỏi cho thơm. Trên bàn ăn đã có chỗ dĩa giá sống, ngò gai,
lá quế. Một cái khay nhỏ đựng chai nước mắm, hắc xì dầu, hũ ớt bằm ngâm
giấm, dĩa ớt sống bằm nhỏ hay ớt hiểm để nguyên trái. Khách tùy khẩu vị
mà lấy nêm nếm thêm vô tô mì của mình cho vừa miệng. Khách vừa dùng đũa
trộn gắp mì ăn, thỉnh thoảng lấy muỗng múc nước súp nóng hổi, thơm phức
húp một miếng, cảm thấy khoái trá vô cùng, ngon không gì bằng. Nếu khách
muốn ăn mì nước thì chan luôn một dá lớn nước súp vô tô mì, không cần
múc chén nước súp riêng.
Vô quán, vừa đặt đít xuống ghế, người bồi bàn chạy ra cung kính đứng trước mặt khách, tay cầm cái khăn lau bàn lau lau vội vàng qua lại vài cái cho khách thấy rằng anh ta quan tâm đến cái sự sạch sẽ cho khách ăn, dù trên bàn không có gì và cái khăn anh ta cầm trên tay thì màu sắc nhìn không được sạch sẽ, nhưng có lẽ do thói quen phục vụ khách của quán ăn Tàu là như vậy. Xong anh ta hỏi quý khách ăn gì? Lúc đó khách sẽ nói: “Cho một (hai, ba…) tô mì khô (hoặc nước) sợi lớn (hoặc nhỏ), có thêm xương (hoặc không thì không cần nói). Cà phê đá (hoặc trà đá, hùn xà…)”. Người bồi bàn nói: “Có ngay” rồi quay qua hướng người nấu mì gọi to lên: “Số 1 (2, 3… tức số bàn khách ngồi) mì khô sợi lớn, trà đá” rồi quay lưng đi.
Hủ tiếu mì tức là trụng trong một tô vừa có mì sợi vừa có sợi hủ
tiếu. Hủ tiếu làm bằng bột gạo, tráng trên miếng vải căng trên nồi nước
sôi, hấp vài phút cho chín rồi lấy miếng bánh ra để lên cái mâm lớn.
Trên cái mâm đã thoa chỗ dầu ăn phi hành lá xắt nhuyễn, cứ mỗi lớp bánh
lấy ra để lên lại thoa một lớp dầu ăn cho bánh không dính với nhau và
thơm. Ðược nhiều lớp bánh tráng thì lấy dao xắt thành sợi bề ngang
khoảng hai li. Cái này kêu là hủ tiếu tươi, vừa dai vừa mềm, vị ngọt và
béo.
Làm một tô hủ tiếu mì thì lấy nửa vắt mì, và cũng từng ấy hủ tiếu. Mì
cũng trụng mềm giống như ở trên nhưng hủ tiếu thì trụng sơ cho nóng là
được. Cho hết hủ tiếu mì vô tô, trộn mỡ tỏi phi, gia vị giống như trộn
mì. Hủ tiếu mì cũng làm hai loại khô và nước y chang món mì.
Nếu khách muốn ăn hủ tiếu thì không trụng mì mà trụng hủ tiếu thôi,
rồi cũng trộn, sắp thịt tôm, rau lên tô hủ tiếu, nước súp chan vô hoặc
múc ra chén là xong.
Hủ tiếu Bạc Liêu khác hủ tiếu Nam Vang ở chỗ không dùng mực khô nấu
nước súp, cũng không ăn thêm trứng cút khi ăn hủ tiếu. Sợi hủ tiếu Nam
Vang dẻo và trong vắt, sợi hủ tiếu tươi Bạc Liêu màu trắng đục của bột
gạo, mềm, dai và béo, không dẻo.
Ở Sài Gòn, muốn ăn mì Tàu phải chạy tuốt qua quận 5. Ăn chỗ khác cũng
để bảng hiệu mì Tàu, nhưng ăn vô không giống mì Tàu chút nào hết.
Có lần người quen mời bọn tôi vô quán ăn ở Nam Cali, thấy thực đơn có
món mì Tàu khô, lâu ngày không ăn nên mừng quá tôi kêu ngay tô mì khô.
Tới hồi bưng ra nhìn bày biện màu mè cũng giống, bắt mắt lắm, mà ăn vô
mới ứ hự nuốt không trôi. Chẳng lẽ người ta mời mình mà lỡ kêu rồi chê
không ăn nữa. Tự mình kêu chớ có ai ép bắt ăn món đó đâu, đành cố gắng
nuốt được nửa tô thì không còn nhồi nhét nổi bởi quá dở, không ra mì Tàu
chút nào hết. Quán này nhìn thì sang trọng, lịch sự, song khi ăn hối
hận quá chừng. Lúc đó tôi mới qua Mỹ nên không còn nhớ tên và địa chỉ nó
ở đâu. Ai tò mò muốn biết nó kinh dị cỡ nào thì phải hỏi nhà báo Ðinh
Quang Anh Thái. Hôm đó ổng cũng là “đồng nạn nhân” với tôi ở đó.
Tạ Phong Tần
No comments:
Post a Comment