Trước
ngày 30 tháng tư 1975, trong cơn sốt di tản, tôi chen lấn đẩy được vợ con lên
trực thăng. Thằng Mỹ đen thòng người xuống, vừa kéo tôi lên vừa la
lớn cho đồng bọn : ‘’Bốc lên! Bốc nhanh lên! Đầy ứ rồi!‘’ Chân tôi vừa chạm sàn
trực thăng thì vợ tôi làm rớt cái xắc da xuống đám ngừơi đang xô đẩy nhau phía
dưới. Như cái máy, tôi phóng xuống theo ! Khi tôi giành giựt lại được
cái xắc thì chiếc trực thăng đã bay đi xa. Tôi ôm cứng cái xắc trứơc ngực,
hổn hển nhìn theo mà nghe chết điếng trong lòng…
Nhờ bị rớt
lại như vậy mà tôi còn giữ được nhà cửa xe cộ. Bởi vì những nhà khác -nhà
những người đã di tản- đều bị đồng bào hôi của, rồi sau đó là bị Nhà Nước
cách mạng tiếp thu. Cũng là một hình thức hôi của, nhưng… cao cấp
hơn !
Rồi nhờ
cái xắc của vợ tôi với mớ nữ trang và đô la mà tôi làm lại cuộc đời chẳng khó
khăng gì mấy.
Hồi thời
trước, tôi làm chuyên viên điện toán cho một hãng xuất nhập cảng lớn ở chợ cũ.
Bây giờ, sau thời gian đi hội họp học tập để nghe cán bộ phát biểu dong dài với
những từ ngữ lạ hoắc, nghe… ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm, vậy mà
tôi cũng hiểu trắng được rằng cách mạng là đổi đời và hiểu ngầm rằng: muốn sống
trong chế độ mới mình phải lột cái xác cũ ra chôn giấu đi, và muốn sống
yên ổn trong thời buổi này, mình phải biết làm… thợ lặn, nghĩa
là đừng có trồi đầu ra cho thiên hạ để ý, nhứt là chánh quyền. Vậy
là tôi quyết định đổi nghề: tôi đem gia đình thằng Sáu, đứa cháu kêu tôi bằng
bác, về cư ngụ với tôi, rồi chúng tôi lập Tổ May Thêu. Chạy vòng ngoài là
thằng Sáu với chức tổ phó; tổ viên là vợ và hai đứa con gái của nó, cộng
thêm hai người chị vợ nó; còn tôi thì làm tổ trưởng, nghĩa là ngồi không
uống trà, hút thuốc, ký tên, đi họp…
Sau tháng
tư năm 1975, không phải chỉ có mình tôi đổi nghề. Phần đông người dân miền
Nam đều đổi nghề, nhứt là ở các đô thị. Chẳng ai bảo ai, cũng
chẳng thấy ai khuyên ai, họ tự động đổi nghề một cách tự nhiên và đều khắp,
giống như theo một thời trang đổi kiểu áo quần! Và cũng chẵng có một mải mai mặc
cảm. Cho nên thấy giáo sư đi đạp xích lô, thấy thầy giáo đi làm thợ
hồ, thấy lơ xe đò là thợ bạc hồi thời trước, thấy chị bán nước mía là cựu
nhân viên ngân hàng… v. v. kể không hết. Và cái nghề được nhiều người chọn
nhứt là nghề mở quán cà-phê vỉa hè! Dễ quá! Chỉ cần đặt trước nhà mấy cái bàn mấy
cái ghế… vậy là thành quán! Cho nên thấy đường nào cũng có, xóm nào
cũng có, xó xỉnh nào cũng có. Nhiều khi hàng quán nằm khích nhau một
dọc, vậy mà chẳng thấy ai phàn nàn ai! Làm như trong cuộc đổi đời vĩ đại này,
người dân miền Nam dễ thông cảm với nhau hơn hồi trước!
Sau cách
mạng, có những nghề bỗng nhiên biến mất trong sanh hoạt hằng ngày. Điển
hình nhứt là nghề coi tay coi tướng và nghề đấm bóp (cũng gọi là tẩm quất). Có
người… ác ý nói rằng cách mạng rất sợ bị lộ chân tướng nên mấy thầy tướng
số đều bị ‘’ đì ‘’hết, còn tẩm quất là nghề… chuyên chính của
Đảng và Nhà Nước, họ giữ độc quyền dùng nó để đần những phần tử xét lại
hay phản động đã bị họ bắt nhốt… thì sức mấy mà người dân được hành nghề
này!
Một tối đó, trong khi tòn ten trên võng hút thuốc sau bữa cơm, tôi bỗng nghe tiếng rẹt rẹt rẹt từ đằng xa. Đó là tiếng của những nút khoén đập dẹp xõ xâu mà mấy ông tẩm quất vừa đi vừa lắc để… rao hàng. Ngạc nhiên, tôi nhỏm dậy lắng tai nghe. Đúng rồi !Đúng là tiếng lắc nút khoén của ông tẩm quất. Hồi thời trước, ông tẩm quất xóm tôi thường đi lắc như vậy đêm đêm. Và ổng đấm lưng tôi đều đặn mỗi tháng hai lần. Sau giải phóng, không nghe ổng lắc rẹt rẹt nữa. Tôi nghĩ chắc ổng cũng đã đổi nghề như thiên hạ. Nào dè…
Tôi vui mừng
bước nhanh ra cổng, gọi : ‘’Đấm bóp! Đấm bóp!‘’. Có tiếng dạ từ đàng xa,
rồi một người đạp xe lại. Thì ra không phải ông tẩm quất mà tôi quen. Người này
cũng trộng tuổi như ông kia, cũng gầy gầy như ông kia, nhưng cao lớn
hơn nhiều. Ổng mặc sơ-mi ngắn tay và quần sọt, đeo ngang hông một
túi vải nhỏ. Lỡ gọi rồi, tôi đành mở cổng cho ổng vào mà phân vân tự
hỏi : ‘’Không biết ông này ở đâu ra? Nhứt là trong thời buổi mà thiên hạ chạy
ăn hằng bữa, ai đâu mà đưa lưng cho ổng đấm? Với lại không biết ổng thiệt
có nghề đấm bóp hay là thứ… ba trợn để kiếm cơm? Bởi vì bây giờ cái
thứ đó cũng đông lắm!‘’
Vào
nhà, tôi gọi mấy đứa nhỏ trải một chiếc chiếu ở hàng ba rồi tôi tự động nằm
xuống đó sau khi cởi quần áo ngoài chỉ còn mặc cái quần đùi. Ông đấm
bóp bỏ đôi giép nhựt ở tam cấp, bước vào nhà nhìn quanh rồi nói : ’’Xin
phép cho tôi cởi áo‘’. Không đợi trả lời, ông cởi áo sơ-mi máng lên đầu
võng, để lộ trên người chiếc áo thung ba lỗ đã ngã màu vàng và lủng rách
nhiều nơi. Ông ngồi xuống cạnh tôi, lấy trong túi vải chai dầu mở nút
trút vào lòng tay, nhìn tôi mỉm cười: ’’Ông nằm sắp xuống‘’. Tôi làm theo
như cái máy. Tôi nghe hai bàn tay vừa to vừa ấm của ông thoa dầu từ trên ót
trên cổ tôi xuống lần hai vai, rồi lưng, để cuối cùng vuốt dài theo hai cánh
tay nằm dọc theo hông… mà tưởng chừng như vừa được trùm lên người một làn
hơi nóng vừa êm vừa mõng !
Lối đấm của
ông ta không giống lối đấm của ông mà tôi quen. Kỹ thuật của ông hồi đó
đúng là đấm, nghĩa là hai bàn tay cứ đều đặn xuống lên, khi nắm lại thì có tiếng
bóc bóc, khi xòe ra thì có tiếng bụp bụp. Và cứ như vậy, hết lưng
là đến chân đến tay. Còn ông mới này thì khác hẳn. Ổng… âm thầm hơn và đi
sâu hơn. Ổng mằn từng khớp xương, từng thớ thịt, ổng mò dài theo các đường
gân tay gân chân. Mấy đầu ngón tay của ổng đi tới đâu là mình nghe…
rã rời tới đó! Thật là kỳ diệu! Tôi phục ổng quá!
Sau khi
làm xong, ổng xin một ly nước, uống, lảnh tiền, cám ơn, rồi lẳng lặng dẫn
xe đạp đi ra. Tôi hỏi với theo: ‘’Tuần sau, cũng vào giờ này, ông lại đấm tôi
được không?‘’. Ổng nói ‘dạ được‘ rồi đi thẳng. Tiếng rẹt rẹt của xâu nút khoén
lại vang lên xa xa… Tôi nằm tơ lơ mơ, nghe âm thanh rẹt rẹt mà tưởng chừng
như thời cũ vẫn còn nguyên đây đó, cái thời mà cuộc sống còn mang nhiều
thi vị, kể cả những thi vị thật nhỏ nhoi tầm thường.
Tuần sau,
ông đấm bóp trở lại. Ổng không bấm chuông. Ổng đứng ngoài cổng lắc
xâu nút khoén rẹt rẹt, rẹt rẹt, giống như một… ám hiệu! Đã được dặn
trước nên người nhà chạy ra mở cổng. Ổng vào nhà, gật đầu chào tôi rồi tuần
tự làm y như tuần rồi. Thấy ổng có tay nghề ‘’cao cấp‘’ -nói theo từ ngữ
bây giờ- mà không bô bô vừa làm vừa nói như ông cũ, tôi càng có cảm tình
với con người trầm lặng đó. Nên tôi mở lời:
– Ông làm
nghề này lâu chưa?
– Dạ…
sau giải phóng.
– Sao tôi
không nghe ông lắc ở xóm này vậy?
– Dạ…
tôi ít đi lắc lắm. Tôi làm cho khách quen không hà. Hôm rồi nhơn làm cho
ông khách ở gần đây, tôi lắc cầu may nên mới gặp ông đó chớ.
– Hồi thời
trước, ông làm nghề gì ?
Ổng ‘ dạ
‘ rồi nín thinh. Tôi biết ổng không muốn nói, nên cũng không hỏi tiếp.
Lần này,
sau khi trả tiền, tôi hỏi, giọng thân mật:
– Ông thứ
mấy?
– Dạ…
thứ Sáu.
– Ông chắc
lớn hơn tôi cở bảy tám tuổi. Vậy cho tôi gọi ông bằng anh Sáu được không?
Ổng nhìn
tôi, chớp chớp mắt:
– Dạ được
chớ.
– Vậy tuần
sau, cũng ngày này giờ này, nghe anh Sáu.
Ổng “Dạ”,
gật đầu chào tôi rồi dẫn xe đạp đi ra.
Tuần sau,
ổng lại đến. Lần này, chính tôi niềm nở mở cổng. Tôi bắt tay ổng:
– Mạnh hả
anh Sáu?
– Dạ mạnh.
Vào
nhà, lại tuần tự “xin phép, cởi áo, ngồi xuống, xoa dầu”… Nhưng lần
này, sau khi rờ lưng tôi, ổng nói:
– Hơi cảm
hả thầy Hai?
Tôi ngạc
nhiên, vì hai tiếng “thầy Hai” thì ít mà vì chỗ ông Sáu biết tôi đang cảm thì
nhiều:
– Sao anh
biết ?
– Nghề mà
thầy Hai. Lưng thầy lạnh ngắt đây nè!
Rồi ổng
tiếp, giọng đầy tự tin:
– Nhưng
không sao đâu, thầy Hai yên tâm. Tôi làm một chút là thầy thấy khoẻ hà.
Thấy lần
này ổng cởi mở hơn, nên tôi tiếp tục… đẩy đưa:
– Anh học
nghề này ở đâu vậy, anh Sáu?
– Tôi học
với một ông thầy Tàu ở Bình Hòa.
Ngừng một
chút như để suy nghĩ, rồi ổng nói tiếp, trong lúc hai bàn tay vẫn đều đặn làm
việc:
– Thiệt
ra ông thầy tôi chuyên dạy võ.
– Ủa ? Rồi
sao có vụ dạy tẩm quất?
Im lặng một
chút rồi ổng mới nói, sau khi cười nghe cái khịt:
– Hồi đó,
lâu rồi, tôi tới thọ giáo với ổng, ổng nắn tay nắn chân tôi rồi mới nói :
“Tao dạy võ cho mày không lấy tiền với điều kiện là mày đấm lưng cho tao mỗi tuần
một lần, mày chịu hông?“. Tôi trả lời chịu nhưng tôi không biết đấm lưng.
Vậy là ổng dạy tôi đấm lưng!
Nói
xong, ông Sáu cười nhè nhẹ mấy tiếng. Tôi biết ổng đang sống lại với những
kỹ niệm nên tôi “khơi“ luôn:
– Mà tại
sao anh Sáu phải đi học võ vậy?
Ổng ngập
ngừng một chút rồi mới nói:
– Tại hồi
đó tôi muốn đóng vai Tiết Nhơn Quí!
Ba tiếng
“Tiết Nhơn Quí“ làm tôi nhớ lại bà già vợ tôi hồi thời trước hay đi coi hát bội
và bà thích nhứt nhân vật Tiết Nhơn Quí. Bà thường nói “Đóng vai Tiết
Nhơn Quí, không ai hay bằng kép Sáu Thanh hết! Thằng đó múa thiên phương
họa kích như thần. Còn khi nó gặp lại Dương Mậu Sanh, nó khóc như thiệt vậy,
hay không chỗ nói!“ Tiết Nhơn Quí… Cây Thiên Phương Họa Kích… Kép Sáu Thanh…
Ông già đấm bóp thứ Sáu… Tôi xoay người lại hỏi:
– Vậy anh
Sáu là kép Sáu Thanh phải không?
Gương mặt
già nua đó bỗng nhăn lại vì xúc động. Ổng nuốt nước miếng mấy lần mới nói
được:
– Dạ phải.
– Hồi đó
bà già vợ tôi mê anh lắm. Bả cứ nhắc hoài lúc Tiết Nhơn Quí gặp lại nghĩa
huynh Dương Mậu Sanh. Anh đóng hay đến nỗi khán giả ai cũng sụt sùi khóc hết.
Ông Sáu
im lặng, chớp mắt thật nhanh rồi nhìn đi nơi khác. Ổng nhìn ra sân, ổng nhìn ra
cổng. Ở đó, tôi không có vặn đèn khi đêm xuống như thời cũ -phải
làm giống thiên hạ để đừng ai để ý- nên bóng tối dăng đầy. Tôi biết:
trong vùng tối đó, ông Sáu đang nhìn thấy lại ánh sáng huy hoàng của thuở mà
trong vai Tiết Nhơn Quí ông đã làm rung động biết bao nhiêu khán giả đêm đêm…
Một lúc
sau, ông Sáu mới nói, giọng trầm tĩnh:
– Thầy
Hai nằm xuống đi, để tôi làm tiếp.
Bây giờ,
mấy đầu ngón tay của ổng “đi“ thật chậm nhưng thật sâu. Làm như ổng đang
tiếp tục mò mẫm để tìm lại những kỷ niệm vụn vặt mà cơn lốc cách mạng 1975 đã bất
thần thổi tung đi mất. Tôi bỗng nghe thương hại ông Sáu vô cùng…
Tôi xin mở
dấu ngoặc ở đây để viết vài hàng về nhân vật Tiết Nhơn Quí. Tôi chỉ nhớ đại
khái nhưng chắc cũng đủ để cảm thông sự xúc động của anh Kép tài danh Sáu
Thanh, bây giờ là ông già đang ngồi đấm lưng tôi trong im lặng…
Tiết Nhơn
Quí nhà nghèo, nhưng có sức mạnh hơn người. Một mình anh ta kéo
khúc gỗ mà mười người kéo không nổi ! Và anh ta ăn uống cũng bạo lắm: mỗi bữa
cơm, anh ta ăn bằng mười người ăn ! Vì nhà nghèo nên thường xuyên Tiết
Nhơn Quí ăn không đủ no, mặc không đủ ấm.
Trong
làng, có Dương Mậu Sanh là nhà có tiền và tánh tình rất hào phóng. Biết
tình cảnh của Tiết Nhơn Quí, Dương Mậu Sanh bèn đem về nuôi và kết nghĩa
anh em. Nhờ được ăn uống đầy đủ nên Tiết Nhơn Quí, ngoài việc giúp đỡ
nghĩa huynh trong công tác nặng nhọc, hàng ngày luyện tập võ nghệ với cây thiên
phương họa kích đến trình độ mà khi tung lên là “lá rụng cát bay“…
Tiết Nhơn
Quí ăn đến… người nghĩa huynh bị sạt nghiệp !
Một hôm,
nhân đánh đuổi Cáp Tô Văn và cứu được Lý Thế Vân nên được vị này thâu dụng dưới
trướng. Rồi từ đó Tiết Nhơn Quí theo phò Lý Thế Vân đánh đông đánh tây
bao nhiêu năm mới dựng nên cơ đồ cho ông này lên làm vua. Lúc đó Tiết
Nhơn Quí đã trở thành một vị nguyên soái lừng danh thiên hạ.
Thời gian
sau, nhân chuyến viễn chinh qua làng cũ, Tiết Nhơn Quí cho hạ trại ở đây
rồi truyền lịnh tướng tá đi mời Dương Mậu Sanh. Ông này bây giờ nghèo xác xơ,
nghe nguyên soái cho vời mình thì không biết làm sao, vì không tiền mua lễ vật
để ra mắt nguyên soái. Cuối cùng ông đành làm liều: ông lấy hai cái hũ đổ
đầy nước, đóng nút rồi bịt lại bằng mấy lần vải đỏ, xong ông xin một ít
rượu rưới lên đầu hũ cho có mùi. Như vậy, người ta sẽ nghĩ là hai hũ rượu,
và như vậy khi tiếp vị nghĩa huynh, nguyên soái sẽ không bị mất mặt với
những người dưới trướng.
Được
thông báo, Tiết Nhơn Quí vội vã bước ra đón người anh kết nghĩa đã nuôi mình
trong lúc cơ hàn mà bao nhiêu năm dài bận chuyện quân binh mình không về thăm
được. Dương Mậu Sanh đặt hai hũ rượu giả lên bàn, vòng tay cố gắng lắm mới
nói được mấy lời: “Thưa nguyên soái, tôi xin có chút lễ mọn để ra mắt nguyên
soái… “Nhìn bộ quần áo trên người Dương Mậu Sanh, Tiết Nhơn Quí hiểu ngay tình
cảnh của người anh kết nghĩa. Ông ôm lấy nghĩa huynh, xúc động: “Dương huynh
lúc nào cũng tốt với tiểu đệ. Ơn xưa biết bao giờ đệ trả cho xong mà bây giờ
còn cho đệ rượu để mừng tái ngộ. Thì đệ xin uống cho huynh vui“. Nói xong, Tiết
Nhơn Quí bưng lên một hũ, mở nút uống ực ực mà trào nước mắt. Xong, nói lớn
cho mọi người trong trướng đều nghe: “Ngon! Ngon quá! Rượu của nghĩa huynh ta
ngon quá! Cay quá! Làm ta chảy nước mắt“. Rồi truyền lịnh: “Rượu của nghĩa
huynh ta tặng cho ta, vừa ngon vừa quí. Đứa nào rớ vào là ta chém đầu. Nghe
chưa?“ Rồi tự tay xách hai hũ rượu một cách trịnh trọng đem vào trong cất kỹ.
***
Ông Sáu
im lặng làm lưng tôi một lúc, bỗng nói:
– Hồi đó,
lúc nào diễn đến lớp Tiết Nhơn Quí uống rượu giả của Dương Mậu Sanh, tôi cũng
xúc động nên khóc thiệt. Khán giả nghĩ rằng tôi khóc giả mà như thiệt nên khen
quá chừng. Có nhiều người liệng tiền lên sân khấu cho nữa, thầy Hai à!
– Rồi tại
sao anh Sáu không đi hát nữa vậy?
– Mấy
ngày đầu tháng tư 75, ông bầu rã gánh, vì đâu còn hát hò gì nữa. Lúc đó tụi này
vẫn “trụ“ ở đình Thanh Nguơn là nơi mà tụi này hát thường xuyên. Đào kép nhạc
công bỏ đi tứ tán. Còn lại ở đình có anh Ba thợ đèn, anh Tư Rưa người thủ vai
Dương Mậu Sanh và tôi. Tụi này ở chùm nhum với nhau như vậy tới ngày giải
phóng.
Ngừng một
chút, rồi không đợi tôi hỏi, ông nói tiếp, giống như ổng đang quây lại một
cuồn phim:
– Rồi họ
đến đuổi tụi tôi ra, lấy đình làm hội trường. Anh Ba và anh Tư đưa vợ con
về quê. Còn lại mình tôi không vợ không con nên cũng dễ. Tôi đổ lỳ, “bám trụ“.
Cuối cùng họ để tôi ở cái nhà xép phía sau đình nhưng bắt tôi làm gác dan cho họ
luôn! Rồi bởi vì họ không trả lương nên tôi phải đi đấm bóp để sống.
– Bộ bây
giờ người ta cũng kêu đấm bóp như hồi xưa, hả anh Sáu?
– Đâu có!
Người như thầy Hai đây hiếm lắm. Chỉ có cán bộ là thích ba cái vụ này thôi.
Bây giờ bọn đó mới có tiền. Tiền… “chùa” mà thầy Hai! Tôi nói bao nhiêu là họ
đưa bấy nhiêu, không thắc mắc gì hết. Cho nên khách của tôi phần đông là cán bộ…
Tôi bật
cười:
– Vậy là
anh phục vụ tốt chế độ rồi anh Sáu!
– Đâu có
thầy Hai! Thầy không biết chớ khi tôi làm lưng cho họ tôi đâu có làm theo bài bản
như tôi làm cho thầy Hai đây. Tôi dằn vật họ như một con thú. Tôi làm cho đã nư
mà. Tôi làm lưng họ mà nghĩ như tôi đang rửa nhục vậy. Cho nên tôi cứ bẻ tay bẻ
chân, rồi tôi vặn đầu vặn cổ. Tôi dẵm lên lưng dẵm lên đầu. Càng làm, tôi càng
nghe hả dạ. Vậy mà họ khen ngón nghề của tôi có “trình độ cao“! Cái thứ dốt mà
thầy Hai!
Ngừng một
chút rồi tiếp:
– Thầy
Hai biết không, nói nghe khùng chớ nhiều khi tôi ao ước được biến thành Tiết
Nhơn Quí thiệt, với trùng trùng binh mã trong tay như thuở đi chinh Đông, để
tôi quét sạch bọn vô thần này một phát!
Ổng nói
mà hai tay ổng vẫn mằn mò đầu gân thớ thịt của hai chân tôi. Theo tuần tự lớp
lang thì ổng đang ở phần cuối của cữ đấm. Bỗng ông Sáu thở dài:
– Coi vậy
chớ lâu lâu tôi vẫn nhớ sân khấu, nhớ tuồng nhớ tích. Tôi thủ vai Tiết
Nhơn Quí gần hai mươi năm mà thầy Hai. Nó thấm trong xương trong máu lận. Dễ gì
quên?
Rồi ổng
chép miệng, cay đắng:
– Hồi đó,
có bao giờ tôi nghĩ rằng tôi sẽ tuột xuống đi đấm bóp như bây giờ đâu, thầy
Hai.
– Đổi đời
mà anh Sáu. Đều trời hết chớ bộ !
Tôi nghe ổng
khịt mũi rồi lầm bầm: “Hừ! Đổi đời! Đổi đời! Mẹ bà nó!“ Tôi biết đã đến lúc tôi
nên làm thinh để đừng khơi lại một vết thương nào khác nữa…
… Ông Sáu
trở lại đấm cho tôi được hai lần. Đến kỳ hẹn sau, ổng không tới. Tôi nghĩ
có lẽ ổng bịnh. Tôi đợi thêm một tuần. Cũng không thấy ổng tới. Thắc mắc, tôi đạp
xe lại xóm đình Thanh Nguơn hỏi thăm mới biết là ông Sáu đã bị bắt. Người ta
nói chánh quyền nghi ổng có ý đồ gì đó bởi vì theo dõi thì “phát hiện“ đêm nào ổng
cũng “lê la“ ở nhà các cán bộ!
Trên đường
về nhà, tôi miên man nghĩ: “Tiết Nhơn Quí trước sau như một, có ở tù, có
bị chúng nó tẩm quất… chắc con người đó không bao giờ thay đổi. Và tôi lại
nghĩ: bọn… ’đỉnh cao trí tuệ’ này không tình không nghĩa, hữu thủy vô chung, tiền
hậu bất nhứt. . . thì làm gì biết được Tiết Nhơn Quí là ai?“.
Tiểu Tử
Chuyện Tiểu Tử rất hay và châm biếm. NgànThu rất thích đọc chuyện ông viết!
ReplyDeleteTrông cho ông Tiết Nhơn Quý đó có thể bẻ tay bẻ chân bọn cán bộ cho nó què quặt hết đi!
NT