Sunday, May 20, 2018

Tôi Đi Làm Việc Ở Trung Đông (Phần 1) - Nguyễn Văn Tới

Một gia đình giàu có tiêu biểu cho xã hội người Ả Rập.

Ngày xưa, còn nhỏ trước năm 1975, tôi ước mơ trở thành một sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa khi thấy các sinh viên trường Võ Bị Đà Lạt trong những bộ đồng phục trắng thật đẹp, tác phong nghiêm chỉnh đi dạo phố sương mù. Ước mơ ấy sụp đổ cùng vận mệnh nền cộng hòa Việt Nam. 

Ngày nay, khi đã sắp già, trên vùng đất mới mà tôi chọn làm quê hương, Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, cơ hội vừa đến, cho tôi đáp trả ân tình với đất nước đã dung nạp tôi, khi tôi nhận email từ nơi làm việc hỏi có muốn qua vùng Trung Đông (Middle East) làm việc hay không? Lương rất cao nhưng hơi nguy hiểm. Họ đã hỏi nhiều lần, nhưng  tôi đã từ chối. Lần này, sau vài ngày bàn bạc với vợ, tôi quyết định lên đường.

Tuy không trực tiếp “theo nghiệp kiếm cung” vì tuổi đã ngấp nghé 60 mùa lá rụng, nhưng tôi có thể đem khả năng và nghề nghiệp học được trên đất nước này  đóng góp thêm vào cho cuộc chiến trường tồn và thịnh vượng của nước Mỹ.

Vì lý do an ninh nên tôi xin mạn phép không đi sâu vào chi tiết huấn luyện, việc làm và đường đi nước bước của chúng tôi, cũng như sẽ không nêu tên những vùng đi qua, mà chỉ kể sự việc.

Trên đường “xuất chinh”, chúng tôi di chuyển bằng máy bay quân đội, những chuyến bay dài mệt mỏi không ngủ, chỉ dừng lại tiếp thêm xăng dầu, rồi lại bay, để đến nơi phải đến.  Tuy chỉ là một viên chức dân sự nhưng tại nơi làm việc, tôi phải sống trong những căn cứ quân sự và nếp sống,  ngay cả ăn uống cũng đều phải tuân theo giờ giấc và quy củ của quân đội Mỹ.

Trạm cuối tiếp liệu xăng dầu trước khi rời đất Mỹ ở tiểu bang NewHampsire, vừa ra khỏi máy bay, chúng tôi được đón tiếp linh đình trọng thể bằng điệu nhạc hùng tráng của đội kèn đồng, có những cựu quân nhân trong cuộc chiến Viêt Nam, Triều Tiên, Iraq (Desert Storm), và đặc biệt có một cụ già, ngực đeo huân chương, chống gậy đến đón chào và nói cám ơn những gì chúng tôi đã và đang làm cho nước Mỹ. Khi bắt tay, tôi hỏi:

-Thưa cụ là cựu chiến binh Việt Nam? (Vietnam Veteran).

Ông nheo mắt:

-Tôi là  cựu chiến binh thế chiến thứ II, tôi đã hơn 92 tuổi rồi, cháu ơi, còn làm được những gì cho đất nước thì tôi làm để động viên tinh thần của các bạn trước khi tôi chết.

 Tôi xúc động:

-Cụ ơi, những người lính già như cụ sẽ không bao giờ chết, chỉ mờ dần đi mà thôi”. (“Old soldiers never die, they just fade out”. Lời Tướng Douglas McArthur)

Ông cụ ngạc nhiên, nhìn  tôi:

- Anh từ đâu đến? Sao anh biết câu này? Anh đã từng đi lính?

-Thưa cụ, từ Việt Nam và cháu chưa từng vào lính dù rất muốn.

Cụ thích thú reo lên:

-À thì ra anh thuộc về South Viet- Nam, đã cùng chiến đấu với chúng tôi. Bây giờ anh là một người Mỹ, một người Mỹ thực sự.

-Vâng, chính cháu cũng cảm nhận sâu sắc cháu là một người Mỹ và là một công dân Mỹ rất tự hào. Tôi đáp lời cụ.

Có những phụ nữ còn ôm chầm lấy chúng tôi và nói những lời chúc tốt đẹp nhất, những em bé còn nhỏ lắm, chạy lon ton vẫy lá cờ Mỹ chào đón làm tôi xúc động thực sự, nghẹn ngào không nói nên lời. Họ hướng dẫn chúng tôi ngồi vào bàn với đủ thức uống, bánh kẹo và doughnuts. Đặc biệt họ còn tặng chúng tôi những cái nón len đan bằng tay của các “em gái hậu phương” mà tuổi thì đã... tròm trèm sáu bó, bảy bó. 

Kèn đồng lại trỗi lên tiễn chúng tôi lên phi cơ để tiếp tục bay vào vùng lửa khói. Những vẫy tay lưu luyến, những cái ôm của người dân NewHampsire vẫn lắng đọng theo tôi suốt cuộc hành trình. 

Còn khoảng 20 phút nữa thì đáp xuống phi trường của một đất nước dầu hỏa giàu có, nhưng từ trên cao nhìn xuống tôi chỉ thấy toàn sa mạc khô khan không một bóng cây, bụi cát bốc lên mù trời và những giếng dầu, những bồn chứa, có cái rỉ sét và dấu vết bị cháy vẫn còn rõ ràng sau chiến tranh kết thúc.

Trời về chiều, nhiệt độ 130 F, vừa ra khỏi phi cơ, cái nóng rát, hừng hực ùa vào làm ai cũng nhăn mặt vội vã bước mau để vào khu tập trung. Chúng tôi đến âm thầm và sẽ ra đi lặng lẽ để không gợi sự tò mò chú ý của dân địa phương và báo chí.

Chúng tôi phải làm thủ tục nhập cảnh như mọi du khách bình thường, đi vào một lối riêng nhưng được hướng dẫn bởi một cô gái Mỹ ăn mặc như đàn bà địa phương với áo dài đen trùm từ cổ xuống tới chân chỉ lòi ra đôi … tennis shoes, mái tóc vàng, và giọng nói Mỹ quốc chính hiệu

Khăn trùm đầu cô bỏ ra sau quấn quanh cổ. Cô thông dịch và chỉ chỗ chúng tôi phải đi đâu và làm gì. Thủ tục nhập cảnh kéo dài lê thê đến 3 giờ đồng hồ vì người dân địa phương, những nhân viên di trú đang trong tháng chay tịnh Ramadan của Hồi Giáo. Trong tháng này, họ không ăn uống cho tới khi mặt trời lặn. Sau đó họ thỏa thuê ăn uống gì thì chỉ có Trời biết.

Vì thế họ không vội vàng trong khi chúng tôi mệt lả vì thiếu ngủ, chỉ mong giấy tờ mau lẹ để lên xe mà ngủ gà gật trên đường chạy về trại lính Mỹ.

Quan sát thái độ làm việc của người bản xứ, tôi không ngạc nhiên khi thấy thái độ của họ như không muốn làm việc. Tôi bước đến trình thẻ và giấy tờ, theo thói quen tôi chào hỏi rất lịch sự, người đàn ông không thèm trả lời, cầm giấy tờ nhìn rất nhanh và hỏi bằng tiếng Anh:

 -Lần đầu?

-Vâng thưa ông, đây là lần đầu.

Ông ta đóng dấu trên Visa xong, quăng trả passport và visa của tôi, vâng, tôi xài chữ “quăng trả” chứ không phải “đưa trả”, trên bàn nghe cái phịch. Tôi hỏi:

- Xong rồi phải không ông?

-Xong.

 Hắn trả lờ cộc lốc.

Cô gái Mỹ chỉ tôi qua bàn bên kia, nơi một người đàn ông khác, để chụp hình, lăn tay. Cầm tờ giấy, cám ơn, tôi bước qua bàn một người đàn bà địa phương ăn vận trùm kín chỉ chừa khuôn mặt, tôi cũng chào hỏi lịch sự như tôi đã với hai người đàn ông kia. Không thèm chào lại và cũng chẳng nhìn lên, bà ta liếc nhanh trên tờ giấy rồi đóng dấu nghe cái cộp, cũng vất trả lại trên bàn như người kia. Tôi biết họ không thù hằn hay ghét bỏ gì cá nhân tôi vì họ làm như thế của họ đối với tất cả mọi người khác trong nhóm tôi. Tôi tự hỏi rồi sẽ ra sao với một dân tộc như thế?

Trong khi chờ đợi các người khác trong nhóm, tôi bước ra ngoài, vào tiệm mua một ly kem để giải nhiệt và để có dịp quan sát chung quanh. Người bán hàng là hai cô gái trẻ Philippines mà tôi nhận ra giọng tiếng Anh đặc thù của họ nhờ đã sống hơn 2 năm ở Phi. Một cô cho biết chủ của tất cả 5 hàng quán này là người địa phương, họ được mướn qua trung gian đến đây đứng bán hàng. Tôi được biết dân sinh quán ở đây không làm những việc chân tay, nếu phải thì làm cho chính phủ; còn làm ăn tư thì làm chủ, chứ không làm nhân công. Hầu hết họ thuê mướn người từ các nước nghèo qua giúp việc nhà cho họ, ngay cả đứng bán hàng. Nhìn qua nhà hàng ăn kế bên, mấy người nấu nướng và bồi bàn đều là người Ấn Độ và Bangladeshi, không thấy chủ ở đâu.

Bàn kế bên là một gia đình người bản xứ có vẻ giàu có, hai vợ chồng trạc 35 tuổi. Người chồng mặc áo dài toàn trắng (keffiyeh) từ cổ đến chân, đầu đội khăn vấn cũng màu trắng làm nổi bật một sợi dây được bện lại màu đen to như giây thừng, xếp chồng lên nhau, trên đỉnh đầu dùng để giữ khăn choàng khỏi bị xô lệch. Khuôn mặt anh ta rắn rỏi, nước da nâu sáng với hàm râu quai nón đen tỉa kỹ càng, tương phản với màu trắng của toàn bộ quần áo đang mặc, vì ngồi xoay lưng lại phía tôi nên lộ ra hàng chữ “Ivenchy” ngay góc chéo khăn đội đầu. Cái này Việt Nam mình gọi là hàng hiệu đấy.

Người vợ, ngược lại, áo dài và khăn đội đầu (hijab) đen huyền, lộ ra một khuôn mặt thật đẹp với mũi cao, da khá trắng, đặc biệt đôi mắt đen láy với hàng lông mày thanh tú hòa vào một màu đen của trang phục cũng tương xứng không kém. Kế bên là một túi xách tay cũng màu đen rất đẹp, chắc cũng hàng hiệu mà vì ngồi xa nên tôi không đọc được tên hoặc vì tôi nhà quê chẳng biết gì về túi xách phụ nữ.

Đi theo họ là 2 cô bảo mẫu người Phi, một cô lo rượt theo thằng bé khoảng 4,5 tuổi và cô khác đang ẵm một em bé còn sơ sinh trên tay trong khi người vợ, bà chủ đang thưởng thức ly kem.

Khi trở lại quầy làm visa coi mọi người đã xong chưa, tôi giật mình vì nghe ai đó nói tiếng Việt Nam với giọng Nghệ An đặc thù không lẫn vào đâu được. Ngó sang bên trái, tôi thấy 3 người Việt Nam, nói đúng hơn 3 người đàn ông Việt Nam, hai thanh niên còn rất trẻ và một ông trung niên với quần khaki mầu xanh cứt ngựa, có vẻ là trưởng nhóm hay bí thư của tổ tam đầu đội nón cối cũng xanh lá cây, cái nón mà tôi ghét cay ghét đắng. Cả ba trông quê mùa, ốm yếu, ăn mặc kỳ quặc trong những bộ quần áo rẻ tiền “ma dzê in China”. Cả ba đang bàn tán sôi nổi, nghe loáng thoáng, tôi hiểu họ đang gặp rắc rối vì ngôn ngữ bất đồng với nhân viên di trú. Định chụp tấm hình của họ, nhưng nhớ lời dặn dò của cô hướng dẫn là không được chụp vì người địa phương dễ hiểu lầm, nên thôi.

Vội vàng, tôi bước đi không ngoảnh lại nhìn họ, như thể tôi không có gì liên quan và chưa từng thấy họ.

Chúng tôi lại tiếp tục bay đến một quốc gia khác trong vùng, nơi tôi làm việc: Cũng bụi mù trời, cũng sỏi đá khô cằn, cũng cái nóng khắc nghiệt đến nỗi ra đường mang dép mà tôi cứ tưởng như đang hơ đôi chân trần trên ngọn lửa.

Nơi chúng tôi ở và hàm việc là một phi trường quân sự. Hằng ngày, ngoài đi làm ra thì không có thú vui nào giúp thời giờ qua mau ngoài coi phim mà tôi đem theo trong một cái ổ cứng (External Hard-drive). Nơi tôi ở là một nhà tiền chế bằng tôn gồm 7 căn phòng. Ba người chúng tôi được chia cho một căn phòng gần 100 mét vuông được trang bị máy lạnh chạy suốt ngày đêm. Có nệm nhưng hơi cứng làm tôi đau lưng hết mấy ngày cho đến khi mua được 1 tấm nệm mút (memory foam) từ PX (Post Exchange). Phòng tắm và vệ sinh tập thể ở cùng trong căn nhà, cửa ra vào có mã số (code/combinations) để mở và đóng rất an toàn.

Mấy ngày đầu, tôi còn lê gót lãng du khám phá khắp nơi vì cái phi trường quân sự này rộng lớn như một thành phố nhỏ, có cả xe bus, vài tiệm Pizza, burger,  tiệm hớt tóc và đấm bóp mát xa (mà không mát gần nhé), sau vì nhiệt độ quá nóng làm rát bỏng da mặt nên tôi không còn thích thú đi dạo sau khi làm việc.

Xung quanh căn nhà là những hàng rào bê tông cao đến 15 ft, dày khoảng 16 in. hình chữ T dựng ngược, được xe cẩu mang lại để bảo vệ che chắn trong trường hợp bị tấn công bằng đạn pháo.

Muốn mua sắm thêm quần áo, đồ dùng thì có vài cửa tiệm tư nhân và hai tiệm PX không phải trả thuế (sale tax) như ở nhà. Cũng có vài nhà hàng ăn nấu theo thực đơn, nhưng bạn phải trả tiền túi, trong khi ăn ở DFAC (Dining Facility) của trại thì không tốn tiền mà đồ ăn, uống thì ê hề, phủ phê. Có thể ăn ngày 4 bữa, tắm rửa ngày 2, 3 lần nếu muốn. Thêm nữa, tiền lương được trả rất cao để bù lại những nguy hiểm, thiếu tiện nghi, và xa nhà, nên khi xài tiền không cảm thấy do dự lắm.  Nước uống thì có nước đóng chai không tốn tiền, chúng tôi được khuyên không nên uống nước từ vòi (tap water) dù cũng là nước ngọt, tôi đã thử nếm và phải phun ra, không thể uống được vì nó hơi kỳ kỳ và lờ lợ.

Chúng tôi 4 người được cấp cho một chiếc Toyota Land Cruiser lái đi làm thật là tiện lợi vì không phải đợi xe bus dưới cái nắng nung người của vùng sa mạc này.

Nhìn những người lao công đến từ các nước thứ ba mà tội nghiệp cho họ, họ chờ xe bus, vài người phải trùm khăn kín đầu, che mặt, đeo kính râm vì họ phải làm việc ngoài trời; ai may mắn thì làm việc trong nhà ăn hoặc nhà giặt quần áo, hoặc bảo trì, thì đỡ hơn nhiều. Hầu hết họ được mướn qua những công ty trung gian đến đây từ Ấn Độ, Bangladesh, Nepal, Bhutan, Kazhastan, Philippines, Mông Cổ, các nước châu Phi và từ các nước Đông Âu cộng sản cũ, nhưng họ không mướn người Việt Nam và Tàu vì hai nước đó vẫn còn là những nước cộng sản.

Khi đêm xuống, đèn điện sáng choang, không khí và bụi bặm đã lắng xuống, và cái nóng đã giảm đi rất nhiều tuy vẫn còn cảm nhận được nhiệt lượng từ những bức tường bê tông tỏa ra. Ngoài những con đường chính được trải nhựa, còn lại là đường đất  thỉnh thoảng được trải sỏi cho bớt bụi, tất cả mọi nơi, mọi tòa nhà, hay trại lính đều được đèn thắp sáng rực và thật sáng vì an ninh.

Tôi đứng gần một nhà ăn, ngắm người qua lại tấp nập, người chuẩn bị đi ăn tối, kẻ đang trên đường về lại nhà ngủ, vài chiếc xe hơi ngừng lại nhường cho những người chạy bộ thể dục đi qua. Một xã hội thật năng động ở một nơi xa xôi mà như cuộc sống ở một thành phố nhỏ kiểu Mỹ. Chắc giờ này vợ tôi cũng vừa đi làm về, hai đứa con đang coi TV hay làm bài tập, rồi chơi game.

Hít một hơi thật dài, tôi thả bộ chậm rãi trên con đường lát sỏi dẫn về phòng ngủ. Nằm trên giường, giòng suy tư đưa tôi ngược về ký ức những ngày còn thơ ở Sóc Trăng, miền Nam thân yêu của tôi, khi nhìn thấy những người lính Hoa Kỳ xa nhà đến chiến đấu cho đất nước tôi, chắc họ cũng nhớ nhà? Chắc họ cũng có những ước mơ thật đơn giản như tôi bây giờ? Và giờ đây, tôi và những người lính Hoa Kỳ khác cũng đang cùng chiến đấu, mỗi người một cách khác nhau trong khả năng, để cho hậu phương, gia đình mình được an bình, hạnh phúc.

Tôi đang hoàn tất nghĩa vụ của mình với nước Mỹ và tin rằng  hầu hết những người  tị nạn đã được nước Mỹ mở vòng tay đón nhận đều sẵn sàng đóng góp một chút gì đó cho quê hương mà họ đang sống vì Freedom is not Free (Tự do đều có giá của nó).

Nguyễn Văn Tới

No comments:

Post a Comment