Ba tôi
là Lính Cộng Hòa. Đời lính của ba tôi rày đây mai đó, không ở chổ nào lâu quá một
năm.
Từ nhỏ, tôi đã có khí thế giống cha, thích đời lính phong suơng. Đã có lần (tôi
vào khoảng tám tuổi gì đó), nhân lúc ba mẹ tôi đi chơi, ở nhà tôi đã lén lấy bộ
đồ trận của ba mà mặc vào người rồi ra ngoài chơi với đám bạn con nít cùng xóm.
Nói mặc nguyên bộ đồ trận thì không đúng cho lắm, tôi chì mới mặc được có cái
áo của ba tôi thôi mà nó đã dài sát đất rồi, nên tôi chỉ mặc áo thôi chứ không
có mặc quần. Đám chúng tôi chơi làm lính bắn lộn với nhau, tôi lộn nhào, chạy
chỗ này, núp chỗ nọ cứ y như là lính thật vậy đó, chơi say mê tới nỗi ba mẹ tôi
về hồi nào mà tôi cũng không biết. Khi thấy ba tôi, tôi sợ quá, vì đã dám lấy
áo của ba mặc mà không xin phép. Nhưng ba tôi không la mắng gì tôi cả, ông chỉ nhìn
tôi cười mà nói:
“Con thích làm lính lắm hả? Nếu muốn đi lính thì chừng nào đủ tuổi, ba sẽ xin
cho con vào học trường “Thiếu Sinh Quân.”
Tôi không hiểu, hỏi lại ba:
“Trường Thiếu Sinh Quân là trường nào hả ba?”
“À, đó là trường học của chính phủ, dành riêng cho con của lính, để dậy những đứa
nhỏ khi lớn lên sẽ trở thành những người lính chuyên nghiệp.
“Vậy thì ba xin cho con học trường Thiếu Sinh Quân nha ba”.
Đám con nít hàng xóm thấy vậy cũng nhao nhao lên đòi ba tôi xin dùm chúng nó đi
học chung với tôi cho có bạn.
Bọn con nít chúng tôi nói rồi thì quên rồi, chỉ vài ngày sau là chẳng đứa nào
còn nhớ tới Thiếu Sinh Quân nữa, nhất là chỉ một thời gian ngắn sau đó, ba tôi
lại được sự vụ lệnh thuyên chuyển ra Huế. Suy nghĩ tới lui mãi, vì sợ việc học
của chúng tôi bị gián đoạn, nên cả ba mẹ tôi đã đồng ý là chỉ có ba tôi đi ra
đơn vị mới mà thôi, còn mẹ tôi và năm anh em tôi vẫn ở lại Sàigòn. Năm đó, tôi
cũng vừa thi đậu vào trường công lập gần nhà và đang vui vẻ học lớp Đệ Thất thì
nhận được giấy của trường Thiếu Sinh Quân, báo cho cha mẹ tôi biết là tôi đã được
nhận vào học lớp Đệ Lục vào niên khóa năm tới, 1968. Ngày nhập trường, ba tôi vẫn
còn ở Huế, chỉ có mẹ và anh tôi đưa tôi xuống Vũng Tầu mà thôi.
Trường Thiếu Sinh Quân rộng rãi và to lớn lắm, trước kia là một trại lính của
Pháp, gọi là Thành Pháo-thủ, nằm dưới chân ngọn núi Lớn. Phía trước là quốc lộ
15, nối liền Vũng-tầu với Bà-rịa, Sài-gòn. Truờng được bao bọc bởi một bức tường
đá thật cao và thật dầy và một cái cổng sắt thật to ở giũa.
Tôi được đưa vào phòng đại sảnh để tập họp cùng với những học sinh khác. Tôi
không biết có bao nhiêu học sinh vì ngoài lớp của tôi, còn có những học sinh của
các lớp khác nữa. Mẹ và anh tôi được ở lại tới chiều thì phải về, để tôi ở lại
cùng với những bạn học mới và các thầy giáo mới, hiệu truởng mới. Tôi được các
huynh trưởng dắt đi lãnh quân trang quân dụng và những nơi ăn chốn ở. Kể từ nay,
ngôi trường này sẽ là ngôi trường mà tôi sẽ theo học cho hết chương trình trung
học.
Ngày Thứ Hai là ngày làm lễ chào cờ và cũng là ngày khai giảng khóa học niên
khóa 1968 của chúng tôi. Nhìn chung quanh, tôi thấy thật là lạ, vì bạn bè của
tôi tòan là những đứa mặc quân phục trắng, đội nón bê rê đỏ, thầy giáo của tôi
tòan là những người lính mặc quân phục, và Hiệu trưởng của trường không phải là
một giáo sư, mà là một vị sĩ quan: Đại Tá Nguyễn Văn Hương.
Trường Thiếu Sinh Quân, tuy tên gọi có vẻ quân đội, nhưng không phải là ngày nào
chúng tôi cũng học về quân sự, mà trái lại, chúng tôi đuợc học văn hóa theo
đúng chương trình của Bộ Giáo Dục. Duy nhất một điều để chúng tôi biết mình là
Lính: Chúng tôi có số quân. Số quân của tôi là 4454. Mỗi tuần, từ Thứ Hai tới
Thứ Tư, chúng tôi học hoàn toàn về văn hóa, Thứ Năm học quân sự, Thứ Sáu tiếp tục
học văn hóa, Thứ Bẩy làm tạp dịch và vệ sinh cá nhân, Chủ Nhật chúng tôi được
đi phép. Những khóa sinh nào có gia đình ở Sàigòn thì có thể về thăm nhà, còn
đa số thì chỉ đi vòng vòng Vũng Tầu rồi lại về trại quây quần vui chơi với
nhau.
Kỷ niệm mà tôi nhớ nhất trong đời người Thiếu Sinh Quân của tôi là ngày mà đại
đội chúng tôi (lớp Đệ Tứ) được tuyển chọn để đi diễn hành trong buổi lễ trọng đại
nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa: Ngày Quân Lực 19 06 1971.
Trước đó một tháng, hầu như ngày nào chúng tôi cũng phải tập diễn hành ở sân cờ
của trường. Chúng tôi chỉ mặc quân phục, đội bê rê chứ không mang súng đạn gì cả,
vậy mà càng tập chúng tôi vẫn chưa được các huấn luyện viên cho là hoàn hảo.
Ngày 18, chúng tôi đã được đưa về Sàigòn để sáng sớm ngày 19 là chúng tôi đã có
mặt tại Đại Lộ Thống Nhất để sẵn sàng diễn hành.
Nhìn chung quanh, tôi thấy dân chúng đi xem buổi diễn hành thật là đông và vui.
nhìn về đằng trước đằng sau hàng quân của chúng tôi, tôi thấy thật nhiều những
người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nhìn họ thật là oai phong, thật là
hùng tráng với súng mang vai và những hàng huy chương sáng ngời trên ngực. Tôi
mơ một ngày nào tốt nghiệp quân truờng, cũng sẻ được mặc bộ quân phục giống như
họ, mang súng xông ra chiến trường mà diệt trừ bọn Cộng sản xâm lược để bảo vệ
sự tự do cho người dân và vẹn toàn lãnh thổ của Miền Nam Việt Nam, lúc đó, tôi
cũng sẽ được đi diễn hành như họ, và chắc chắn trên ngực áo của tôi cũng có những
hàng huy chương sáng ngời như những nguời lính Cộng Hòa đang đứng trước mặt.
Cuộc diễn hành bắt đầu, chúng tôi bước đi theo nhịp quân hành dồn dập và tiếng
vỗ tay cổ võ của dân chúng đứng chung quanh. Tới ngang khán đài, chúng tôi đồng
loạt quay đầu về bên trái, đưa tay chào Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Phó Tổng
Thống Nguyễn Cao Kỳ trên khán đài. Khung cảnh chung quanh thật là nghiêm trang,
thật là trọng thể và rất là hùng tráng. Với một quân lực đông đảo và hùng mạnh
như vậy, tôi tin chắc rằng Quân Lực Việt Nam Công Hòa sẽ thắng trận và thống nhất
hai miền Nam Bắc.
Ngày thi đậu bằng Tú Tài II năm 1974 cũng là ngày chúng tôi tốt nghiệp trường
Thiếu Sinh Quân. Chúng tôi được toàn quyền quyết định:
Nhập Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt,
Theo học những môn học tại Đại Học.
Tôi chọn nghành Y khoa, nên được đưa về Sàigòn để học chứng chỉ Dự Bị Y Khoa
SPCN (Science, Physic, Chimie) ở Đại Học Khoa Học. Vì đây là trường dân sự nên
khi vào lớp, chúng tôi được tự chọn lựa: Hoặc là mặc quân phục kaki, hoặc là mặc
thuờng phục. Tôi chọn mặc thường phục để cho giống mọi người chung quanh. Hết
giờ học, tôi vào thư viện tìm sách vở học thêm hoặc theo các đàn anh vào truờng
Quân Y để được chỉ dậy thêm. Vì số sinh viên quá đông và từ khắp nèo đường đất
nước đổ về, hơn nữa, cũng vì giảng đường quá lớn, không ai có chỗ ngồi nhất định,
cho nên, ở những tháng đầu tiên của niên học, tôi chẳng có quen được người bạn
mới nào cả.
Một hôm, trong giờ học về khoa học, tôi chọn được chỗ ngồi ở hàng thứ nhất gần
chỗ ông giảng sư đứng giảng bài, nên ghi được bài giảng của ông rất đầy đủ. Hết
giờ học, tôi vừa mới đứng lên sửa soạn thu xếp sách vở ra về thì có một cô sinh
viên hở hàng cuối chạy lên nói chuyện với tôi:
“Chào anh, hôm nay tôi đi học trễ, phải ngồi ở dưới cuối giảng đường nên ghi
chép không được đủ. Tôi thấy anh ngồi ở trên, chắc là ghi chép đầy đủ lắm, anh
có thể . . . cho tôi mượn cuốn tập của anh để ghi lại những phần tôi còn thiếu
hay không?”
Chuyện gì chứ cho mượn vở ghi chép lại bài thì đâu có gì lạ đâu. Tôi cũng đã
hơn một lần phải đi muợn tập của bạn bè để ghi lại mà. Hơn nữa, học đại học là
tự học nhiều hơn, cần phải có bạn bè giúp đỡ nhau, nên tôi vui vẻ cho cô mượn
bài. Chúng tôi cùng vào thư viện của trường, tôi lo tìm sách đọc thêm, cô lo
xem lại bài để ghi những phần thiếu sót. Từ đó, tôi biết tên cô là Thanh, cô
thường mặc áo dài mầu xanh biển nhạt nhìn thật là lịch sự và thanh nhã. Đôi
khi, Thanh phải đi làm thêm nên tới lóp trễ, nhờ tôi giữ chỗ dùm. Đang khi ghi chép
bài, cặp kiếng mát của Thanh rơi xuống sàn, theo phản ứng tự nhiên của người
lính, tôi nhanh nhẹn đưa tay xuống lượm lên cho cô, cùng lúc Thanh cũng đưa tay
xuống nhặt cặp kính, hai bàn tay chúng tôi chạm vào nhau, bàn tay của tôi nắm
vào bàn tay của Thanh. Cả hai không biết làm gì, cứ nắm lấy tay nhau một luc rồi
Thanh mới buông tay tôi ra, lúc đó tôi mới nhặt lấy cặp kiếng mà trao lại cho
Thanh. Thanh đỏ mặt nhìn tôi, lúng túng nói lời cám ơn.
Việc học của tôi đang suôi chèo mát mái, và tình cảm của tôi và Thanh cũng bắt
đầu nầy nở. Nhưng chợt một hôm, tôi nhận được giấy về trình diện trường cũ với
đầy đủ quân trang quân dụng.
Tới trường, ông Đại đội truởng tập họp tất cả chúng tôi lại, cho bĩết ngắn gọn:
“Viện trợ của Mỹ đã bị cắt giảm, không còn ngân quỹ cho các sinh viên đi học đại
học. Tất cả phải nhập học khóa 31 Võ Bị Đà Lạt ngay.
Thế là hết giấc mơ làm thầy thuốc. Thế là hết những ngày tháng êm đềm bên
Thanh. Tôi muốn báo cho Thanh biết, nhưng không còn cơ hội đến trường học nữa,
và cũng không có địa chỉ nhà của Thanh.
Nhưng ngay lúc ấy, trước mặt tôi lại hiện ra một khung trời mới: Tôi nhớ lại
hình ảnh những người lính oai hùng với huy chương sáng chói trên ngực áo. Tôi
phải noi gương đàn anh để trở thành một người lính chiến ngay lập tức, vì tại
thời điểm cuối năm 1974 này, chiến trường Miền Nam thật là xôi động.
Ba ngày sau, chúng tôi ba lô lên vai bay lên Đà Lạt, nhập trường mới: Truờng Võ
Bị Quốc Gia Đà Lạt. Lại qua một màn khám sức khỏe phân chia đại đội, trung đội.
Một tháng trời trôi qua, chúng tôi vẫn chưa dược nhập khóa, chì mỗi ngày ăn uống
tập thể thao đọc sách mà thôi.
Quyết định mới lại đưa ra:
“Viện trợ Mỹ đã bị cắt tới tận cùng, Bộ Quốc Phòng không đủ ngân quỹ cho tất cả
chúng tôi nhập khóa 31. Thiếu sinh quân chúng tôi phải chia ra làm hai: Một nửa
ở lại nhập khóa 31, phần còn lại trở về Sàigòn, nhập khóa 1/75 Thủ Đức (trường
mới đã rời về Long Thành).
Tiếp theo là phần đọc tên người đi kẻ ờ. Tôi có tên trong danh sách về Long
Thành. Tôi lại một lần nửa ba lô lên vai trở về Long Thành.
Tháng 4 năm 1975, chúng tôi được gắn Alpha để chính thức là Sinh Viên Sĩ Quan
Khóa 1/75 Long Thành. Lúc này, tôi được sĩ quan cán bộ và những huynh trưởng
cho hay, tình hình đất nước đã rất là tồi tệ, Việt cộng đã tổng tấn công ở khắp
mọi nơi và đã tiến gần tới Saigòn.
Ngày 21 tháng Tư 1975, chúng tôi nghe từ trong máy thâu thanh tin Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu đã từ chức, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lên thay thế. Chúng
tôi nhìn nhau không hiểu chuyện gì sẻ xẩy ra? Đất nước mình sẽ đi về đâu? Tương
lai của anh em chúng tôi sẽ ra sao? Nhưng tinh thần của chúng tôi vẫn vững
vàng, cả tiểu đoàn khóa sinh vẫn nguyên vẹn.
Khoảng giữa tháng Tư 1975, toàn bộ sinh viên sỉ quan và cán bộ của trường Long
Thành được lệnh di tản về truờng Thủ Đức cũ. Tôi lại một lần nữa ba lô lên vai,
chỉ có khác là lần này, chúng tôi được lệnh mang theo đầy đủ súng cá nhân, đạn
dược và thức ăn cho nhiều ngày.
Đến trường Thủ Đức, đầy những sinh viên sĩ quan, không những chỉ có tất cả các
khóa sinh của trường Long Thành, mà còn có những sinh viên sĩ quan khóa 30, 31
của Võ Bị Đà Lạt, sinh viên sĩ quan Không quân (khăn đỏ và khăn vàng) nữa.
Chúng tôi được lệnh trải ra phòng thủ trường. Theo lịch trình tuần tự, đến
phiên tôi được chỉ định làm Tiểu Đội Trưởng, được lệnh đưa tiểu đội ra gác tại
Tuyến A, nhìn xuống Xa lộ Biên Hòa, chúng tôi liên lạc thường xuyên với Trung
úy Xuân, Đại đội truởng khóa sinh.
Đêm 29 tháng Tư năm 1975, từ đồn canh, tôi nhìn về hướng Sàigòn, trực thăng bay
từng đoàn thật nhiều, không biết đó là trực thăng của Mỹ hay của Việt Nam?
Không biết những chiếc máy bay này chở ai? Đi đâu?
Sáng sớm ngày 30 tháng Tư 1975, tôi đặt ống nhòm nhìn xuống xa lộ, thấy có bốn
chiếc chiến xa đang di chuyển về hướng Sàigòn, tôi vội vàng báo cáo với Trung
úy Xuân, cho ông biết tình hình và nói rõ là có thấy cờ treo ở trên cần ăng ten
truyền tin, nhưng không biết đó là cờ của ai? Trung úy Xuân cũng đặt ống nhòm
và cho tôi biết tin dữ:
“Xe tăng Việt cộng đó, tụi nó treo cờ Xanh lá cây và xanh lơ của Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam đó, anh em cẩn thận canh phòng cho vững, tôi sẽ cho lệnh bắn xuống
đám xe tăng đó.”
Tích tắc sau, tôi đã nghe tiếng súng từ thiết giáp ở trong trường bắn xuống xa
lộ. Ba viên đạn trúng ngay đằng trước đám xe tăng, một trái trúng ngay vào chiếc
xe tăng đầu tiên, trái cuối trung bên hông của đoàn xe. Anh em chúng tôi thích
thú đứng hết cả lên giơ súng hoan hô pháo thủ thiết giáp đã bắn rất chính xác.
Đoàn xe thiết giáp của Việt cộng vội vã quay đầu chạy trở lại hướng Biên Hòa,
chúng tôi như được gia tăng sức mạnh, quay trở lại lo tăng cường phòng thủ thật
cẩn mật. Một SVSQ tên Hóa leo lên tháp canh để canh phòng đám bộ đội nếu chúng
tới gần, Anh Hóa nhìn thấy rất nhiều xe nhà binh nhưng không giống xe GMC của
mình đang chở đầy lính chạy trên xa lộ về phía chúng tôi. Nếu có súng đại liên,
chúng tôi có thể bắn xuống bọn chúng, nhưng thật là đáng tiếc, chúng tôi chỉ có
súng M16 mà thôi. Ở trên chòi canh mà không có súng lớn thì vô ích và thật nguy
hiểm, tất cả chạy ra gọi anh Hóa xuống, anh vừa xuống tới nấc thang cuối cùng
thì một trái B40 đã bắn tới, xập toàn bộ tháp canh xuống, anh Hóa hú hồn le lưỡi
chạy vội vào tưyến A.
Ngay lúc đó, từ máy thâu thanh của một khóa sinh, chúng tôi nghe rõ Tổng Thống
Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, yêu cầu chúng tôi buông súng chờ phe bên kia
tới bàn giao.
Tại sao lại đầu hàng? Làm sao mà bàn giao được? Không! Không thể nào như vậy được.
Anh em chúng tôi nhất định không chịu đầu hàng, chúng tôi còn đủ súng đạn, mặc
dừ chúng tôi chưa chính thức là một nguời lính, nhưng đã có số quân, đã mặc
quân phục, đã mang súng để chiến đấu bảo vệ quê hương, chúng tôi không thể đầu
hàng. Tôi gọi máy liên lạc với Trung úy Xuân, người linh mang máy trả lời là:
“Ông Thầy đã lên thiết giáp ra phía sau trường để đề phòng bọn Việt cộng đánh bọc
hậu.”
Một lúc sau, từ trong quân trường, anh em Võ bị và Không quân chạy rạt về phía
chúng tôi, vừa chạy vừa la:
“Đừng bắn! Chúng tôi là Sinh Viên Sĩ Quan đây.”
Anh em chạy ào vào tuyến, vừa thở vừa cho biết:
“Xe tăng Việt cộng nhiều lắm, chúng đã tấn công trường , bắn cháy xe tăng của
mình rồi. Chúng tôi trước đó đã phá kho súng lấy được vài khẩu M72, nên đã lấy
ra bắn cháy một chiếc xe tăng của bọn chúng, nhưng chúng đông lắm, dùng đại
liên bắn trả lại chúng tôi, một anh khóa khăn đỏ (Không quân) đã bị bắn xuyên
qua đầu chết rồi. Không có chỗ núp, chúng tôi phải chạy ra với các anh.”
Súng nổ khắp mọi nơi, bọn bộ đội bắt đầu bắn về phía chúng tôi, chúng tôi bắn
trả lại thật dữ dội, đẩy ngược bọn chúng về phía trường học. Có tiếng xe tăng gầm
thết càng ngày càng lớn, rồi tôi nhìn thấy rõ ràng chiếc xe tăng đầu tiên đang
quay họng đại bác bắn vào tuyến phòng thủ của chúng tôi. Một anh Không quân lấy
khẩu M72 cuối cùng nhắm ngay chiếc xe tăng mà bắn, chiếc xe tăng trúng đạn nhưng
không bị cháy, nó quay đầu xe trở lại nhắm vào chúng tôi một lần nữa. Không còn
cách nào tự vệ nữa, chúng tôi tan hàng chạy qua hướng Trung Tâm Huấn Luyện Cảnh
Sát Quốc Gia. Chỉ còn tôi với thằng Thật chạy chung với nhau.
Chạy ngang khu nhà dân, tôi nhớ khu này của gia đình binh sĩ, họ thưởng nhận đồ
nhà binh của chúng tôi để giặt úi. Cô gái Tên Xuân nói với tôi:
“Ba của em còn ở trỏng đó, không biết ổng còn sống hông, mấy anh chạy đi, tụi
nó vô đầy hết trơn rồi. Chúng tôi vượt hàng rào vào TTHL Cảnh Sát, đáng tiếc,
anh em khóa sinh ở đây đã rút hết đi nơi khác rồi, kho vũ khí cũng trống trơn
không còn gì nữa. Tiếng xe tăng của bọn Việt cộng rít lên ngoài cổng chính.
Thật nhìn tôi, chán nản:
“Hết rồi, cùng đường rồi.”
Tôi trả lời rõ ràng:
“Cứ thế mà đi ra, không đầu hàng”.
Hai đứa chúng tôi bỏ súng xuống, đi ra cổng.
Xe tăng Việt cộng đầy trong sân, một tên xạ thủ đại liên trên xe tăng quắc mắt
hỏ chúng tôi:
“Đi đâu đây?”
Lần đầu tiên tôi thấy Việt cộng, da mặt tên này tái xanh như tầu lá chuối, cặp
mắt của hắn xâu thẳm như bị bệnh sốt rét và đói ăn lâu ngày.
Tôi bình tĩnh trả lời:
“Ở trong khám mới chạy ra, đang kiếm đường về nhà”
Tên này không hỏi gì thêm nữa, chỉ đường cho hai đứa tôi ra xa lộ.
Dọc đường, tôi thấy thật nhiều dồng bào và những thanh niên như tôi đang im lặng
chạy về phía Sàigòn. Đi ngang qua một cái cầu nhỏ, có một trạm gác, người lính
Cộng Hòa bị đạn chết gục trên khẩu súng đại liên không còn viên đạn nào cả. Một
người đi ngang, dáng vẻ của một người lính, đã dừng chân, nhặt cái nón sắt rơi
dưới đất đội lên đầu cho xác chết.
Đi một đoạn đường nữa, tôi thấy một thanh niên mặt thất thần, tay cầm túi xách
đi ngược đường với chúng tôi, về phía Thủ Đức. Tôi ngạc nhiên nhìn anh và thật
không ngờ, đó là tài tử Hùynh Thanh Trà (tôi nhớ mặt anh vì đã đi xem phim
“Loan Mắt Nhung” do anh đóng chung với Thanh Nga). Tôi nắm vai anh lại, hỏi
anh:
“Anh Trà, anh đi đâu đây?”
Anh không trả lời tôi, chỉ tự nói với chính anh:
“Hết rồi . . . Không còn gì nữa rồi . . . “
Về đến ngả tư Hàng Xanh, qua cầu Thị Nghè, chúng tôi vẫn còn thấy những người
lính Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Biệt Kích 81, Thiết giáp vẫn
hiên ngay chống trả lại xe tăng của bọn Việt cộng, chúng tôi muốn nhẩy vào vòng
chiến, nhập với họ mà tiếp tục chiến đấu, nhưng bọn chúng bắn chặn đường không
cho chúng tôi băng ngang.
Tới khúc Hồng Thập Tự và Phan Đình Phùng, nhà tôi cửa đóng then cài, không thấy
bóng mẹ và các anh tôi đâu cả, những người hàng xóm nhìn tôi ái ngại. Thật rủ
tôi về nhà ba má của anh, ở phía Ngã Bẩy, Lý Thái Tổ. Cha mẹ anh còn ở nhà, im
lặng đón chúng tôi lên lầu tăm rửa thay quần áo.
Từ trên lầu, tôi thấy những đám con nít mang băng đỏ trên cánh tay chạy đi chạy
lại la hét rầm trời, súng đạn vẫn còn nổ khắp nơi. Màn đêm ngày 30 buông xuống
thật mau, hai đứa tôi vẫn đứng bất động trên lan can, có người em của Thật cũng
lên nhập bọn. Có tiếng xe Jeep chạy từ đầu đường, trên xe có mấy thanh niên mặc
thường phục cầm súng băn chỉ thiên hàng tràng dài. Em của Thật nhìn kỹ đám
thanh niên rồi la lên nho nhỏ:
“Tên sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm đó, chắc nó vừa mới thoát ra khỏi khám Chí Hòa lấy
súng bắn chào mừng đám bộ đội Việt cộng đó?”
Trời đêm 30 không có hỏa châu, nhưng có thật nhiều đám cháy và tiếng súng vẫn
vang vọng khắp nơi.
Ánh lửa bùng lên thật cao . . .
Qua ánh lửa, tôi nhìn thấy những người lính Việt Nam Cộng Hòa oai hùng với hàng
dẫy huy chương đang đi diển hành qua khan đài.
Qua ánh lửa, tôi thấy những người Thiếu Sinh Quân trong quân phục đại lễ trắng,
đội bê rê đỏ đang diển hành trong tiếng reo vang cổ võ của dân chúng đứng hai
bên đường:
“Hoan hô các em Thiếu Sinh Quân . . . Các em là tương lai của Việt Nam Cộng Hòa
chúng ta đó . . . “
Qua ánh lửa, tôi thấy những người lính cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
đang bắn vào xe tăng và đám bộ đội chung quanh, rồi thân xác họ bị tan biến đi
. . . Những người Lính Việt Nam Cộng Hòa oai hùng của tôi . . .
Ngày hôm sau, tôi một mình trở về trường Thiếu Sinh Quân, trường vắng lặng và
có đám bộ đội đứng gác bên ngoài. Tôi đi về hướng nhà một đàn em ở ngay tại Vũng
Tầu để hỏi thăm tình hình.
Thăng vừa thoát về đêm hôm qua, kể cho tôi nghe:
“Bọn chúng bắn đại liên vào trường rồi tấn công, chúng em bắn trả lại dữ dội, Đến
sáng hôm sau, chúng nó đem xe tăng vào, dùng súng bắn xập cổng rồi tràn vào,
nhiều đứa chúng em bị thương lắm. Chúng bắt tụi em nhốt ở khu trại đằng trước
trường, đêm đến, chúng em dắt các khóa sinh nhỏ chạy trốn hết, em mới về tới
nhà sáng nay thôi.
NHỮNG THIẾU SINH QUÂN CỦA TÔI
NHỮNG SINH VIÊN SĨ QUAN ĐÀ LẠT, THỦ ĐỨC, KHÔNG QUÂN CỦA TÔI NHỮNG NGƯỜI LÍNH VIỆT
NAM CỘNG HÒA CỦA CHÚNG TA CHIẾN ĐẤU TỚI GIÂY PHÚT CUỐI CÙNG, NHƯ THẾ ĐẤY.
NGUYỄN KHẮP NƠI.
Viết theo lời kể của cựu Thiếu Sinh Quân Nguyễn Nam Sơn, khóa 1968.
Quá lâu rồi không được đọc bài của tác giả Nguyễn Khắp Nơi. Trước đây thường được đọc bài của anh trên báo Việt Luận. Bài viết hay và rất thật, gợi nhớ lại tháng 4 buồn 1975 và phản ảnh đúng tinh thần chiến đấu quả cảm của những người lính VNCH.
ReplyDeleteCám ơn tác giả và NPN đã post bài
Phạm Doanh Môn
Thời gian đó, tháng 4/1975, tôi đang học khóa 48 SQ. CB. HCTC ở trường HCTC, huấn khu Thủ Đức. Trường bộ binh TĐ cũ chia làm 6 trường ngành. Trường HCTC ;là doanh trại cũ của TĐ 3 SVSQ cũ. Vì doanh trại nhỏ hẹp, khóa sinh nào nhà ở SG hoặc vùng phụ cận có thể sáng đi chiều về bằng xe gắn máy.
ReplyDeleteNgày 23/4/1975, các khóa sinh của trường bộ binh Long Thành di tản về đây, phụ trách 4 tuyến gác. Họ gồm khóa sinh VBQG Đà Lạt, khóa 30 và 31. Khóa sinh SQ của trung tâm huấn luyện KQ ở Nha Trang, và khóa sinh Bộ Binh Long Thành. Chiều ngày 25/4/75, tôi lấy xe về nhà qua cổng chính, cổng 1. Tôi gặp SVSQ Trần Văn Hổ, cùng trung đội 324 với tôi ở khóa 3. 72 TĐ. Bạn ấy qua khóa phi hành, đi học sinh ngữ QĐ, có lẽ hết tài khóa nên trở lại TT. HL. KQ Nha Trang, chạy về Long Thành, rồi chạy về đây. Sau gần 2,5 năm, bạn vẫn mang con cá vàng lơ lững.
Năm 1990, tôi gặp lại bạn ở TT. TM quận 10 rồi bặt tin đến nay....Một thời để nhớ...