Cứ mỗi năm đến tháng 4 là niềm đau xót xâu xa, tưởng chừng như đã quên, lại hiện ra trong tâm não, không muốn nghĩ đến, nhưng vẫn ám ảnh ngày đêm. Chợt nhận được đoạn kết của Quyển “A reporter's love for a wounded people” của tác giả Uwe Siemon-Netto, người Đức, thấu đáo tình hình Việt Nam còn hơn chính cả nhiều người Việt.
Mong Quyển sách sớm xuất bản để đọc toàn bộ, tạm thời chỉ có đoạn kết thôi. Đọc cho vơi nỗi "buồn mất Nước".
Tác giả đặt các câu hỏi rất chí lý mà csVn muôn đời cũng không trả lời được.
- Dân Việt Nam có mong muốn một chế độ Cộng sản hay không?
- Tại sao các anh thảm sát tất cả những người vô tội mà các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng họ?
Tác giả vạch trần khuyết điểm trong chính sách Mỹ đối ngoại, rất thấm thía và cho đến bây giờ, ở Afghanistan hay ở Ukraine, vẫn không thay đổi:
Nền dân chủ Hoa Kỳ đúng là không được trang bị về chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ.
- Kết luận rút ra từ kinh nghiệm về Việt Nam là:
Khi một nền văn hóa bê tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó (Mỹ?) sẽ có khả năng vứt bỏ tất cả. Nó đã chín mùi để bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó còn thậm chí sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh thần, nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đã được đưa ra mặt trận.
Đối với csVN, tác giả nêu rõ:
Không có ai sinh ra là biết hận thù cả.
Sự thù hận chỉ có thể có được do dạy dỗ.
Nuôi dưỡng tính giết người trong lòng thanh niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có trường phái chủ nghĩa cộng sản toàn trị là giỏi nhất.
- Ðã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị giết giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii.
Ngũ Giác Ðài ước tính khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa. Đây không thể là một cuộc chiến tranh của nhân dân mà chính là
chiến tranh chống nhân dân.
Cuốn sách Đức: “A reporter's love for a wounded people” của tác giả Uwe Siemon-Netto đã được viết xong và đang chờ một số người viết “foreword” và endorsements.
Đoạn kết:
Hơn 40 năm đã trôi qua
kể từ khi tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015, thế giới sẽ chứng kiến kỷ niệm
lần thứ 40 chiến thắng của Cộng sản và nhiều người sẽ gọi đó là ngày “giải
phóng”.
Hiển nhiên là tôi rất
vui khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam được thống nhất và phát triển.
Nước Đức hoàn thành sự
thống nhất, một phần nhờ người dân tại Đông Đức đã lật đổ chế độ độc tài toàn
trị bằng những cuộc biểu tình và phản kháng ôn hòa, một phần nhờ vào sự khôn
ngoan của các nguyên thủ quốc tế như các vị Tổng thống Ronald Reagan và George
G.W. Bush, của Thủ tướng Helmut Kohl, của lãnh tụ Xô Viết Mikhail Gorbachev, và
cũng phần khác vì sự sụp đổ có thể đoán trước được của hệ thống xã hội chủ nghĩa
sai lầm trong khối Xô Viết. Không có ai bị thiệt mạng trong tiến trình này,
không một ai bị tra tấn, chẳng có ai phải vào trại tù và cũng không có ai bị
buộc phải trốn chạy.
Có một khuynh hướng
khó hiểu, ngay cả trong số các vị học giả đáng kính của phương Tây đã diễn tả
sự kiện Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam như là một cuộc “giải phóng”.
Điều này đặt ra một
câu hỏi: giải phóng cái gì và cho ai?
Có phải miền Nam đã
được “giải phóng” khỏi sự áp đặt một nhà nước độc đảng toàn trị được xếp hạng
chung với những chế độ vi phạm tồi tệ nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn
giáo, tự do phát biểu, tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí?
Một cái thứ giải phóng
gì đã làm chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đã buộc hơn một
triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền Nam bại cuộc
mà cả từ những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000 đến 400.000 người gọi là
thuyền nhân bị chết đuối?
Có phải là hành động
giải phóng không (?) khi xử tử 100.000 người lính miền Nam và viên chức chính
phủ sau ngày Sài Gòn thất thủ? Phải chăng chỉ là một màn trình diễn nhân đạo
của bên thắng cuộc bằng cách lùa từ một triệu đến 2 triệu rưỡi người miền Nam
vào các trại tù cải tạo, trong đó có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn
người khác đã bị tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả
của tra tấn, theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả quốc tế do Bác sĩ
tâm thần Richard F. Molina của đại học Harvard dẫn đầu?
Từ giữa những năm
1960, những tay bịa đặt chuyện huyền thoại về chính trị và lịch sử của phương
Tây, hoặc ngây thơ hoặc bất lương, đã chấp nhận lời giải thích của Hà Nội rằng
cuộc xung đột là một cuộc “chiến tranh nhân dân.” Cũng đúng thôi nếu chấp nhận
định nghĩa của Mao Trạch Đông và Võ Nguyên Giáp về cụm chữ đó. Nhưng theo luật
văn phạm về sở hữu tự theo cách Saxon Genitive quy định thì “chiến tranh nhân
dân” phải được hiểu là cuộc “chiến tranh của nhân dân”.
Thực tế không phải như
vậy. Ðã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị giết giữa các năm 1954 và
1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi
Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel
của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính khoảng 950.000 lính Bắc Việt
và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa
Kỳ nữa. Đây không thể là một cuộc chiến tranh của nhân dân mà chính là chiến
tranh chống nhân dân.
Trong tất cả những lập
luận đạo đức giả về cuộc chiến Việt Nam ta gặp quá thường trong vòng 40 năm
qua, cái câu hỏi quan trọng nhất đã bị mất dấu hay AWOL, nếu dùng một từ ngữ
viết tắt quân sự có nghĩa là “vắng mặt không phép,” câu hỏi đó là:
Dân Việt Nam có mong
muốn một chế độ Cộng sản hay không?
Nếu có, tại sao gần
một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm
1954, trong khi chỉ có vào khoảng 130.000 cảm tình viên Việt Minh đi hướng
ngược lại?
Ai đã khởi đầu cuộc
chiến tranh?
Có bất kỳ đơn vị miền
Nam nào đã hoạt động ở miền Bắc hay không? Không.
Có du kích quân miền
Nam nào vượt vĩ tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân
cộng, cùng vợ và con cái họ ở đồng quê miền Bắc hay không?
Không.
Chế độ miền Nam có tàn
sát cả một giai cấp hàng chục ngàn người trên lãnh thổ của họ sau năm 1954 bằng
cách tiêu diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác theo cách thống trị theo
lối Sô Viết của họ hay không? Không.
Miền Nam có thiết lập
chế độ độc đảng toàn trị hay không?
Không.
Với cương vị một người
công dân Đức, tôi không can dự gì đến cuộc chiến này, hay nói theo lối người Mỹ
là “I have no dog in this fight” (tôi chẳng có con chó nào trong vụ cắn lộn này
cả). Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách “Lời nguyện của nhà báo”, tương tự như
các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía
dân tộc Việt Nam nhiều đau thương. Lòng tôi hướng về những người phụ nữ tuyệt
vời với tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ; hướng về những người đàn ông Việt
Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp đang theo đuổi giấc mơ tuyệt hảo theo phong
cách Khổng giáo; hướng về các chiến binh giống như trẻ con đi ra ngoài mặt trận
mang theo cái tài sản duy nhất là một lồng chim hoàng yến; hướng về các góa phụ
chiến tranh trẻ với cơ thể bị nhào nặn méo mó chỉ vì muốn bắt một tấm chồng
lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể cho chính họ, còn hơn
là đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị
cũng như ngoài nông thôn săn sóc lẫn nhau và những con trâu đồng. Với trái tim
chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc về những người trốn chạy khỏi lò sát sinh và
vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà không bao giờ về hướng Bắc cho đến
tận cùng, khi không còn một tấc đất nào vắng bóng Cộng sản nữa để mà trốn. Tôi
đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và
mũi tôi vẫn còn phảng phất mùi hôi thối của những thi thể đang thối rữa.
Tôi không có mặt vào
lúc Sài Gòn thất thủ sau khi toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH, thường xuyên bị
bôi bẩn một cách ác độc bởi truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh
người Mỹ của họ bỏ rơi, đã chiến đấu một cách cao thượng, biết rằng họ không
thể thắng hay sống sót khỏi trận đánh cuối cùng này. Tôi đang ở Paris, lòng sầu
thảm khi tất cả những chuyện này xảy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng
năm vị tướng lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một
cuộc chiến mà họ đã có thể thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ
(sinh năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927)
và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927).
Khi tôi viết đoạn kết
này, một ký giả đồng nghiệp và một học giả sinh năm 1975 khi Sài Gòn bị thất
thủ, đã tự tạo cho bản thân một thứ tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến
tranh của Mỹ tại Việt Nam. Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật.
Mỹ Lai có thật. Tôi biết, tôi đã có mặt trong phiên tòa mặt trận khi Trung úy
William Calley bị kết án là có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm xác chết được
tôn sùng bởi đầu óc méo mó của các cấp chỉ huy quân sự cũng như dân sự thời đại
Mc Namara tại Washington và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm tổn hại hàng
ngàn mạng sống của người dân vô tội.
Nhưng không có hành vi
tàn ác nào của các đơn vị rối loạn Hoa Kỳ và VNCH có thể sánh bằng cuộc tàn sát
do lệnh nhà nước giáng xuống đầu người miền Nam nhân danh Hồ Chí Minh. Những
tội ác mà cho đến ngày nay những kẻ kế thừa thậm chí vẫn không thừa nhận vì
không ai có cái dũng cảm hỏi họ: (cs không bao giờ nhận tội).
Tại sao các anh thảm
sát tất cả những người vô tội mà các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng
họ?
Với tư cách một người
Đức, tôi xin được thêm một đoạn chú thích như sau: tại sao các anh giết người
bạn của tôi là Hasso Rüdt von Collenberg, tại sao lại giết các bác sĩ người Đức
ở Huế, và anh Otto Söllner tội nghiệp mà “tội ác” duy nhất là dạy trẻ em Việt
Nam cách điều khiển một ban nhạc hòa tấu?
Tại sao các anh bắt
cóc những thanh niên thiện nguyện Knights of Malta, làm cho một số bị chết
trong rừng rậm và số khác thì bị giam cầm tại Hà Nội?
Tại sao các anh không
bao giờ tự xét lương tâm về những hành động đó, theo cách những người Mỹ chính
trực trong khi họ đã được xác định một cách đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ
phải trong cuộc Đại Chiến Thứ Hai, vẫn bị dằn vặt bởi cái di sản khủng khiếp để
lại vì đánh bom rải thảm những khu dân cư trong nước Đức và tấn công bằng bom
nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki?
Hồi tưởng lại cuộc thử
thách trên con đường mòn Hồ Chí Minh trong tạp chí Der Spiegel, cô y tá Tây Đức
Monika Schwinn nhớ lại cuộc gặp gỡ với các đơn vị chiến đấu Bắc Việt trên đường
xuống phía Nam như là một trong những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Cô diễn tả
cái cường độ của mối hận thù trên khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết
chính những tên Việt Cộng canh chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ không
giết những người Đức ngay tại chỗ.
Không có ai sinh ra là
biết hận thù cả. Sự thù hận chỉ có thể có được do dạy dỗ. Nuôi dưỡng tính giết
người trong lòng thanh niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có trường phái chủ
nghĩa toàn trị là giỏi nhất. Trong cuốn tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy SS
Heinrich Himmler, sử gia Peter Longerich diễn tả là ngay cả gã sáng lập viên
cái lực lượng tàn độc gồm những tên côn đồ mặc đồ đen cũng khó lòng buộc thuộc
hạ vượt qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát Holocaust
(Longerich. Heinrich Himmler. Oxford: 2012).
Chính cái ánh mắt thù
hận của những tên sát nhân Bắc Việt tại Huế làm ám ảnh những người tôi phỏng
vấn hơn cả. Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời gian với họ, chịu sự đau khổ
cùng họ, tạo niềm tin và trò chuyện với họ thì mới khám phá ra cái cốt lõi của
một phần nhân tính con người, một hiểm họa về mặt chính trị và quân sự vẫn còn
quanh quẩn bên chúng ta từ bốn thập niên qua. Chỉ phán ý kiến về nó từ trên
tháp ngà đài truyền hình New York hay các trường đại học Ivy League thì không
bao giờ đủ cả.
Sự thật, hay chính xác
hơn: là các nền dân chủ như Hoa Kỳ đúng là không được trang bị về chính trị và
tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ. Sự nhận thức này, cùng với cách
sử dụng các phương tiện khủng bố đã trở thành trụ cột trong chiến lược của Võ
Nguyên Giáp. Hắn đã đúng và hắn đã thắng.
Cho đến tận ngày hôm
nay tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cái kết luận tôi bắt buộc phải rút ra từ kinh
nghiệm về Việt Nam là:
Khi một nền văn hóa bê
tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó (Mỹ?) sẽ có khả năng vứt bỏ tất cả.
Nó đã chín mùi để bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó còn thậm chí
sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh thần, nhân phẩm,
trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đã được đưa ra mặt trận.
Tác động của sự khiếm
khuyết đã ăn sâu trong các nền dân chủ tự do này rất đáng sợ vì cuối cùng nó sẽ
phá hỏng chính nghĩa và tiêu diệt một xã hội tự do.
Tuy nhiên tôi không
thể kết thúc câu chuyện ở đây bằng điều tăm tối này được. Là một người quan sát
về lịch sử, tôi biết là lịch sử, mặc dù được khép kín trong quá khứ, vẫn luôn
luôn mở rộng ra tương lai.
Chiến thắng của Cộng
sản dựa vào những căn bản độc ác:
Khủng bố, tàn sát và
phản bội. Hiển nhiên tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh
lại kết quả, cho dù có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng mộ tính
kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm ra phương cách
ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa. Có
thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xảy ra.
Tôi còn lại gì nữa
ngoài niềm hy vọng?
Cám ơn Tác Giả, hiểu
thấu niềm đau "Mất Nước của Dân Miền Nam", sự tàn ác của cs miền Bắc:
Chiến thắng của Cộng
sản dựa vào những căn bản độc ác:
Khủng bố, tàn sát và
phản bội, chính sách "lợi ích cho mình" của Mỹ, và niềm hy vọng của
Tác giả mong VN thoát khỏi cs bạo tàn:
Tôi còn lại gì nữa
ngoài niềm hy vọng?
Chỉ có giải thể chế độ
cộng sản VN hiện tại mới mong thoát được ách Nô Lệ Tàu, đem lại thanh bình
thịnh vượng cho Việt Nam.
Lưu-Vĩnh-Lữ
Tháng 4/ 2022
No comments:
Post a Comment