Tay
công an hất hàm về phía anh thanh niên :
– Đi
về mày đừng cà chớn, bị hốt lần nữa là chết mẹ mày với tao
Giọng
nói miền Bắc đánh thức người thanh niên đang mơ mơ màng màng . Anh vội vàng
đứng dậy quay gót không quên nhoẻn miệng chào :
–
Cám ơn đồng chí.
–
Biến !! ai đồng chí với mày ?
Viên
công an cáu kỉnh phảy tàn thuốc lá đang hút dở về phía cửa xua như xua ruồi .
Không ai trong cái đồn công an ở chợ cảm tình với người thanh niên vừa được thả
. Phần lớn tại màu da đen và mái tóc quắn rất đặc điểm của dân Phi Châu khác
hẳn người bản xứ . Anh con lai có nửa phần máu da đen hậu quả câu chuyện ngang
trái giữa cô gái miền Nam nào đó và một anh lính Hoa Kỳ trong số nửa triệu quân
Hiệp Chúng Quốc có mặt ở VN thời chiến tranh . Chàng Mỹ da đen để lại trong
lòng người thiếu nữ cái bào thai oan nghiệt rồi leo lên máy bay về nước .
Có lẽ
cũng chẳng tình cảm gì giữa cặp trai gái (không biết sao dân Việt Nam ít cảm
tình với da đen , chắc bởi ảnh hưởng tàn ác của lính gạch mặt trong quân đoàn
Lê Dương thời Pháp thuộc). Người ta đoán cô gái chắc là gái quê vì chiến tranh
nên trốn gia đình lên Sài Gòn tìm kế mưu sinh . Cuối cùng may mắn (hay tai hoạ)
xin vào làm dọn dẹp trong một khách sạn của quân đội Mỹ . Mỹ ở khách sạn hẳn
thuộc giới sĩ quan và trong một phút say rượu nhớ nhà thấy cô bồi phòng nhỏ
nhắn nhút nhát đã đè con người ta xuống tâm sự !!!
Mang
bầu với một lính Mỹ da đen thì gan bằng trời cũng không dám trở về quê . Thời
đó người Việt Nam bị ảnh hưởng quá nặng văn hoá Tàu, tôn thờ mấy ông TỬ (đặc
biệt là Khổng Tử) lên hàng thánh nên nếu có một đứa con gái lấy chồng ngoại
quốc thì coi như nhục (thiếu điều đội quần lên đầu) nói gì tới chửa hoang mà lại
chửa hoang với Mỹ Đen . Người con gái nào rơi vào trường hợp này tốt nhất coi
như mình không có cha mẹ, bà con thân thuộc gì và khôn hồn đừng bao giờ vác mặt
về quê hương làng xóm – kể cả khi cha mẹ qua đời – nếu không muốn bị cạo đầu
bôi vôi .
Bà
mẹ của anh thanh niên dù sao vẫn còn chút lương tâm không nở phá thai giết chết
đứa con ruột của mình nên đã đơn thân độc mã bươn chải giữa Sài Gòn hoa lệ cố
gắng sống . Người Sài Gòn không ghét hay kỳ thị ai hết nên sẵn lòng giang tay
ra giúp đỡ . Bà Sáu cho lon gạo, ông Tư chở đi nhà bảo sanh khám thai không
tính tiền , vợ chồng anh chị An cảnh sát nhét phong bì đựng vài trăm qua kẹt
cửa mà vô tình người đàn bà cô quả thấy được . Không đêm nào cô không khóc vì
xúc động .
Chui
rúc trong một căn phòng nhỏ xíu cô ráng sắm cho mình xe thuốc lá lẻ bán kiếm
sống . Thời gian càng lâu bào thai càng lớn cô bày hàng một ngày nghỉ ba ngày .
Bà con hàng xóm nhất là bà Sáu chạy qua chạy lại như má ruột chăm sóc con đẻ
của mình . Bà cứ khuyên nhủ :
–
Đừng khóc nhiều không tốt cho đứa nhỏ !!
Bà
mua cho cô chai Nhị Thiên Đường, xức lên trán lên ngực bụng để tránh gió máy ,
nấu cháo cho cô ăn . Nhiều lần cô ôm bà khóc nức nở :
-Bà
Sáu ơi con nhớ má con quá !!!
Và
những lúc như thế bà lại nhắc :
–
Đừng khóc nhiều không tốt cho đứa nhỏ !!
Hồi
đó trong xóm có anh lính Biệt Động Quân hay lấy cớ mua thuốc lá lẻ rồi quên
tiền thối . Thỉnh thoảng anh mua cho cô vài trái cam , ổ bánh mì thịt để trên
xe thuốc rồi bỏ đi trước khi cô kịp từ chối . Anh nói :
– Chị Hai cứ ăn đi mà giữ sức khoẻ cho em bé.
Hôm
xe nhà binh chở quan tài anh về trước ngỏ, cô té xỉu , khi tỉnh lại – nhờ bà
con giựt tóc mai – cô chợt nhớ mình chưa có dịp cám ơn và hỏi thăm tên tuổi anh.
Chiến
tranh mà !! thanh niên chết hàng ngày cho nên sau đó rồi cô cũng nguôi ngoai .
Cô lại tiếp tục đẩy xe thuốc lá lẻ ra ngoài ngỏ mặc dù bụng đã lớn vượt mặt, có
bữa mệt quá hàng xóm thấy chuyện lại hô hoán nhau vực cô về nhà rồi chỉ định
thằng Tèo con ông Ba thợ mộc ngồi thế chỗ cho đến tối dọn dẹp và giao nộp tiền
bán trong ngày . Tèo không tính công nhưng sung sướng vì làm được việc thiện mà
cô giáo Thanh dạy trong trường . Những hôm đó bà Sáu dẹp hàng về sớm lo coi sóc
và nấu miếng cháo thịt có nhiều gừng (chị Hai thớt heo biếu ba trăm gram) cho “con
nhỏ ăn ấm bụng , tội nghiệp !!”
Tình
cảm dân nghèo lao động trong một con hẻm với nhau dù không họ hàng gì, làm ấm
lòng bà mẹ trẻ . Cô ngày nào cũng nhớ má muốn đứt ruột , nước mắt cứ trào ra
mỗi bữa cơm nhưng không gom nổi can đảm mua vé xe về quê. Chưa kịp báo hiếu lại
mang cái bụng chửa thè lè không có chồng bên cạnh thì chỉ mang nhục chớ ích lợi
gi mà về . Cứ nhìn bà Sáu là nhớ má quay quắc . Nhớ những bữa má nấu canh chua
, mắm ruốc xào chấm rau đồng ăn quên thôi , nhớ má nhai trầu nhổ phẹt phẹt, xịt
nước tắm heo , nhớ ôm eo má, hôn má thơm mùi ngai ngái trầu cau . Nhớ chết được
!!
Vậy
mà chưa bao giờ cô nghĩ tới cha đứa nhỏ, người đã gieo mầm oan nghiệt vào đời
cô . Cô chỉ mang máng về hình dáng một chàng trai da đen cao ráo lịch sự , ăn
nói nhỏ nhẹ nhưng không hiểu anh nói gì. Anh mang trên cổ áo hai gạch bạc liền
nhau . Cô từng dọn dẹp phòng anh vài lần , riêng hôm đó cô thấy anh ngồi uống
rượu một mình hai tay ôm đầu khóc . Gặp cô anh nói một tràng dài như muốn kể lể
chuyện gì , rồi anh ôm lấy cô nhẹ nhàng . Cô chợt cảm thấy mình trở nên nhỏ bé
trong vòng tay anh, cơ thể bị tê liệt rồi không biết chuyện gì xảy ra . Sau đó
cô sợ hãi ôm quần áo chạy ra khỏi phòng , bỏ hẳn việc làm không bao giờ trở lại
nữa . Hai tuần sau cô thấy trong mình hơi khác lạ, kinh nguyệt không có và cô
nhận ra sự thật . Tháng đó cô không dám gởi tiền về cho ba má như mọi khi .
Đủ
ngày đủ tháng , chiều hôm đó cô nghe bụng đau râm râm , sợ quá cô gọi thất
thanh :
– Bà
Sáu ! bà Sáu
Cũng
may bà Sáu hôm đó về sớm nghe tiếng réo hớt hơ hớt hải chạy sang liền . Bà nhìn
hiện trường rồi lập tức gọi ngay chú Tư xích lô máy . Trời thương nên ai cũng ở
nhà , mấy người hàng xóm xúm lại phụ một tay đỡ cô lên xe rồi chú Tư chở bà Sáu
và cô trực chỉ bảo sanh viện Từ Dũ . Vài tiếng đồng hồ sau thằng Lai ra đời …
Gọi
nó là thằng Lai thật phải đạo , tóc không nhiều mà quăn tít, da đen bóng không
giống mẹ nhiều tại di truyền của cha mạnh quá lấn át hết . Thằng nhỏ không khóc
cô y tá phải vỗ đít nó bốp bốp mấy cái mới chịu oe oe chút xíu rồi lăn ra ngủ .
Bà Sáu một tay chăm đứa nhỏ trong khi mẹ nó thiếp đi vì kiệt sức . Trong thâm
tâm bà già thấy tuy lai đen mà thằng nhỏ nhìn dễ thương . Bà tính khen ” coi bộ
cũng sáng sủa dữ ” nhưng chợt nhớ tới màu da của nó nên ngưng ngang .
Về
nhà bà lại một tay lo cho mẹ thằng Lai nằm than . Hàng xóm ai rảnh thì phụ hợ
nhau thay tã , nấu thịt kho tiêu cho bà đẻ, chẳng ai phiền hà gì hết trái lại
còn có vẻ khoái trá . Như thằng Tèo cứ xin phép bà sáu cho được ẵm em bé một
chút thôi ” Con ẵm chắc tay lắm, bá Sáu đừng lo ” . Thấy “con ếch ” Tèo ẵm ”
con nhái ” Lai, bà cũng lo ,mắt cứ chăm bẵm theo dõi sợ nó xẩy tay thì mệt .
Hôm
làm khai sanh cho thằng nhỏ bà đứng ra lo hết , nhưng đều hỏi ý kiến người mẹ
muốn khai tên con là gì. Thằng nhỏ mang họ Nguyễn của mẹ còn tên thì cứ theo
màu da mà đặt . Cuối cùng thằng công dân mới tinh của cái xóm nhỏ nghèo mà đầy
nghĩa tình mang tên đầy đủ là Nguyễn Thanh Lai (Thanh lấy từ chữ lót của ông
ngoại nó) .
Thằng
Lai dễ nuôi dễ sống không quấy rầy gì mẹ nhiều . Nó cứ bú no rồi ngủ không khóc
đêm , không quậy phá . Thấy mẹ nó ốm yếu hàng xóm (phần chắc là vợ chồng anh
chị An cảnh sát không có con) mua cho vài hộp sữa Ông Thọ dậm thêm .Thằng Lai
chẳng dị ứng gì hết quất láng nhờ vậy càng ngày càng tròn .
Ban
ngày mẹ nó trùm chặt đem theo để kế bên thùng thuốc lá lẻ . Nó đói thì cứ vạch
vú ra cho bú, bú no lại lăn ra ngủ . Dạo này mẹ nó nấu thêm xôi đậu phọng và
khoai lang khoai mì luộc . Cực quá khiến cơ thể ngày càng gầy rạc , nhưng phải
chịu chứ biết sao . Nhiều lúc muốn liều ẵm con về quê mà không nở làm ba má
buồn . Cũng có khi muốn bỏ con cho Cô Nhi Viện nhưng cứ nhìn tay chân con mặt mũi
con lại đứt ruột .
Một
buổi sáng bà mẹ trẻ vươn mình ngồi dậy mà không nổi . Thân thể tay chân cứng đờ
, dở không lên, cô hốt hoảng . Hàng xóm xúm lại cạo gió giật tóc mai mà không
đỡ, cuối cùng chú Tư xích lô máy chở thẳng vào nhà thương . Chú Tư phụ với bà
Sáu ở lại chăm sóc cho tới khi y tá bệnh viện gọi trên máy phóng thanh ” Ai là
thân nhân của Nguyễn Thị Được lên văn phòng gấp ” , cả hai cùng hồi hộp không
biết chuyện gì xảy ra . Cho tới khi nhận được tin “Chúng tôi rất tiếc người
bệnh tới nhà thương trễ quá !! ” thì bà Sáu té xỉu cái đùng ! Chú Tư thì khóc
rối trí không biết phải giải quyết làm sao với người chết và người ngất .
Cả
xóm hùn nhau lo ma chay cho mẹ thằng Lai mà tới bây giờ ngoài bà Sáu mới biết
tên thật là Nguyễn Thị Được . Thằng Lai chẳng quan tâm cứ bú ” Ông Thọ ” và ngủ
li bì . Tội nghiệp thằng nhỏ vấn vành khăn tang trên đầu khiến ai cũng lắc đầu
thương xót . Có người trách móc ông Trời , có người chửi cha thằng Lai ” Quân
vô lương tâm !” nhưng cũng có người chắc lưỡi ” Đây rồi thằng nhỏ sống ra sao
?…”
Sau
ma chay cho cô Được bà Sáu đem thằng Lai về nuôi . Bà có chồng nhưng không con
nên bà cũng thương thằng nhỏ , còn ông thì hơi khó chịu mặc dù không ghét ra
mặt vì mái tóc xoắn và màu da của tụi Tây đen Lê Dương Pháp hay đi càn bố dân
quê miền Nam khi xưa . Ông phàn nàn ” Chuyện người ta tư nhiên nhảy vô gánh ,
thiệt là bà rảnh quá !! “
Cuối
cùng bà Sáu chịu hết nổi phải ra chùa đốt nhang tâm sự với cô Được :
–
Con có sống khôn thác thiêng về phù hộ cho thằng nhỏ , bà xin lỗi con chắc bà
sẽ giao cháu cho viện mồ côi …
Rồi
bà đợi ngày rằm tháng tốt ẵm thằng bé cùng với tờ khai sanh nhờ chú Tư Xích Lô
Máy rành đường chở bà đến Cô Nhi Viện của mấy bà Phước . Bà quỳ xuống chắp tay
lạy mấy bà năn nỉ :
– Dạ
thưa Ma Sơ , mẹ của cháu chết rồi mà tui nuôi không nổi . Nay xin nhờ Ma Sơ
nhận dùm cháu , tui sẽ ăn chay cầu trời khấn Phật Amen Chúa phù hộ độ trì cho
mấy Ma Sơ (bà còn tính thêm buôn may bán đắt nhưng ngưng kịp !!)
Bà
Sơ cỡ trên dưới năm mươi tuổi hiền từ mỉm cười đưa tay ẵm thằng Lai :
– Dạ
không sao đâu bác . Cô Nhi Viện sẽ lo hết cho cháu.
Sẵn
trớn bà Sáu đưa luôn tờ khai sanh :
– Dạ còn đây là giấy tờ khai sanh xin gởi luôn cho Ma Sơ.
Chiều hôm đó bà Sáu bỏ cơm , cả xóm yên lặng không ai thấy ông Sáu đâu hết . Ổng biến mất vì sợ hàng xóm láng giềng nói bóng nói gió : Người thiếu lòng nhân đạo !!!
Rồi
thằng Lai bắt đầu cuộc sống trong Cô Nhi Viện do mấy bà sơ phụ trách . Trời
sinh trời dưỡng thấm thoát mà nó lớn lên lúc nào không biết . Thỉnh thoảng bà
Sáu , vài cô bác ở xóm có ghé thăm mua cho vài hôp sữa . Cuối cùng không thấy
ai ghé thăm nghe nói đâu chừng bà Sáu dọn nhà đi mất .
Lai
sinh vào tháng Ba 1968 . Đến 1975 mấy ông bộ đội tiến vào giải phóng miền Nam
giải phóng luôn Cô Nhi Viện nằm trong vùng Thủ Đức . Nó càng lớn càng giống
người cha Mỹ Đen bỏ chạy hơn là bà mẹ Việt Nam . Nó không biết ai là gia đình
dòng tộc của mình ngoại trừ những bà Ma Sơ mà ngày nào cũng chăm sóc cho gần
bốn mươi đứa con nít không cha không mẹ, trai có gái có Việt Nam rặt cũng có mà
lai Đại Hàn hay Mỹ Đen cũng có . Trai gái được chia ra ở riêng .
Phụ
trách đám mồ côi bên con trai là hai Ma Sơ : Ma Sơ An Na và Ma Sơ Tê Rê Sa ,
còn bên phía nữ là Ma Sơ Lu I Sa và Ma Sơ Cờ La Ra . Tất cả dưới quyền của Mẹ
Ma Sơ Ma Ri A một người đàn bà hơi lớn tuổi và nghiêm khắc . Lai cũng như các
bạn khác theo sự hướng dẫn gọi bà là Mẹ .
Ma
Sơ Tê Rê Sa là một nữ tu nhỏ nhắn chừng trên dưới hai mươi lăm , đặc trách chăm
sóc mấy đứa con trai, lớn nhất là anh Chí Ròm mười lăm tuổi . Ma Sơ hay cười và
gọi đám con nít là các em . Cô dạy mấy đứa tập đọc làm toán và thỉnh thoảng
thưởng đứa nào giỏi cây bút chì hoặc cục gôm mới tinh . Mặc dù đám trẻ hay
nghịch nhưng chưa bao giờ cô phạt, quá lắm thì Ma Sơ ôm mặt khóc , những lần
như vậy cả lớp im phăng phắc con ruồi bay ngang cũng nghe tiếng . Được cái khóc
đó nhưng vài phút sau cô lại cười đùa chơi giỡn với đám trẻ bình thường trở lại
.
Ma
Sơ Tê Rê Sa đặc biệt thương thằng Lai . Thỉnh thoảng cô bẹo má nó, móc trong
túi áo chùng thâm cây viết chì màu dúi vào tay thằng nhóc năm tuổi đầu khen
ngợi tài vẽ đẹp . Cô hay xoa đầu nó lẩm bẩm ” Tội nghiệp con ” . Nó cũng thương
cô như một người mẹ vì nó chưa bao giờ biết mẹ mình là ai huống chi tình cảm mẹ
con . Mới năm tuổi nhưng nó dơ nắm đấm đe dọa mấy đứa hay lì lợm không nghe lời
Ma Sơ . Đứa nào cũng sợ vì nó to con và rõ ràng là rất mạnh . Thỉnh thoảng Cô
Nhi Viện mở cửa cho người ngoài vào thăm . Bọn con nít ăn mặc sạch sẽ , đầu tóc
chải gỡ đàng hoàng hy vọng sẽ có người nào đó chịu nhận về làm con nuôi . Vài
đứa gặp may mắn rồi , nhất là phía con gái . Nhưng khách cứ tới chỗ thằng Lai
thì bước nhanh sang phía khác . Nó nhìn những ông bà buột miệng gọi ” Ba, má ”
ao ước họ sẽ cười , ẵm lên , hôn và vuốt tóc nó. Rồi thấy người ta bỏ đi luôn
nó tủi thân ôm mặt khóc . Ma Sơ Tê Rê Sa từ đâu bỗng xuất hiện chạy tới ôm nó
vuốt mái tóc xoăn tít vổ về ” Tội nghiệp con tôi, tội nghiệp con tôi …” Nó oà
lên trong vòng tay của Ma Sơ ao ước Ma Sơ là mẹ mình để mình ôm hôn . Thỉnh
thoảng nó vẽ gương mặt Ma Sơ dưới vòng lúp đội đầu giống hình mấy bà Thánh treo
dọc hành lang . Nét vẽ con nít giản dị nhưng đủ sức làm Ma Sơ rươm rướm nước
mắt .
Thực
ra thì cuộc sống trong Cô Nhi Viện không có gì phải phàn nàn . Bọn nhóc được ăn
uống đầy đủ có cả sữa tươi do lính Mỹ đóng gần đó cung cấp . Ăn sáng xong chúng
xếp hàng lên lớp học giống như sinh hoạt trong trường Thiếu Sinh Quân ở Vũng
Tàu và mọi chuyện được điều hành tốt đẹp từ khi thành lập tới bây giờ là nhờ
vào khả năng của người khai mở : ông cha Giu Se .
☆
Cha
Giu Se mới trên dưới bốn mươi lăm chịu chức Linh Mục hơn mười năm . Đặc điểm
của ông là chưa kịp nhìn thấy người đã nghe tiếng cười oang oang sảng khoái .
Cha Giu Se con một gia đình giàu có phú hộ dưới miền Tây, trốn cha mẹ đi tu
theo Công Giáo cuối cùng thành linh mục khiến ông bà Huỳnh Văn Báu khóc hết
nước mắt . Ai đời có mỗi đứa con trai nối dõi cho ăn học theo Tây U để kịp tiến
bộ với đời, cuối cùng nó bỏ hết cha mẹ tài sản đi tu đạo Chúa . Nó bỏ thánh
hiền các đức Khổng, đức Mạnh, đức Quan Công bên Tàu, bỏ luôn cả tổ tiên ông bà
. Rồi sau này ông bà về miền tiên cảnh ai sẽ lo cúng quảy nhang đèn ? Nghĩ tới
đó là bà khóc rống lên , đổ thừa ông cho con theo Tây học . Ông thì thúi ruột
nghĩ tới dòng họ Huỳnh từ nay tuyệt tự . Đạo ông bà sao nó không chịu giữ ? đất
đai tài sản cò bay thẳng cánh sau này khi ông bà về tiên cảnh sẽ để lại cho ai
. Lẻ ra tất cả sẽ thuộc về con trai Huỳnh Ngọc An và vợ con nó. Bây giờ càng
nghĩ càng nhức đầu…
Huỳnh
Ngọc An rất hiểu tâm sự cha mẹ như hầu hết người dân miền Nam về chuyện
thừa kế , chuyện nối dõi tông đường . Hồi mới lên Sài Gòn học anh cũng muốn
mình theo con đường phụ mẫu mong mỏi : học thành tài lấy vợ sinh con, trở về
quê chăm sóc tài sản, y như ngày xưa cha đã làm theo ý ông nội …
Cho
tới cái ngày định mệnh dẫn dắt anh đi ngang qua ngôi nhà thờ cổ , nằm cô đơn
trên góc đường ít người qua lại . Anh đã đi ngang qua đây vài lần nhưng hôm nay
một điều gì đó lôi kéo anh bước vào bên trong . Vòm nhà thờ cao vút trên tường
treo hình ảnh vẽ lại một người đàn ông vác cây thập tự. Cũng chính người đàn
ông đó giờ bị treo tay chân lên một cây thập tự khổng lồ giữa nhà thờ . Theo những
điều học hỏi trong sách vở anh biết người ấy tên là Giê Su giáo chủ của đạo
Thiên Chúa nhưng anh chỉ biết đến đó .
Anh
ngồi xuống và khi ngước lên mắt anh chạm vào tượng một người phụ nữ ăn mặc đơn
sơ trong trang phục màu xanh trắng , hai bàn tay xoè ra , cánh tay giang rộng
như muốn mời gọi tất cả đến với mình . Sự giản dị trong cung cách , nét hiền
dịu trong vẻ mặt giống như ảnh Phật Bà Quan Âm cầm bình nước cam lồ mà nhà anh
hay treo trên đầu sập gụ . Nụ cười hiền hoà trên khuôn mặt bà làm anh bất giác
mỉm cười và gật đầu chào…
Vài
ngày sau anh trở lại ngồi đúng vào chỗ anh đã ngồi vài hôm trước , gật đầu chào
người phụ nữ – mà anh gọi là Bà Đẹp – và bắt đầu mở sách ra học . Anh không
quan tâm đó là tượng ai cho đến khi mắt anh đọc dòng chữ Latin ghi dưới chân
tượng ” Regina Pacis” (Nữ Vương Hoà Bình) và chú ý đôi
bàn chân bà đứng trên quả địa cầu đang đạp đầu một con rắn .
Từ
đó anh hay ghé ngôi nhà thờ tìm sự yên lặng suy nghĩ về cuộc đời và đôi khi
chợp mắt một chút . Có lúc trong mơ anh gặp ông Giê Su có lúc anh thấy cả Bà
Đẹp . Một lần anh nhớ Bà mỉm cười mở rộng đôi tay khẽ nói với mình “Hãy theo Ta
“
Ngày
anh nhận điện tín báo tin má bệnh nặng . Anh hết hồn tức tốc mua vé xe đò về
quê sợ không kịp nhìn mặt .
Xe
chạy ngang qua ngôi nhà thờ , đột nhiên anh bảo tài xế ngừng lại và bước vội
vào rồi quỳ dưới chân Bà Đẹp mà năn nỉ:”Bà ơi xin bà cứu chữa cho má con rồi Bà
muốn gì ở con cũng được !!!”
Về
tới nhà anh chạy ào vào thấy má nằm thoi thóp anh quỳ dưới chân giường nắm tay
má mà khóc . Giá như anh đánh đổi sinh mạng mình để má khoẻ mạnh bình thường
thì anh cũng không hối tiếc . Nhìn thấy ngực má thoi thóp , hơi thở khó nhọc
anh sợ quá ngất đi . Ba đỡ anh ngồi lên ghế thúc đầy tớ làm ly trà chanh đường
nóng mớm anh mới hồi tỉnh lại. Anh cứ ở bên má như vậy lúc ngủ lúc thức cho tới
sáng hôm sau .
Má
mở mắt mỉm cười nhìn đứa con trai yêu của má . Hơi thở coi bộ nhẹ nhàng hơn ,
sắc mặt hồng hào một chút , má hỏi :
–
Dìa hồi nào dậy con
Huỳnh
Ngọc An ôm má khóc :
– Má
khoẻ chưa má …
– Má
thấy đỡ nhiều lắm rồi . Hôm qua má tưởng mình đi luôn không kịp nhìn thấy con .
Có cái bà nào đó đẹp lắm nhưng không quen biết gì đến lấy tay đặt lên trán má
trong lúc ngủ làm má khỏe luôn…
Bà
má không quen nhưng ông con Huỳnh Ngọc An thì biết má mình đang nói về ai vì
mấy ngày nay anh cứ năn nỉ Bà Đẹp liên tục .
Trở
lên Sài Gòn An bận bịu việc học hành nên không còn thì giờ ghé thăm ngôi nhà
thờ cổ kính và Bà Đẹp gần cả năm trời . Thời gian nầy chiến tranh bắt đầu lan
rộng, tình hình không an ninh nữa . Huỳnh Ngọc An nhân nghỉ hè về quê thăm gia
đình cùng tá điền ra ruộng . Lớ ngớ thế nào bị dính lựu đạn gài nổ tung làm
người tá điền banh ruột chết tại chỗ còn Huỳnh Ngọc An bị miểng xuyên qua lồng
ngực phải đưa ra bệnh viện tỉnh cấp cứu . Trong những ngày nửa mê nửa tỉnh này
chàng thanh niên chợt nhớ lại lời mình hứa.
Bình
phục, An trở lại ngôi giáo đường thăm Bà Đẹp và bắt đầu tìm hiểu về Đạo Thiên
Chúa . Càng đọc càng mê và cuối cùng sau thời gian gần cả năm trời suy nghĩ An
quyết định chọn theo con đường của ông Giê Su – mà anh giờ đây gọi là Chúa –
anh càng ngày càng siêng năng gặp gỡ, tâm sự với Bà Đẹp – Anh gọi Bà là Mẹ như
mọi người Công Giáo vẫn làm…
Cha
Giu Se khi chịu chức còn trẻ lắm . May cha kịp rửa tội , đưa hai ông bà Joachim
và Anna lên Thiên Đàng trong một thánh lễ trước khi chết (cha thi hành bổn phận
của con cái với hai ông bà cố – cũng không hiểu tại sao người ta cung kính xưng
hô song thân mình như thế) . Những ngày tháng đầu tiên cha cảm thấy ít thoải
mái khi nhiều người già cúi chào thật sâu , xưng CON và kêu mình bằng CHA . Cha
hốt hoảng nhưng riết rồi cũng quen .
Tài
sản của ông bà Joachim và Anna đúng ra thuộc hết về cha nhưng cha giao cho
người em gái mình cai quản . Tiền bạc đối với cha giống như một gánh nặng hơn
là niềm vui – không hẳn vì lời Chúa dạy trong Phúc Âm hay tuân theo điều răn
khó nghèo của Linh Mục mà đơn giản là cha không biết xử dụng tiền bạc vào cái
gì . Từ nhỏ cho tới khi ra đời cha sống trong sự lo liệu của song thân chưa bao
giờ bị túng thiếu nên tiền bạc đối với cha giá tri không hơn một tờ giấy lộn là
mấy . Cha Giu Se thương con nít . Cha gọi con nít là những Thiên Thần (không
tin thì hãy nhìn vào những đôi mắt của chúng) . Nhất là những trẻ mồ côi .
Chuyện như vầy :
Hôm
đó mới sáng sớm ông từ giữ nhà thờ chạy tới đập cửa phòng cha rầm rầm :
–
Cha Giu Se ơi , thưa cha Giu Se… Lạy Chúa tôi…
Đang
quỳ gối cầu nguyện cho giờ kinh sáng cha hốt hoảng mở cửa hỏi :
– Gì
thế bác Năm ?
Ông
từ Năm đưa cái bọc ông đang ôm trong hai tay :
–
Thưa cha có ai bỏ cái bọc này trước cửa nhà thờ…
Cha
Giu Se vén rộng hai bên bọc : một gương mặt sơ sinh mới chừng vài tuần đẻ nhìn
lên . Điều này thật bất ngờ khiến cả hai người đàn ông điếng hồn . Cha Giu Se
đưa tay đỡ, ôm bọc vào trong lòng không nghĩ ra được phải làm gì với hài nhi
oan trái của ai đó . ….
Ông
từ Năm sống côi cút cả chục năm vì vợ chết được cha Giu Se thương tình cho ở
trong góc chái bên nhà kho để lo cơm nước. Ông cũng chẳng bao nhiêu kinh nghiệm
nuôi con nít vì hai vợ chồng hồi đó chưa kịp có con . Bây giờ nhiệm vụ của ông
là lo thêm một miệng bú ngoài ông và cha Giu Se .
Cuối
cùng cha phải gởi đứa nhỏ vào Cô Nhi Viện , nhưng ngay sau đó cha chợt nẩy ý
nghĩ là sẽ lập một Cô Nhi Viện tự mình chăm sóc…
Có
một khoảng đất hoang rộng sát bên nhà thờ thuộc sở hữu quận . Cha Giu Se làm
đơn xin mua lại giá rẻ, gặp ông quận trưởng cũng là con chiên ngoan đạo nên mọi
chuyện giấy tờ dễ dàng . Ông quận sốt sắng giao bằng khoán còn làm dấu thánh giá
xin cha ban phép lành cho . Thời buổi chiến tranh cẩn tắc vô áy náy – ông quận
nghĩ vậy.
Cha
Giu Se huy động thanh niên trong xóm phụ với cha làm sạch mặt bằng rồi dựng căn
nhà lớn chia nhiều phòng . Lúc đó con chiên mấy ông trùm, ông từ, các bà mẹ Công
Giáo và những thanh niên thiếu nữ hội Con Đức Mẹ mới biết cha Giu Se mở Nhà Mồ
Côi cho con nít – đặc biệt những em nạn nhân chiến cuộc.
Hôm
khánh thành ông quận dẫn bà vợ dân Sài Gòn đến tham gia . Bà này trẻ đẹp mà
bình dân cùng lần một tràng Mân Côi với giáo dân địa phương . Bà còn móc
ví lấy mười ngàn bỏ thau ; ông quận tính bỏ hai ngàn, thấy bà vợ liếc sắc lẻm
bèn rút trong bóp gom cho đủ năm ngàn . Buổi tiệc chiêu đãi quan khách gồm có
bánh mì thịt nguội và Coca Cola do cố vấn Mỹ cung cấp . Nghèo mà vui !! (tiền
mua đất là do cha năn nỉ với em gái chứ cha Giu Se chỉ có cây Thánh Giá và
tràng hạt Mân Côi làm của)
Mới
đầu mấy bà mẹ Công Giáo và các thiếu nữ hội dòng Con Đức Mẹ xung phong phụ cha
còn cha đi lang thang xin chỗ này một ít xin chỗ kia một chút làm vốn phát
triển . Từ từ công trình trở nên khang trang rộng rãi chứa được gần chục đứa từ
sơ sinh cho tới vài tuổi . Nhiều lúc cha phải về quê năn nỉ em gái hỗ trợ . Cô
Mát Tha em gái – chịu rửa tội sau khi cha mẹ qua đời – gặp cha Giu Se là cười :
– Dữ
hôn , lâu mới thấy anh . Khoẻ hôn ? ở chơi bao lâu ? chiều nay em bắt con gà
nấu cháo đãi , còn dư thì đem chia cho ông (từ) Năm dùng với !!
Rồi
chiều đến cô nói nhỏ với anh mình :
– Nè
, anh cầm chút quà về lo công chuyện!! anh không phải cám ơn em đâu !! của cải
ba má để lại làm việc tông đồ đó .
Và
lần nào sau khi vun quén cho Nhà Mồ Côi cha Giu Se vẫn còn dư chút đỉnh để giúp
cho mấy gia đình nghèo .
Nhưng
rồi các bà mẹ Công Giáo và thiếu nữ hội Con Đức Mẹ không phải chuyên nghiệp
chăm cho cả chục đứa con nít nên từ từ bỏ cuộc . Cuối cùng cha Giu Se xin với
Giám Mục cử vài Ma Sơ có huấn luyện bài bản đến phụ . Mới đầu được hai Ma Sơ ,
sau thấy không xuể vì con nít chạy giặc chết cả cha mẹ xảy ra thường xuyên phải
điều động thêm một Bề Trên và hai Ma Sơ nữa mới xoay việc suôn sẻ.
Có
những đứa được nữ quân nhân Trợ Giúp Xã Hội đem đến , nhưng đa số do chính cha
Giu Se đem về từ các trại tị nạn . Hàng ngày sau bổn phận chủ chiên cha thường
đạp xe loanh quanh , thấy đứa nào lôi thôi lếch thếch là dừng lại. Cha hay hỏi
tình cảnh và cuối cùng đề nghị :
–
Con có muốn về ở với gia đình cha không ?
Và
nếu đứa nhỏ gật đầu nó sẽ ngồi sau yên xe cho cha chở về Nhà Mồ Côi . Còn nếu
nó từ chối cha sẽ hướng dẫn thủ tục để nhập trại tị nạn . Và trường hợp của
Trương Hoàng Trí đã xảy ra chính xác như thế.
Hôm
đó cha Giu Se đang trên đường trở về nhà xứ sau khi thăm trại tị nạn thì thấy
một đứa bé cỡ khoảng chín mười tuổi ngồi bên vệ đường . Thằng bé mặt mày lem
luốc áo quần xốc xếch cổ đeo một giỏ cói lớn, nhìn chăm chăm trước mặt mà hình
như chẳng thấy gì . Cha ngừng lại hỏi :
–
Con làm gì mà ngồi đây ?
Không
trả lời
–
Con chờ ba má hả , có đói bụng không ?
– Ba
má chết rồi !!
– Ôi
lạy Chúa !! rồi con sống với ai ?
Không
trả lời
–
Lên xe cha chở con đi mua ổ bánh mì …tội nghiệp con tôi…đói lắm không con ?
–
Đói..
–
Cha biết…
Rồi
hai cha con chở nhau đi . Trên đường cha hỏi đứa bé hoàn cảnh gia đình và đây
là những gì cha biết …
–
Đứa nhỏ tên tên Trương Hoàng Trí , con ông Trương Hoàng Dũng và bà Nguyễn Thị
Mai quê ở ngoài Trung . Trên đường chạy giặc vào Nam cha mẹ và đứa em gái nhỏ
Trương Hoàng Mỹ Trân bị pháo kích chết nằm tênh hênh ngoài lộ . Còn Trí không
kịp khóc cha mẹ em, được mấy người tốt bụng lôi theo vào tận Sài Gòn . Mấy ngày
hôm nay bị lạc nhau Trí không biết phải đi đâu cứ lang thang cổ đeo giỏ cói
chứa ít quần áo và tờ khai sanh . Đói thì lục rác hay ăn chực đồ dư , khát thì
uống nước phông tên . Tối nằm trước hiên nhà người ta mà ngủ . Nhiều khi khách
đang ăn mà cứ nhìn chăm bẳm họ ghét đuổi như đuổi tà hay ngủ quên trước hàng
quán bị chủ tạt nước buổi sáng….
Cha
Giu Se chứng kiến bao trường hợp nhưng chuyện của Trương Hoàng Trí làm cha
không ngăn được nước mắt . Cha cứ kêu ” Lạy Chúa con…” hoặc ” Mẹ ơi ” sau mỗi ”
phân đoạn ” ….thói quen trước một sự việc đau lòng . Cha dùng chữ ”
Mẹ ơi ” để ám chỉ Bà Maria Hằng cứu Giúp vì cha gọi thân mẫu mình bằng má như
mọi người miền Nam.
Rồi
cha lại hỏi Trí câu quen thuộc :
–
Con có muốn về sống với gia đình cha không ?
Trí
không chút sợ hãi hay nghi ngờ gật đầu . Sau này Trí tâm sự với Ma Sơ phụ trách
là Trí tin tưởng gương mặt hiền hoà , giọng nói đầy thương yêu thông cảm của
cha Giu Se . Ở quê Trí cũng gặp mấy ông mặc áo dòng như vậy và người nào cũng
tốt cho nên dù cha mẹ vẫn dạy Trí và em gái không nghe lời, không đi theo người
lạ , nhưng Trí ưng thuận lời đề nghị của cha Giu Se ngay lập tức mà không đắn
đo gì hết .
Kể
từ khi về Nhà Mồ Côi , Trí trở thành “đàn anh” chín tuổi của đám con trai chừng
chục đứa trải dài từ mới đẻ cho tới bốn tuổi đầu . Cha Giu Se giờ không còn đạp
xe nữa nhưng cỡi một cái Honda cà tàng mua lại của một giáo dân. Nhờ đó cha đi
xa hơn có khi cả chục cây số tìm kiếm những nhà bảo trợ hảo tâm . Nhiều hãng
xưởng bánh kẹo, giày dép quần áo rất vui lòng trích ra một số để cha đem về làm
quà cho con cái . Những lần như thế cha vui lắm mới đẩy xe vào cửa đã nghe
tiếng cha cười oang oang :
–
Trí ơi thưa với mấy dì ra phụ cha đem bánh kẹo cho mấy em nè…
Cha
cười quạt phành phạch mồ hôi nhễ nhại trên mặt . Cha vui thấy rõ và nói với Ma
Sơ phụ trách:
– Tội nghiệp mấy đứa nhỏ thèm ngọt…
Cố vấn Mỹ thỉnh thoảng cho xe nhà binh chở sữa và bánh mì tới phân phối cho con nít . Ông thiếu tá da trắng bự con đứng cao hơn cha Giu Se cái đầu mà mỗi lần nói chuyện với cha đều cung kính hai tay chấp vào nhau . Cha Giu Se hành động tương tự và xổ tiếng Anh như gió trả lời . Cảnh hai người lớn một Việt một Mỹ nói chuyện với nhau giữa một đám con nít chơi chung quanh mới thấy tình yêu không có biên giới.
Nguoiviettudo
Mời đọc tiếp chương 2
No comments:
Post a Comment