Vài năm trước nước Mỹ bỗng dưng có một dạo ồn ào tranh luận về một tình
trạng sức khoẻ công cộng – lạ thì không lạ nhưng lần đầu tiên người ta bàn tới
một cách nghiêm chỉnh – sau khi vị Tổng Y sĩ lúc ấy là Vivek Murthy đã lên tiếng
cảnh báo rằng tình trạng này đang trở thành một dịch bệnh ở Mỹ: bệnh cô đơn. Và
không chỉ nước Mỹ mới lo lắng về điều này mà luôn cả Thủ tướng Theresa May của
nước Anh lúc ấy cũng đã bổ nhiệm một vị bộ trưởng đầu tiên để lo giải quyết vấn
đề bệnh cô đơn trong nước.
Trong khi căn bệnh này thường liên quan đến người lớn tuổi – là những ông
bà già sống một mình thui thủi không có ai để trò chuyện trong nhiều ngày và cũng
là câu chuyện hay được nhắc tới trong những cuộc bàn luận về cuộc khủng hoảng sức
khoẻ trên – thì trên thực tế không có một nhóm tuổi nào được đặc miễn khi nói đến
cô đơn. Kết quả một cuộc nghiên cứu cho thấy một điều đáng lo ngại là những người
trẻ trưởng thành có thể là những người Mỹ cô đơn nhất.
Có nhiều lý do được đưa ra để giải thích cho căn bệnh cô đơn này, từ việc
ngày càng ít người tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự và tôn
giáo cho đến sự phổ biến của kỹ thuật như mạng xã hội và điện thoại di động đã thu
hút và lấy hết thì giờ rảnh rỗi của mọi người. Tuy nhiên, trong lãnh vực hoạch
định chính sách và nghiên cứu, các giới chức trong chính quyền và các chuyên
gia thường chỉ ra hai thủ phạm chính: tỷ lệ kết hôn giảm và ngày càng có nhiều
người Mỹ sống độc thân.
Do dư luận trong dân chúng ngày càng tỏ ra quan tâm về vấn đề này, năm
2018, một uỷ ban trách nhiệm về người già tại thượng viện đã cho tổ chức một cuộc
điều trần về tình trạng cô đơn và những hậu quả tiềm ẩn của nó. Một trong những
chuyên gia có mặt tại buổi điều trần là giáo sư Juliane Holt-Lunstad thuộc Đại
học Brigham Young đã giải thích vấn đề trên phần nào có liên quan đến tình trạng
chung của xã hội hiện tại là có hơn một phần tư dân số Mỹ (chính xác là 28 phần
trăm) đang sống độc thân, hơn một nửa số người lớn ở Mỹ không lập gia đình và cứ
năm người thì có một là chưa từng kết hôn.
Mà thật vậy, lối sống của người Mỹ trong nửa thế kỷ qua đã có những thay
đổi đáng chú ý. Năm 1960, 72 phần trăm người trưởng thành ở Mỹ là có gia đình,
và chỉ 13 phần trăm hộ gia đình có một người ở.
Một điều người ta thường dễ dãi cho rằng những người không lập gia đình
và những người sống một mình hiển nhiên là những người cô độc, và do đó có khả
năng cảm thấy mình cô đơn nhiều hơn những người khác. Trong khi một số nhà nghiên
cứu lại thường lấy cuộc sống độc thân một mình như là thước đo về sự cô độc của
một người. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ hơn vào cuộc sống của nhóm người sống một
mình này người ta thấy thực tế lại rất khác với nhận định trên. Đối với phần
đông những người sống độc thân một mình, cuộc sống của họ không có gì là trở ngại
cả. Thay vì từ bỏ các mối quan hệ, những người này lại định nghĩa mối quan hệ một
cách cởi mở hơn.
Để xác định rằng người sống một mình có cô đơn hơn người sống chung với
người khác hay không, các nhà nghiên cứu thường chỉ so sánh mức độ cô đơn của
hai nhóm nói trên. Nhưng lối so sánh này lại bỏ qua yếu tố lựa chọn – với những
người sống một mình ngoài ý muốn được gộp chung với những người tự nguyện sống
một mình để có được sự riêng tư. Một khía cạnh quan trọng khác nữa cho thấy sự
khác biệt giữa những người sống độc thân một mình và những người sống chung với
người khác là vấn đề tài chánh. Trong một nghiên cứu khá rộng dựa trên thống kê
về sự khác biệt tài chính giữa người sống một mình và người sống chung với người
khác, và kết quả cho thấy người sống một mình có sự độc lập hơn về tài chánh, đầy
đủ hơn về mặt vật chất và do đó họ cũng ít cảm thấy cô đơn hơn.
Một số vấn đề tương tự cũng xảy ra trong các cuộc nghiên cứu về sự cô đơn
ở những người độc thân và các nhà nghiên cứu cũng lại phạm sai lầm khi gộp
chung những người chưa từng lập gia đình với những người vừa mới ly dị hoặc vừa
trở thành goá bụa – là những người rõ ràng là đang cảm thấy rất cô đơn.
Ngày càng có nhiều bằng chứng rõ ràng hơn cho thấy sống độc thân một
mình không hẳn là động lực chính đưa tới tình trạng cô đơn như người ta thường
gán cho trước đây. Trước thế kỷ 20, sống một mình trên thực tế hầu như không có
ở Mỹ. Nhưng rồi sau đó lại là xu hướng sống mà nhiều người cao niên ở Mỹ đã chọn
sau khi các chương trình như An sinh Xã hội và Medicare cung cấp cho họ phương
tiện để được tự do và độc lập về tài chánh. Và đó cũng là xu hướng mà nhiều phụ
nữ đã chọn một khi cuộc sống của họ không còn cần phải dựa vào ông chồng vì chính
họ có thể kiếm việc làm để tự nuôi thân.
Những xu hướng tương tự vẫn đang tiếp tục cho đến ngày nay. Sống một
mình có thể là một thách đố đối với những người lớn tuổi có vấn đề sức khoẻ hoặc
đi đứng khó khăn, tuy nhiên, gần 90 phần người cao niên vẫn muốn sống tại căn
nhà của họ, nơi họ có nhiều gắn bó với nó và một cuộc sống độc lập, không nhờ cậy
vào ai. Trong một cuộc nghiên cứu gần đây, một số phụ nữ độc thân trong lớp tuổi
30 và 40 được hỏi điều gì là ưu tiên số 1 trong cuộc sống của họ. Có tới 44 phần
trăm cho biết là muốn được sống một mình, trong khi chỉ có 20 phần trăm nói rằng
họ muốn lập gia đình. Trong số những người trẻ trưởng thành, sống tự lập một
mình được coi là một bước thành tựu trong đời. Và khoảng 6 phần trăm vợ chồng Mỹ
hiện đang sống tách biệt hai nơi khác nhau, không hẳn vì công việc bắt buộc như
vậy mà vì họ muốn thế.
Một sự thật mà nhiều người độc thân nhận ra là người ta không nhất thiết
phải có người bạn đời sống chung trong nhà để giúp họ khỏi cô đơn. Vậy thì biện
pháp để tránh cô đơn cũng khá đơn giản: Những người có nhiều bạn bè hoặc người
thân để có thể tìm đến trong những lúc cần thì thường có xu hướng ít cô đơn
hơn. Những người độc thân và sống một mình có dư khả năng để tìm và xây dựng
tình bạn tốt đẹp và duy trì mối quan hệ thân thiết với những người khác.
Trong khi một số người than rằng tình trạng tỷ lệ kết hôn giảm đang làm ảnh
hưởng đến cấu trúc của xã hội, thì kết quả của nhiều cuộc thăm dò toàn quốc cho
thấy nỗi lo lắng đó là không đúng. Nếu so sánh với những người hiện đang kết
hôn và những người từng kết hôn trước đây, thì người độc thân suốt đời thường
giữ mối liên lạc gần gũi với anh chị em và cha mẹ của họ hơn và giao du với bạn
bè và hàng xóm của họ thường xuyên hơn. Khi cha mẹ già cần giúp đỡ thì sự giúp
đỡ đó thường đến từ những đứa con độc thân hơn là những đứa có gia đình.
Và hôn nhân không phải là thứ thần dược có thể chữa lành căn bệnh cô độc
trong xã hội: Các cặp bạn tình dọn vào sống chung hoặc kết hôn thì thường có khuynh
hướng ngày càng sống khép kín. Họ ít giữ liên lạc với anh chị em và cha mẹ và ít
giao du với bạn bè hơn trước. Trong một chương trình trò chơi truyền hình có tên
là Family Feud trước đây có lần người dẫn chương trình đưa ra câu hỏi cho người
tham gia: Người đàn ông mất gì trước nhất sau khi lập gia đình? Câu trả lời là mất
bạn, và điều này phần nào đã hỗ trợ cho sự nhận định trên.
Quả thật người ta đã lo lắng quá mức về tình trạng cô đơn trong xã hội Mỹ
mà lý do là vì các nhà nghiên cứu đã nhìn sai vấn đề. Một phúc trình từ Uỷ ban
Kinh tế Hỗn hợp của quốc hội sau khi thu thập đầy đủ dữ liệu đã đi đến kết luận
rằng “không có bằng chứng cho thấy tình trạng cô đơn đã gia tăng.” Tuy nhiên,
quan niệm chung của xã hội Mỹ cho đến nay vẫn đi theo lối mòn cũ cho rằng cuộc
sống độc thân là không tốt. Trong khi đó, nhiều triệu người độc thân và sống một
mình tiếp tục sống cuộc sống của họ một cách trọn vẹn và vui vẻ, và ngày càng
có thêm người tham gia vào nhóm người độc thân này.
Người sống độc thân hoàn toàn được tự do sắp xếp cuộc sống và nơi ở của
họ theo cách họ muốn – họ có quyền tự quyết định khi nào ngủ, khi nào thức dậy,
khi nào ăn, ăn gì, xem chương trình gì trên tivi; họ có quyền điều chỉnh nhiệt
độ trong nhà theo đúng ý muốn mà không bị người khác phàn nàn; họ có thể mua bất
cứ món đồ gì họ muốn, mặc bất cứ loại quần áo nào họ thích mà không bị phản đối.
Một cuộc sống tự do như thế thì tại sao lại nói không, và hơn nữa đã được chứng
minh là người độc thân không cô đơn.
Huy Lâm
https://vietluan.com.au/60430/doc-than-nhung-khong-co-don
No comments:
Post a Comment