Phần I
Sau khi chiếm trọn
miền Nam Việt Nam, ngày 30/4/1975, nhiều chiếc loa phóng thanh được đặt ở nhiều
địa điểm suốt ngày loan: “Không được động tới cây kim sợi chỉ của dân”. Những
binh sĩ, quân cán chính của chế độ cũ học tập ba ngày tại nơi cư trú và sau đó được
cấp giấy tờ để trở về cuộc sống dân sự lo làm ăn. Lòng Nhẫn hoang mang, nhưng
cũng mong mau tới ngày chồng chị cũng học tập như mọi người rồi sau đó yên tâm
kiếm chỗ định cư lập nghiệp, lo cho ba đứa con.
Lệnh của Ủy Ban Quân
Quản thành phố Saigon thông cáo: những Sĩ Quan của chế độ cũ phải trình diện,
mang theo tiền bạc lương thực cho mười ngày học tập. Một nỗi nghi ngờ lóe lên
trong đầu, nhiều lúc muốn hỏi ý chồng có tin được không? Rồi lại ngần ngại, kẻ
biết trước giờ chết đau khổ hơn cái chết đến với họ thật bất ngờ. Chị chỉ đưa ý
kiến sẽ đem con về sống với ngoại ở Ninh Hòa. Chồng chị trả lời:
- Anh không tính được
gì cả cho đến lúc anh ở tù về.
Gom góp hết số tiền
còn lại của chị đưa cho chồng. Một túi xách nhỏ, một chiếc mền mỏng, vài bộ đồ,
khăn mặt bàn chải đánh răng, một cục xà bông. Đó là hành trang với lời căn dặn:
- Áo quần dơ anh đừng
giặt, chừng mười ngày về, em giặt cho.
Vợ chồng chị chia tay
không nói với nhau một lời. Anh cầm tay chị bóp mạnh. Anh xoa đầu các con dặn:
- Ở nhà nghe lời má!
Một nỗi cảm xúc nghèn
nghẹn chận ngay cuống họng, không ai nói được lời gì.
Mười ngày dài chị đếm
từng giây phút trong nỗi lo âu với sự nghi ngờ, từng đêm khắc khoải. Chị mong
đợi mười ngày định mệnh qua nhanh để biết hậu quả thế nào. Ngày thứ mười chị
bồng con đứng đợi, suốt ngày không thiết tha đến bữa ăn, cứ ngóng mắt trông
từng chiếc xe trờ tới, chị cứ nghĩ là chồng chị về. Đợi mãi đến cuối ngày, mười
một rồi mười hai giờ. Tiếng chuông đồng hồ báo hiệu qua ngày mới, chị tức giận
òa khóc, khóc tức tưởi. “Biết ngày nào gặp nhau, mình sẽ sống như người đàn bà
góa bụa ở tuổi hai mươi lăm nầy sao?” Giờ đây đứa con ôm mẹ bú là giây phút
hạnh phúc nhất còn lại, giúp chị vơi bớt nỗi cô đơn trong đêm dài thanh vắng.
Phiền muộn vất vả, cho
con bú không có món ăn dinh dưỡng, chỉ vài tháng sau, Nhẫn đã thành người đàn
bà ốm gầy khô đét. Hai bàn tay bị xà phòng ăn rướm máu, mà ngày nào cũng phải
giặt hai thau đồ dày của đàn ông lẫn đàn bà, nước mắt hòa với máu đổ ra trên
những đống quần áo dơ. Chị cúi mặt cam chịu sống nơi đây để đợi chờ tin tức,
chị mong cánh thư chồng gởi về từ trại giam nào đó, để biết rồi an tâm ra đi.
Ôi! Thật là họa vô đơn
chí! Thằng con lớn năm tuổi lại bị bệnh, nó ngủ liên miên suốt ba hôm rồi không
dậy được, đầu lúc nào cũng hâm hấp nóng. Cho nó ăn cháo, nó không muốn ăn:
- Để con ngủ.
- Con phải ngồi dậy ăn
rồi ngủ. Ngủ đói chết sao?
Nó không ngồi dậy
được. Công việc nhà không ai phụ giúp. Chị lo bữa trưa cha chồng đi làm về, em
chồng đi học về mà cơm chưa nấu. Thế là đành bỏ con nằm một mình. Buổi chiều nó
lên cơn sốt. Không có tiền đưa con đi Bác Sĩ, chị bèn thưa với mẹ chồng:
- Má có thuốc nhét đít
cho trẻ con không? Cho con một viên, thằng nhỏ nóng quá!
Mẹ chồng chị chuyển
lời hỏi ý chồng. Ông ngần ngừ đắn đo mấy phút, xoay lưng, cố lờ như không nghe,
rồi quay qua nói với vợ:
- Có! Nhưng để giành
cho con con Trúc!
Nhẫn nghe lọt lời ông
nói nên mạnh dạn lên tiếng:
- Ba ơi ! Cho con xin
một viên thuốc giảm nóng cho thằng nhỏ, nó bệnh đã ba hôm rồi. Cháu ngoại Ba
đang khỏe mạnh ăn chơi, biết đợi đến lúc nào cho nó bệnh mà dùng?
Mẹ chồng nói:
- Ông đưa cho nó đi!
Suốt đêm, chốc chốc
chị đưa tay lên sờ trán con, mắt Nhẫn lờ mờ như có màng sương mỏng, hình ảnh
cha già với lời căn dặn:
- Con à! Lúc ông nội
con còn sanh tiền có căn dặn con cháu mai sau lập nghiệp thì đi vô theo hướng
Nam.
Sao vậy Ba?
Lời Nhẫn hỏi cha.
- Từ đây đi ra là miền
Trung, ra nữa là miền Bắc, đất đai cằn cỗi, mưa lụt mỗi năm, dân chúng khó làm
ăn, lại thêm chiến tranh liên tục, tâm tình con người dần dần biến đổi theo sự
khó khăn trong cuộc sống, cách sống của họ không rộng rãi, lúc nào cũng phải
thắt lưng buột bụng, có cái gì cũng cho vào ruột tượng cột chặt vào lưng.
Chị ôm chặt con vào
lòng, nước mắt chảy dài. Chị tự trách mình đã không nghe lời cha căn dặn. Đưa
tay sờ trán con, chị cảm nhận nhiệt độ có phần giảm dần. Ngày hôm sau em gái
chị từ Ninh Hòa vào thăm:
- Má nằm mơ, đêm nào
cũng thấy chị liên tục suốt mấy đêm liền, bà sốt ruột bảo em nghĩ bán hàng vô
Sài Gòn xem chị ra sao!
- Cháu bệnh nặng nên
chưa đưa con về thăm má được.
Trước khi về quê em
chị để lại tiền, chị mang con đi chữa bệnh. Đứa bé thuyên giảm dần sau khi chị
đem nó đến Bác Sĩ Mẫn, phòng mạch trên đường Nguyễn Tri Phương. Ôi sung sướng
nào bằng khi thấy con ăn nói đùa giỡn.
Chị khe khẽ bảo nhỏ
với con:
- Ráng ăn cháo cho
khỏe rồi má dẫn về ngoại ăn me!
Tiếng ầm ĩ quát tháo
dưới nhà cắt đứt niềm hạnh phúc nhỏ nhoi của mấy mẹ con. Nhẫn vội rời con đứng
lên, đầu đập mạnh vào trần nhà cái bốp. Mắt té đôm đốm, đầu óc quay cuồng, vài
phút mới định thần được. Mẹ con chị đang ở trên gác xếp chiều cao chỉ bằng
người ngồi, vì lật đật chị quên bẵng đi. Vừa đặt chân xuống thang gác, chị nghe
tiếng ông cha chưởi:
- Đồ thứ đàn bà hư,
không nấu nổi bình nước sôi!
Có lẽ trước đó ông nói
nhiều nữa nhưng chị không nghe được, đầu chị còn lùng bùng tưởng chừng nứt sọ
vì va đầu vào tường quá mạnh. Nhẫn trả lời:
- Con đã nấu nước sôi
rót đầy bình thủy, sau khi nấu xong bữa cơm chiều, ngày nào cũng vậy; có lẽ cô
Bốn dùng nước nóng tắm cho các con cô rồi!
Miệng trả lời, tay chị
vội vàng nhóm bếp lửa. Với nhiệt độ nóng hơn 110 độ F, sống trong căn nhà chung
cư không có cửa sổ, cũng không có cửa hậu, khác nào ở trong phòng tắm hơi. Mồ hôi toát ra nhiều, người khỏe, không phải tốn tiền
thuốc.
Chị ngẫm nghĩ:
- Thương chồng phải
lụy nhà gia,
Chứ ta với họ có bà
con chi!
Chân dợm bước ra mà
lòng lại bùi ngùi không dứt, tiếng kêu của con tim níu kéo dằn co, chị cầm nán
lại đây đợi tin tức chồng. Hàng ngày sau khi mọi người trong nhà đã xong bữa
cơm trưa, chị thu dọn rửa chén bát, chùi nhà. Dặn dò đứa con lớn cho hai em đi
ngủ, chị đến xưởng dệt chiếu tập làm ăn công điểm mỗi ngày vài tiếng để kiếm ít
tiền. Ngày lại ngày qua chị giống như con thoi trên khung cửi dệt, khung chiếu
nầy xong lại mắc thêm khung nữa, cứ thế và cứ thế mãi. Mấy tháng sau, chị nhận
được thư chồng báo tin cho thăm nuôi tại Trại Long Giao. Nhẫn đưa cả ba đứa con
cùng đi. Chị cho chồng biết sẽ đưa con về ở bên ngoại, anh đồng ý.
Căn nhà tôn vách đất
vừa mới dựng. Nơi đó phát ra tiếng khóc trẻ thơ, tiếng võng kẻo kịt, tiếng ru
con. Âm thanh đơn độc trong buổi trưa hè, Thiện nghe ray rức buồn:
- Ầu Ơi... Chim xa bầy
thương cây nhớ cội, người xa người tội lắm trời ơi...!”
Có lúc tiếng hát bỗng
im bặt, anh ngần ngại đứng lại trên con đê hẹp hai bên ruộng lúa nặng trĩu hạt
chín vàng. Đưa tay suốt vài hạt thóc bỏ vào mồm cắn, anh lẩm bẩm “nhờ trời năm
nay được mùa lúa, hạt chắc nụi!”. Con đê nầy bảy năm trước đây, chiếc xe anh đã
mòn bánh. Mảnh vườn kia chính tay anh đã xới đã trồng những bụi hoa huệ, hoa
tường vy, hoa bán dạ hương. Những đóa pensée, những đóa hồng nhung anh đã trân
quý đem từ Đà Lạt về cắm vào chiếc bình trắng thủy tinh đặt nơi bàn học của
nàng. Nàng cười hồn nhiên vô tư như không hiểu tình cảm sâu kín của anh. Nhà
nào nay dựng trên mảnh đất nầy? Thiện mạnh dạn bước qua cổng vườn, băng qua
mảnh đất ngày xưa trồng hoa huệ trắng nay chỉ là mảnh đất khô không một cọng
cỏ. Đây rồi, nhà cửa đóng. Tiếng ru con lại cất lên:
“Qua cầu than thở cùng
cầu
Cầu bao nhiêu nhịp dạ
sầu bấy nhiêu!
Thiện đi lần về phía
sân nhà, thấy cửa sổ mở. Anh đứng nép một bên nhìn vào. Trên chiếc võng, đứa bé
miệng ngậm vú gục đầu bên ngực người đàn bà ốm khô. Chốc chốc đứa bé nhả vú
khóc, người đàn bà tay xoa lưng con, cất tiếng hát, cố hát lớn hơn át tiếng
khóc trẻ thơ. Tiếng thở của anh, anh nghe lớn quá, tiếng đập trái tim anh nghe
tựa tiếng trống thình thịch. Sao lại thế nầy! Anh đưa tay mạnh dạn gõ lên thành
cửa. Đợi chờ. Một phút... hai phút... năm phút! Cửa không mở. Nàng vẫn tiếp tục
ru con:
“Qua đình ngả nón
trông đình
Ầu ơi... Đình bao
nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu!”
Thiện thở dài quay
gót. Lòng anh chất nặng một nỗi buồn không tên!
Qua khung cửa sổ, bóng
ai ngã dài trên sân đất. Bạn cũ, họ hàng, Nhẫn không tiếp đón một ai. Chị sống
âm thầm với nỗi buồn riêng tư chất ngất. Chị không cần bạn bè an ủi, sau lưng
chị thế nào cũng có đứa nói.
- Cáo chết ba năm quay
đầu về núi! Chị thầm nghĩ. Từ ngày chị nhận được thư chồng gởi về báo tin “Anh
đang ở Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa”, chị mất niềm hy vọng có ngày sum họp. Mình
là vợ người tù bị đày biệt xứ. Mặc cảm của kẻ sa cơ, chị mang bộ mặt thách thức
lạnh lùng với bạn bè ngày xưa cùng chung một mái trường, nhưng nay họ đội nón
cối kè kè súng lục bên hông; cũng có thằng bạn trong chế độ cũ là sĩ quan được
du học bên Mỹ, nay là kinh tài của chế độ mới! Nó mời chị nhận tiền để làm ăn,
chị mỉm cười trả lời:
- Ngày xưa tôi không
chọn anh và ngày nay tôi vẫn còn mang ý niệm đó! Cảm ơn tình bạn còn sót lại
trong anh, nhưng anh đừng hy vọng thay đổi cục diện!
Chị cố nuốt những giọt
lệ sầu nếu có ai hỏi đến chồng chị. Không có vốn bán buôn, chị tập chằm (kết)
nón lá. Dì của chị đưa tới nhà bà hai Cọt, bà nầy là chỗ thầu vật liệu
làm nón lá, có bán nào là: khuôn nón, lá, dứa, cước, dầu đánh bóng... Nhẫn vội
bắt tay vào việc để kiếm tiền nuôi con. Chị theo học nghề từ bà dì và cũng nhờ
dì làm giúp những khâu chị chưa làm được. Công việc của nghề nầy thật nhiêu khê
và tỉ mĩ. Từ lúc gà vừa eo óc gáy xóm xa, chị đã thức dậy ủi lá, cắt và xếp lá,
lựa lá có màu xanh non, đẹp thì xếp cho lớp ngoài, loại tệ hơn thì xếp vào lớp
trong. Chẽ dứa ra thanh nhỏ rồi kéo những thanh nầy qua những lỗ tròn của thanh
sắt được đục lỗ lớn nhỏ để làm vành nón. Mười sáu vành to nhỏ được đặt lên
khuôn. Sau đó chị lợp những xấp lá đã lựa và chận lên một vòng giữ cho lá khỏi
xê dịch. Chị bắt đầu khâu từng mũi một. Mới tập làm, kim đâm vào mấy ngón tay
nứt thành những kẻ dài rướm máu. Chị dùng rẻo vải quấn lại nên công việc khâu
nón trở nên chậm chạp. Thỉnh thoảng thằng con út đòi bú, sà vào lòng mẹ, té lên
khuôn nón, làm vành bung khỏi khuôn. Nón làm xong méo xẹo, chỉ dùng đội ra vườn
lúc trời mưa chứ không bán được.
Thời gian lặng lẽ
trôi, thàng út lớn thêm một tuổi, chị thôi bú cho nó. Chị quyết định đổi nghề,
gởi các con cho ngoại trông nom. Chị liều vào Sài Gòn hỏi mượn cha mẹ chồng một
số tiền đi buôn hàng chuyến. Mua áo quần trẻ em từ Sài Gòn ra bỏ mối chợ Ninh
Hòa. Ông bà ưng thuận. Chuyến thứ nhất chị kiếm lãi được 10%. Thật là quới nhơn
đãi kẻ khù khờ, hàng về bán hết ngay trong vài ba hôm. Chị thâu được tiền trở
vào mua chuyến khác. Như một tin sét đánh, cha chồng chị đòi lại số tiền và
bảo:
- Con Trúc bảo lấy lại
tiền mua thuốc tây..!”
Chị trả ngay tiền lại
cho ông và quay lại Ninh Hòa tay không. Thế là sau đó Nhẫn chỉ phụ em gái mua
bán hàng nho nhỏ tại chợ.
Một hôm, chị ngạc
nhiên quá, sao Bác Sáu cứ lẩn quẩn bên chị, giỏ thức ăn của Bác nằm đây không
về nấu ăn, cá thịt ươn hết, chồng con đợi ở nhà. Chị muốn hỏi nhưng còn ngần
ngại vì nhớ lại câu chuyện mẹ kể:
- Nghe con đi lấy
chồng xa, Bác Sáu ôm má khóc nói: “tôi có ý trông con Nhẫn hơi lớn lớn tí nữa
sẽ hỏi cưới cho Thằng T. Sao chị gả nó đi xa? Con còn nhỏ, gả sao sớm vậy?”
Rồi hai bà cùng khóc!
Đắn đo vài giây, chị bạo dạn hỏi:
– Bác Sáu, Bác có đợi
ai không?
Thằng T. bảo Bác ra
xem con mua bán thứ gì nhà có thể mua về xài thì mua giùm con. Bác muốn ngồi
đây chơi với con xem con buôn bán.
Ngày xưa, nhà T. và
nhà chị đối diện nhau, ngày Tết Bác Sáu làm mứt chanh đẹp lắm. Bà thường gọi
chị qua nhà dạy cách làm. Ngay cả đến ngày giỗ, Bác cũng để dành mâm thức ăn
ngon, nhưng chị chưa bao giờ ăn mâm đó mà chỉ cho hai em gái qua thôi. Chị và
T. cùng học một lớp.
Ban ngày chị gượng
cười gượng nói cho mẹ già an lòng. Có lần chị nghe mẹ nói với em gái:
- Chồng nó không về
chắc nó điên! Đêm xuống con đã ngủ, chui vào mùng đắp chăn phủ đầu, chị
khóc giọt dài giọt ngắn tha hồ tuông cho vơi sầu muộn.
Rồi có một ngày người
đưa thư mang đến cho chị một tin vui. Chị được đi thăm nuôi chồng. Suốt ngày
đêm chị miên man suy nghĩ sẽ mua món gì? Cám rang trộn đường - phòng ngừa phù
thũng - Muối sả trộn bột ngọt. Trong rừng chắc là cần muối - Mắm ruốc xào sả ớt
- Có thể để lâu không hư - Đường - Chắc là thèm ngọt lắm. Thịt chà bông - Món
nầy mùi thịt thơm cám dỗ lũ con chị số một.
Ba đứa nhỏ cứ vây
quanh chảo thịt, trời nóng bức mà chúng cứ ngồi sát bên lò, mắt thao láo nhìn. Mẹ
nó dùng đũa trộn đều cho mau khô, chị lựa miếng nào có dính mỡ gắp cho vào
miệng con, đứa khác nhìn chờ đợi, chị gắp miếng nữa cho vô miệng đứa kia, lấy đũa trộn trộn, lựa miếng nào xâu xấu cho vào miệng đứa thứ ba.
Ba đứa nhỏ chạy ra ngoài chơi mấy phút, nhai xong miếng thịt, mắt liếc liếc rồi
cũng chạy vào nhìn chảo thịt thèm thuồng. Chị lên tiếng:
- Để gởi cho Ba chứ
con!
Chúng tản ra xa, nhưng
cũng được vài phút thôi, lại trở vô bếp nói:
- Con coi má làm thôi
mà!
Lòng thương con dào
dạt, cũng bởi thiếu thốn nên con mình mới thèm như vậy. Thuở còn bé, cha mẹ
mình không giàu có bằng ai, nhưng có bao giờ mình thèm món gì đâu. Bởi được cha
mẹ cho ăn uống đầy đủ... Nước mắt chị ràn rụa, nhưng giả đò nói với con là ngồi
trong bếp nóng quá nên chảy nước mắt. Chị lấy đôi đũa sắt khua qua khua lại
trên thành lò:
- Sao không thấy cục
than nào có khói mà làm mắt cay!
Con chị còn bé quá,
không hiểu gì cả, tưởng mẹ nói thật. Chảo thịt khô rồi chỉ còn độ nửa lon
guigô. Đọc lại bức thư của chồng, đọc mãi đọc hoài. Bức thư bao lần ướt nhão
lại khô mà chị vẫn cứ quên không nhớ anh căn dặn những gì. Anh dặn chị mua bánh
thuốc lào. Miền Bắc lạnh lắm nên anh quí thứ nầy! Hỏi mấy bà bán thuốc lá cho
người ăn trầu:
- Đây có bán thuốc lào
không?
Họ trả lời “không”. Đi
hết chợ chị không tìm thấy thuốc lào. Từ bé đến lớn chị không thấy ai ở quê chị
hút thuốc lào nên không hiểu hình dạng nó ra sao. Chị chỉ thấy thuốc điếu,
thuốc gói. Vô Sài Gòn hỏi mấy bà đi thăm nuôi trước, gởi tiền và nhờ mua giùm.
Phần II
Mọi thứ giấy tờ đã
xong, hai giỏ thực phẩm vừa đủ sức cho hai cánh tay chị. Chị cùng cha chồng lên
đường. Các con chị gởi cho ngoại và dì trông nom. Ba ngày ba đêm trên chuyến
tàu Thống nhất Sài Gòn – Hà Nội. Chị ngồi rồi đứng. Tiếng xình xịch của tàu lửa
cộng thêm sự mỏi mệt của tứ chi tù túng không đi lại được, làm chị muốn nhắm
mắt, nhưng tàu đông người quá, lại sợ mấy giỏ đồ thăm nuôi bị cuỗm mất. Ngồi
lâu mỏi chân, chị rút chân lên thay đổi thế ngồi. Mấy phút sau, bỏ chân xuống
thì đôi dép không cánh mà bay!
Tàu vào ga Hà Nội, đêm
đã xuống, ánh sáng héo hắt vàng ố trong sân ga. Cái lạnh cắt da thịt tháng
giêng, chị rùng mình nghĩ ngợi, làm sao sống được nơi nầy! Nhìn xe bán bánh
bao, những chiếc bánh trắng nghi ngút khói. Đang lạnh và đói, những tuyến nước
bọt trong miệng chị trào ra, nó len lén bò quanh vành môi:
- Tôi mua năm cái.
Sau khi trả tiền, hai
cha con tìm chỗ ngồi ăn. Chị đưa chiếc bánh nóng kề môi, hơi nóng tỏa ra, môi
chị dần dần ấm lại. Khí trời lạnh quá làm nguội bánh ngay trong giây lát. Chị
cắn miếng bánh. Ngậm không nhai được, mùi gì khai nồng quá độ. Có lẽ là mùi khai
bột nổi. Ăn không chết đâu, nếu ăn chết sao họ dám bán công khai vậy! Nước
miếng làm bánh mềm, chị nuốt vội. Cắn tiếp miếng thứ hai, ngậm phải miếng thịt.
Ôi! Tanh sao mà tanh quá! Chị quay sang hỏi cha chồng:
- Ba! Ba ăn thấy sao?
Tanh mùi gì quá con muốn ói...
Ở đây thịt bán theo
tem phiếu, theo tiêu chuẩn, thịt đâu ra để làm bánh! Chỉ có cá ế, chợ tan rồi
người ta mua gom về làm nhân bánh thôi!
Phút giây nầy chị ao
ước có một củ khoai mì thiu nuốt dễ hơn cho đỡ đói. Đã chín giờ tối, chị mặc
thêm chiếc áo len, nhưng cũng cảm thấy lạnh như mình chưa mặc gì cả. Gọi xe
xích lô đến khách sạn. Khách sạn không còn phòng trống. Người quản lý khách sạn
cho biết sau mười hai giờ có người sẽ trả phòng. Ba chồng chị lẩm nhẩm tính,
còn ba giờ nữa: “mình đợi vậy!” Ôi! Làm sao chị đợi được! Chị
tưởng tượng sẽ hóa đá khi phải ngồi trước thềm khách sạn nầy thêm vài giờ nữa.
Chị đang như ngồi trong tủ lạnh. Đôi dép đã mất trên tàu lửa, hai chân chị giẫm
trên gạch đá mà tưởng chừng như trên những tảng băng. Ba ngày không rửa mặt súc
miệng, không tắm rửa, chị nghe như có con gì ngọ nguậy trong châu thân.
- Ba ơi! Hình như Ba
có quen người ở Hà Nội nầy. Ba gọi xe cho con tới đó. Con sắp chết cóng đây!
Nhẫn vừa nói, môi đánh
bò cạp, hai hàm răng cụng nhau côm cốp, chị rên hừ hừ.
Ngần ngừ mấy giây, cha
chị gọi xe, hai cha con đến nhà Dì Dượng Hàn ở phố Hàng Buồm. Dì Dượng ở nhà
tập thể. Tầng dưới là nhà giữ trẻ, từng trên chia ra làm nhiều phòng, mỗi phòng
là một gia đình. Dì duợng có hai người con trai, chỗ ở thật chật chội. Có lẽ ba
chị đã từng nghe dượng tả qua, nên ông ngần ngại không muốn đến làm phiền.
Riêng Nhẫn thì mừng hết biết, chị được tắm qua loa, được thay bộ đồ đã mặc ba
hôm, được có chỗ đặt hai giỏ đồ không sợ ai cuỗm mất mà chị mong mỏi trao đến
tay chồng. Dì Dượng nầy tập kết ra Bắc năm 1954. Biết Nhẫn đi thăm nuôi chồng,
họ gom thuốc lá thuốc tây trong nhà đem tặng chị. Thấy chị đi chân trần, bà Dì
cũng cho chị đôi giày mới, bà đã mua chưa hề mang. Chị sung sướng nhất là tránh
được giá buốt ngoài trời. Sáng hôm sau hai cha con ra sân ga mua vé tàu đi Vĩnh
Phú.
- Này, đưa giấy tờ Ba
giữ, mầy ngồi đây coi mấy giỏ đồ, để tao vào mua vé. Cẩn thận nghen..!
Cha chồng căn dặn
trước khi chen vào quày vé.
Sau khi nắm được hai
vé tàu trên tay, chen được ra ngoài sân ga cũng đủ đổ mồ hôi hột vì làn sóng
người xô đẩy. Kẻ cố chen vô, người cố trở ra. Đến chỗ Nhẫn ngồi đợi, cha chồng
chị phát giác cái bốp của ông đã bị mất rồi. Ông đến gặp công an Ga cớ mất giấy
tờ.
… Tiếng còi hụ vào Ga,
Nhẫn cuống quít vì thấy người trên tàu đông lúc nhúc, họ đeo hai bên cửa lên
xuống như đàn kiến bò kín lối. Cha chị leo lên tàu qua cửa sổ, người bên trong
xô đẩy ông bật ra. Ông nắm được bệ cửa, gồng hai tay, mang hai giỏ đồ, đong đưa
người nửa trong nửa ngoài trên thành cửa. Nhẫn đứng chết trân dưới sân Ga. Chị
biết trăm phần mình không thể nào lên tàu được. Con Tàu chuyển bánh một cách
chậm chạp, rồi dần nhanh. Nhẫn run bần bật khi biết chắc chị bị rớt lại trên
sân Ga xa lạ nầy. Bỗng, một cánh tay vạm vỡ ôm cứng người chị từ phía sau lưng,
đưa người chị lên cao. Nhẫn hốt hoảng há hốc mồm. Nhưng khi thấy nhiều cánh tay
của những người đứng ngay cửa lên xuống đưa ra, tay kia ôm chặt thanh sắt bệ
cửa, Nhẫn lẹ làng chụp ngay cánh tay họ. Người đàn ông dưới đất chạy theo con
tàu, tay đưa chị cao hơn ngang với bực cấp để chị có thể bước lên. Họ nhường
chỗ cho chị và nghe có tiếng bảo đi tiếp vào bên trong. Chị làm theo như đó là
mệnh lệnh! Vào được bên trong toa, chị cũng nghe được lời cha chồng hỏi:
- Nhẫn! mầy lên được
rồi phải không?
- Dạ!
Nhẫn chưa qua cơn xúc
động mạnh, nước mắt chảy ròng, chị cắn chặt môi, nhưng nước mắt từ đâu cứ tuông
mãi. Chị muốn cám ơn những người xa lạ ngồi quanh nàng. Cám ơn ai đó đã nhảy
xuống Tàu giúp chị mà chị chưa nhìn thấy mặt. Chị nghe nhiều tiếng hỏi lao
nhao. Chị không biết nên trả lời ai câu hỏi nào. Chị chỉ nói vỏn vẹn có một
câu:
- Họ bảo chồng tôi đi
học tập mười ngày, rồi họ đưa ra tận đây!
Sau đó chị không nghe
ai hỏi gì nữa. Hình như từng ấy lời cũng đủ xác định chị là ai và lý do chị có
mặt trên chuyến tàu nầy.
Đến ga Ấm Thượng,
người chỉ còn lưa thưa, hành khách xuống dần dần từng Ga. Hai cha con mang hành
lý xuống tàu, rời Ga rồi theo người hướng dẫn đến nhà tiếp tân được dựng bên bờ
sông. Căn nhà tiếp tân làm bằng những tấm phên tre, lợp lá cọ sơ sài nhưng sạch
sẽ. Hai cha con ngủ lại đó một đêm vì lúc đến trời đã khuya. Sáng hôm sau, chị
cũng có vài gia đình làm bạn đồng hành, nhưng họ không đến cùng một phân trại.
Kẻ đến K5 người đến K1... Tuy nhiên ai đến K nào thì cũng phải qua đò đi Bến
Ngọc. Đò chạy bằng máy đuôi tôm, dọc theo sông chị thấy những cô gái Bắc chống
mãng, mãng làm bằng những ống bương ghép với nhau. Họ lướt nhanh trên dòng nước
không thua thuyền máy.
Lênh đênh trên chiếc
đò nhỏ, Nhẫn nhớ đến truyện “Anh Phải Sống” của Nhất Linh mà chị đã học năm đệ
thất. Cảnh tang thương của một gia đình nghèo đi vớt củi trôi vào mùa nước lũ.
Nhìn dòng nước đục ngầu, vì không biết bơi nên lòng lo lắng. Trong phút giây
nầy chị mới thấy rõ một hình ảnh mà Nhất Linh đã ví chiếc bè của vợ chồng Thức
trôi trên sông Nhị Hà. “Như chiếc lá khô nổi trong vũng máu, như con muỗi mắt
chết đuối trong nghiên son....” Thuở ấy, tuổi lên mười, mười một, trí tưởng
tượng của chị nào đủ phong phú để hình dung ra được. Giờ đây, ngồi trên chiếc
đò nhỏ chở đầy người, mặt nước lấp xấp mạn truyền đang trôi trên dòng sông nước
đục đỏ ngầu chị mới nhận ra! Nhưng chị đâu có tâm trí nào để thưởng thức cảnh
hùng vĩ sông núi quê hương.
Rời Bến Ngọc, Nhẫn
thấy một chiếc xe trâu đợi sẵn. Các chị cùng đi đường xầm xì to nhỏ với nhau:
- Người đánh xe trâu
nầy cũng là bạn tù cải tạo!
Chị được để hai giỏ đồ
lên xe còn người thì đi bộ, đi mãi đến chiều tối mới đến K2, nơi chồng chị bị
giam. Trại tù Tân Lập, thuộc tỉnh Vĩnh Phú, nằm giữa dưới thung lũng núi bao
bọc xung quanh thật hiểm trở. Dọc đường rải rác một vài túp nhà lợp lá cọ của
dân. Đường xa, bụng đói, chị vào hỏi thăm mua thức ăn. Nhưng nhìn quanh thấy
trống trơn. Quán nước chỉ có bán nước chè xanh và thuốc lào! Trời lạnh, hai hàm
răng chị đánh vào nhau kêu lộp cộp, chân bị chuột rút không đi được. Vậy mà trẻ
em đi học chỉ mang trước ngực một nồi đất nhỏ có vài đóm than lửa, khoác chiếc
áo mỏng manh tay cầm lá cọ che mưa trông giống hình ảnh chú ếch che dù trong
tranh hí họa!
Đi bộ suốt ngày mỏi
mệt nhưng ai cũng nôn nao trông mau trời sáng để sớm gặp chồng, không chị nào
chợp mắt được. Trong bếp nhà tiếp tân chỉ có ba miếng gạch kê phía sau, một vài
cái nồi cũ méo mó... Nhà tiếp tân bên một dòng suối nhỏ, nước trong veo nhìn
thấy rõ những con cá to bằng cái đĩa bơi lội tung tăng. Hình như chúng không sợ
người. Nhẫn lội xuống lấy nước mang về dùng. Đàn cá cứ nhởn nhơ trước mặt. Có
lúc chúng đùa nhau chạm vào chân, chị đưa tay chụp thì không thể nào bắt được.
Chị đặt tên cho chúng là đàn cá ma!
Buổi sáng, chị dậy sớm
nhóm lửa nấu một nồi xôi đậu xanh có cho bơ và đường giống như xôi vò. Chị vắt
từng cục bằng nắm tay để chồng chị có thể chia cho vài người bạn cùng ăn lấy
thảo. Nửa giờ gặp mặt, vợ chồng đối diện nhau trên một bàn dài, hai đầu bàn có
hai ông cán bộ. Chị không dám nói gì, chỉ sợ họ nghi ngờ rồi sau đó làm tình
làm tội chồng. Chồng chị tuy gầy nhưng đôi mắt còn tinh. Lựa lúc chộn rộn, thân
nhân từ giã tù. Chị đứng sát, hỏi nhỏ vào tai chồng:
- Anh thấy có hy vọng
gì ngày về không?
Chồng chị trả lời:
- Em đừng hy vọng!
Tên cán bộ quát tháo
chấm dứt giờ thăm nuôi. Anh Tâm xách hai giỏ đồ đi về hướng trại tù, chốc chốc
quay đầu nhìn lại. Chị cố cười thật tươi để anh mang theo hình ảnh nầy đi vào
giấc ngủ đêm nay, chị nghĩ thế!
Ra khỏi cổng trại tù,
Nhẫn cố bước nhanh, nhưng đường trơn tuồn tuột. Chị phải cố bấm mười ngón chân
vào bùn cho khỏi ngã. Cơn mưa bụi tháng giêng, những hạt nước nhỏ mong manh bám
trắng dày trên quần áo, trên mặt mũi, đồng tình với những giọt nước mắt tuôn ra
dầm dề. Chị không lau, ngửa mặt đón nhận những giọt nước lạnh tê tái. Lúc ra
đi, chị háo hức gặp chồng, sẽ được nghe những lời động viên an ủi, để chị nuôi
niềm hy vọng, can đảm chống chọi với bao sóng gió cuộc đời, những đêm dài trằn
trọc cô đơn chiếc bóng, gói mền lạnh tanh. Chị vọng tưởng những ngày gia đình
sum họp, hạnh phúc đó có còn trở lại hay không? Lời nói của chồng như nhát búa
chặt đứt, đốn ngã điểm tựa. Chị chới với và người lao đao ngã quị. Trở lại Bến
Ngọc, Nhẫn tựa hồ như không đứng vững nữa, đầu óc choáng váng, mắt hoa lên.
Suốt ngày bụng đói không có món gì. Ngay buổi sáng này, chị nấu xôi cho chồng
nhưng không ăn miếng nào. Chị nằm dưới gốc cây miên man suy nghĩ:
- Không lẽ mình chết ở
đây, xác chôn nơi hốc núi nầy, hay mẹ mình phải lặn lội muôn dặm đường xa để
đưa xác về quê. Chuyện người đàn bà đi thăm nuôi chồng, bị trúng độc trên
chuyến tàu lửa sau khi ăn cái bánh chưng, xác chị ấy được đưa vào bịnh viện
Bạch Mai. Những người bạn đồng hành đã thay chị mang quà vào chốn lao tù cho
chồng chị, nhưng chỉ báo cho anh biết là chị ốm thình lình phải vào bệnh viện.
Biết bao cái chết với nhiều lý do khác nhau trên đoạn đường thăm nuôi nầy.
Thượng đế có thấu chăng! Chị khấn vái xin thần núi linh thiêng phù hộ cho chị
được trở về các con đang trông chờ, che chở mạng sống cho chồng được sớm kết
thúc cuộc lưu đày!
Trong đám người từ
dưới đò bước lên, họ cũng là những người từ Nam ra thăm tù. Một cụ già quần
xoắn tận đầu gối, trơ hai ống chân khẳng khiu như hai khúc củi khô, nhưng bước
đi của bà cứng cỏi vững vàng. Bà bước lại gần Nhẫn hỏi:
- Cháu bị trúng gió
hay sao mặt mày tái xanh vậy?
- Con đói và lạnh quá,
suốt đường dài từ sáng đến giờ không gặp ai bán thức gì để mua ăn!
Bà lão lấy trong túi
lọ dầu thoa cho chị và đưa mấy viên thuốc bảo uống. Chị nghe lời không đắn đo,
linh cảm bà là vị cứu tinh. Uống thuốc vào, khoảng một giờ sau, chị thấy người
khỏe và xuống đò trở lại Ấm Thượng. Đến Ấm Thượng chị mua thức ăn và khỏe dần.
Từ ngày có người đi thăm nuôi, ga Ấm Thượng ngày thêm nhộn nhịp và khởi sắc, có
bán gà sống, mua ngay ở đây đem vào trại thăm nuôi cũng tiện, giá cũng không
mắc lắm!
Phần III
Về lại nhà chị bị ốm
cả tháng trời. Sau lần thăm nuôi đó, suốt nửa năm sau chị không nhận được thư
chồng. Lo lắng đêm không ngủ được. Có tiếng gà gáy, chú gà nòi vừa lú đuôi tôm
tập tành gáy te te, cánh đâm vài lông tơ màu sặc sỡ. Chị đang nghĩ đến chú gà
của thằng út, đôi mắt bỗng cay sè rồi ngủ tiếp. Thức giấc, mặt trời đã lên cao,
con chị đứa lớn đã đi học, thằng bé nhất đang được ngoại cho ăn cháo và đang
rượt đuổi mấy chú gà con.
Một buổi sáng, thằng
cháu dẫn một người đàn ông lạ đến nhà tìm Nhẫn:
- Dì ơi! Có ông nầy
tìm Dì, nói dượng Tâm nhắn chuyện gì đấy!
Nhẫn nhìn người lạ quan
sát để lượng giá, người nầy tìm nàng báo tin gì chưa rõ, nhưng có thể tin được
không? Vì gần đây có một số người tìm đến những gia đình có thân nhân đi tù báo
tin ma, lường gạt nhiều lắm. Người đàn ông lạ lên tiếng:
- Chị có phải vợ anh
Tâm không?
- Dạ phải.
- Anh Tâm bị thương,
đang nằm ở bệnh viện Qui Nhơn.
- Sao anh biết được
tin nầy?
- Tôi đi nuôi thân
nhân ở đó và được chứng kiến họ chở vào những người tù cải tạo bị thương vì bom
nổ trong lúc lao động.
- Chồng tôi đang ở
miền Bắc mà!
- Biết đâu họ mới đưa
vào Nam! Anh ấy nhờ tôi, tôi thấy tội nghiệp, anh Tâm bị thương băng bó khắp
người chỉ chừa hai con mắt. Anh ấy cho địa chỉ tôi mới biết tìm chị đó chứ. Tin
hay không là tùy chị. Thấy chuyện đáng làm thì tôi làm phúc thôi!
- Xin lỗi anh, không
phải tôi không tin, nhưng việc nầy tôi phải báo cho em chồng tôi biết, nó là
đàn ông, nó đi thăm tiện hơn tôi.
Sau đó anh ta từ giã,
Nhẫn có biếu ít tiền xe. Ngày hôm sau ra chợ bán hàng thì chị nghe Bác Mười
cũng có người tìm đến nhà báo tin con Bác bị thương y như thế. Chị kể lại
chuyện xảy ra ngày hôm trước. Bác Mười trai nói:
- Để tao ra Qui Nhơn
dò la ở các bệnh viện xem sao, có tù cải tạo đang nằm
ở đó không, rồi về cho mầy biết sẽ tính sau. Tao rành Qui Nhơn vì trước 75 thầu
thuế chợ ở đó.
Mấy hôm sau Bác Mười
trai về cho biết, trong các bệnh viện tại Qui Nhơn không có tù cải tạo nào
nằm điều trị vì bị bom mìn cả!
Nhẫn tìm đến ông thầy
bói nổi tiếng để hỏi thăm tin tức chồng. Sau khi đặt tiền vào đĩa, Nhẫn hỏi
thầy:
- Tôi định kết hôn với
người tuổi Thân, thầy thấy có hợp không? Làm ăn và con cái sau nầy có nên người
không?
Thầy gieo quẻ rồi trả
lời:
– Bà và người tuổi
Thân nầy đã có ba đứa con rồi, ông ấy đang gặp hạn xấu vô cùng, không biết tin
tức đâu cả. Đang bị giam cầm. Đang bệnh nặng lắm! Người nầy mạng lớn, không
chết đâu, nhưng phải cúng sao giải hạn!
Chị hỏi:
- Tôi có gặp được
người nầy nữa không?
- Hiện nay không gặp
được.
Chị không biết hỏi
thêm điều gì nữa nên đành chào thầy ra về. Trên đường vào Sài Gòn mua hàng,
Nhẫn ghé Xóm Bóng viếng Tháp Bà. Nơi nầy, lúc còn là học trò, chị và anh Tâm
cũng có vài lần xin xâm. Nhìn cảnh cũ thiếu người lòng buồn áo não. Chị van vái
Bà: “Nếu phải chồng con đang hoạn nạn, cho con gánh vác một phần vận xấu đó.”
Sau khi mua hàng từ
Sài Gòn về, trên chuyến xe Lam từ Nha Trang – Ninh Hòa, xe chị bị đâm vào xe bộ
đội ngay trước Tháp Bà. Chị bị gãy cánh tay phải. Người tài xế xe Lam nói với
chị:
- Tôi là tù cải tạo
mới về, mượn xe của ông anh rể kiếm tiền sinh sống, tôi còn trong thời kỳ quản
chế.
Nghe mấy tiếng tù cải
tạo, Nhẫn nghĩ rằng họ cũng cùng hoàn cảnh đau khổ như mình nên nói:
- Anh an tâm, tôi
không làm khó dễ gì anh đâu, anh đưa tôi đến Dân Y viện Nha Trang đi! Có lẽ
phần số tôi như thế!
Chị liên tưởng lời thỉnh
nguyện của mình tại nơi nầy mấy hôm trước có lẽ linh ứng…
Nhẫn được thư chồng,
tay đang bó bột không viết thư hồi âm được, chị lại chẳng muốn báo tin không
vui cho chồng nên nhờ em gái viết thư. Báo hại làm anh Tâm nghi ngờ là chị bị
tai nạn chết rồi. Phải đợi ba bốn tháng sau, tay cầm bút được, chị mới cho
chồng biết tin tai nạn đã qua!
Nhìn khóm mai vàng
trước cổng, Nhẫn nói vói mẹ:
- Năm nay cây mai nhà
mình nhiều nụ quá, nụ vừa hé hé, nở đúng giao thừa đó má!
- Ừ! Sẽ có điềm may
mắn cho gia đình mình!
Đã mấy năm rồi chị
không nghĩ đến đi hái lộc đầu năm. Năm nay chị lại nhớ lời Ba lúc còn sống, ông
nói: “Năm nào ăn Tết càng lớn, năm đó lộc vô càng nhiều. Đầu năm mình sốt sắng
đi lễ Phật thì năm đó mình có nhiều điều may”. Cũng không hẳn là vì muốn lợi
lộc, nhưng bỗng nhiên lòng chị rung động một thứ tình cảm êm ái khi ngọn gió
Xuân man mác chờn vờn trên da thịt. Chị trang điểm tô phớt một lớp phấn hồng,
mặc lại chiếc áo dài có đến mười năm rồi chị mới cầm lại. Chị ốm hơn
xưa nhiều, áo rộng nhưng xem cũng tạm.
- Má ơi! Năm nay xuất
hành hướng nào?
- Nếu con muốn tài lộc
thì đi hướng chánh Đông, muốn tin vui thì theo hướng Tây gặp Hỷ Thần.
- Đi hướng Tây là mình
về Chùa Thiên Bửu luôn hở má!
- Phải đó!
Đến chùa, sau khi lễ
Phật, chị chào Thầy Trụ Trì. Sư cụ năm nay có đến tám mươi tuổi. Lần về hướng
hồ sen khi mọi người còn đang trong chánh điện hay trước sân chùa ngắm hoa và
chiêm ngưỡng các hòn giả sơn. Sen mùa nầy không hoa nở nên chẳng có ai ra hồ.
Hai mắt chị chăm chú nhìn xuống hồ, ngọn gió nhẹ thổi qua làm chao động mặt
nước lúc ẩn lúc hiện như có bóng ai dưới đáy hồ lung linh mờ ảo! Phải chăng là
người thanh niên hái hoa “forget me not” cho người yêu. Trong phút giây người
đàn bà chạnh lòng than thở:
“Chung quanh những đá
cùng cây Biết người tri kỷ đâu đây mà tìm”.
(Tản Đà)
Tiếng pháo đì đùng từ
vài ngôi nhà gần Chùa, Nhẫn vội quay gót về nhà, chị lo thằng con cả đưa em đi
lượm pháo Tết, có lần chị thấy nó lượm pháo lép, xé giấy lấy bột thuốc dồn lại
gói thành pháo lớn. Nó đốt, hai đứa em chụm đầu vô xem, hú hồn tí nữa là cháy
cả mặt. Chị thầm van vái chồng chị sớm về để dạy dỗ các con. Chúng mỗi ngày một
lớn. Chị phải chạy lo ngược xuôi kiếm gạo, khó mà chăm sóc ba đứa con về phương
diện học hành, một tiếng của cha cũng bằng ba của mẹ!
Sự cầu nguyện hàng đêm
của người đàn bà đau khổ như cũng làm cảm động lòng trời. Vào một mùa Đông giá
buốt, nếu có ai tò mò nhìn qua khe cửa của căn nhà vách đất nghèo nàn kia, sẽ
thấy năm mái đầu chụm vào nhau chung quanh chiếc bàn con, ngọn đèn được khêu tỏ
ngọn, bên cạnh một hỏa lò nhỏ than hồng lách tách nổ vui. Một người đàn ông tóc
đã ngả màu đang đọc cho các con nghe tập bút ký của chị Cò quanh năm tần tảo
nuôi con, vượt núi trèo non nuôi chồng trong các trại tù từ Nam ra Bắc!
Mỹ Hiệp
No comments:
Post a Comment