16 tháng Tư, 1975
Cộng sản Việt Nam không phải là nhóm nông dân chân đất lý tưởng chiến
đấu bằng vũ khí thô sơ tự chế để giải phóng Việt Nam ra khỏi ách đô hộ
của ngoại bang, hay là những người yêu chuộng hòa bình phải miễn cưỡng
xử dụng bạo lực chống lại những đồng bào thối nát, được đồng đô la Mỹ
nuôi dưỡng, đang đày đọa nước Việt Nam. Buồn thay ta cần phải bày tỏ
điều này vì rất nhiều người ở Phương Tây chấp nhận không suy nghĩ hình
ảnh ấy mà cộng sản và những kẻ thân cộng ra sức truyền bá bất chấp tất
cả sự thật.
Họ là phong trào xâm lược bành trướng đã kiểm soát Bắc Việt và phần lớn
ba nước láng giềng Lào, Cambodia, và Nam Việt. Họ là những người Phổ ở
Đông Nam Á, tuy cực lực lên án người Nam Việt chấp nhận viện trợ Mỹ,
nhưng chính họ hoàn toàn phụ thuộc vào viện trợ về quân sự và kinh tế tế
từ Nga, Trung Quốc, và các nước còn lại trong khối cộng sản.Họ áp đặt
lên nhân dân Bắc Việt một trong những mức sống thấp nhất trên thế giới
để quân đội họ có thể tiến hành xâm chiếm nước ngoài.
Trước tiên, chế độ ở Bắc Việt là toàn trị. Hay chính xác hơn toàn bộ
quyền lực đều thuộc về một đảng chính trị duy nhất, tức đảng Lao Động
hay đảng Cộng Sản, mà kiểm soát chính quyền, lực lượng vũ trang, công
an, báo chí, phát thanh và truyền hình, kinh tế, lao động, sự đi lại của
dân chúng và nhiều thứ khác. Công dân Bắc Việt không được tự do rời
khỏi nước hay thậm chí không được đi lại trong nước nếu không được phép.
Nhiều nhu yếu phẩm hạn chế, có cưỡng bách quân dịch và có thể có cưỡng
bách lao động bất kỳ khi nào nhà cầm quyền cộng sản muốn. Bắt giam tùy
tiện và không có việc khiếu nại bắt giam, trong khi ấy các bản án thường
rất nặng, như trong trường hợp một thanh niên bị kết án 14 năm tù và bị
tước quyền công dân vì chơi nhạc Phương Tây. Một số viên chức cấp cao,
những người như Trần Đại Nghĩa, chủ nhiệm các ủy ban nhà nước hay phó
hiệu trưởng trường đại học tổng hợp Hà Nội, tiến sĩ Lê Văn Thiêm, đều
tích cực ủng hộ Hitler.
Chế độ đặt dưới sự lãnh đạo của 11 người lập thành bộ chính trị của ủy
ban trung ương đảng Cộng Sản và chỉ những người này trong họ mới cùng
nhau ra mọi quyết định chính. Uỷ ban trung ương, mà nhóm họp định kỳ,
ngoan ngoãn phê chuẩn những quyết định này còn chính phủ chỉ là tổ chức
hành pháp thực hiện những quyết định này. Ở Việt Nam chỉ có một đảng
Cộng Sản mặc dù một đảng khác chỉ hư danh, đảng Nhân Dân Cách Mạng thành
lập cho Nam Việt vào năm 1962 là để khiến cho những người ngoại quốc
ngây thơ tưởng lầm rằng Việt Cộng ở miền Nam không lệ thuộc vào cộng sản
Bắc Việt. Lúc sinh thời của Hồ Chí Minh bộ chính trị chấp nhận dễ dàng
sự lãnh đạo của ông nhưng sau khi ông chết những sự khác biệt giữa các
thành viên bộ chính trị trở nên rõ ràng. Những sự khác biệt này chỉ về
cá tính và cách thức, vì không có sự bất đồng về mục tiêu cuối cùng.
Cộng sản Việt Nam là sáng tạo của Hồ Chí Minh, và đảng vẫn còn biểu hiện
những đặc trưng mà ông đã giáo dục cho đảng. Hầu như không có gì giả
dối cho bằng hình ảnh nổi tiếng của Hồ như một người yêu nước thánh
thiện, sống giản dị chỉ quan tâm đến công cuộc giải phóng dân tộc ông ra
khỏi thân phận nô lệ ngoại bang. Là cộng sản tự phong, Hồ tàn nhẫn đến
mức bán đứng lãnh tụ quốc gia Phan Bội Châu cho nhà cầm quyền Pháp ở
Thượng Hải để loại trừ một địch thủ và dùng tiền thưởng ấy làm nguồn tài
chính cho các hoạt động chính trị của mình. Ông đã rất cố ý khi chọn
mặc áo quần nông dân giản dị và chọn phong cách hiền lành khi ông nhận
thấy tác động chính trị của Mahatma Gandhi ở Ấn Độ. Hồ có sự nhạy bén
chính trị khi lợi dụng lòng yêu nước của người Việt cho những mục tiêu
cộng sản của ông, và ông làm cho ý thức hệ cộng sản trở nên dễ chấp nhận
hơn bằng cách diễn đạt nó bằng tiếng Việt bình dân thay vì bằng thuật
ngữ Mác-Lê không tự nhiên.
Có lẽ kinh nghiệm chấn thương tâm lý nhất trong cuộc đời sống thọ của
Hồ, và kinh nghiệm tạo ra ấn tượng không thể nào quên được đối với ông
là việc Quốc Dân Đảng bất ngờ quay sang chống lại người cộng sản hợp tác
với họ vào năm 1927, khi nhiều người cộng sản Trung Quốc bị giết chết
còn bản thân Hồ thoát được chỉ nhờ ông có hộ chiếu Nga. Từ đấy về sau ở
Việt Nam ông không bao giờ chịu chia xẻ quyền lực với những người không
cộng sản và ông khiến cho toàn đảng lây nhiễm nỗi sợ hãi gần như bệnh
hoạn về điều này. Những trung tâm quyền lực đối thủ tiềm tàng, dù thể
chế hay cá nhân, đều luôn luôn bị tiêu diệt tàn bạo.
Đặc trưng của việc Hồ cướp quyền lực ở Hà Nội là sự sát hại hàng loạt
những đối thủ chính trị bao gồm Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, và các
phong trào quốc gia khác, còn những viên chức Nhà Nước như Phạm Quỳnh
và Ngô Đình Khôi, anh của Ngô Đình Diệm, đều bị giết chết cũng như Tạ
Thu Thâu trốt-kít. Vào năm 1954, cái gọi là cải cách ruộng đất với khẩu
hiệu là "Thà giết lầm mười người còn hơn bỏ sót một kẻ thù", đã gây ra
cái chết của độ 100.000 người và châm ngòi cho cuộc nổi đậy công khai
của những người nông dân tay không.
Giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam cuồng tín, kiên định, và nhất quán trong
công cuộc theo đuổi mục đích của họ. Họ coi cuộc đấu tranh trường kỳ
của họ là một chiến dịch tổng hợp bao gồm cả quân sự lẫn chính trị và
chúng phải phục vụ cho lợi ích lẫn nhau. Vì vậy, khi Bắc Việt đồng ý tổ
chức hội nghị ở Paris trong suốt năm 1968, họ dùng chính trị để giảm bớt
áp lực quân sự cho quân đội bại trận của họ và để ngừng cuộc ném bom
Bắc Việt, không phải để thương lượng một giải pháp mang tính thỏa hiệp
nhằm kết thúc chiến tranh. Cố Tổng Thống Johnson đã không hiểu điều
này.
Một lần nữa, khi Lê Đức Thọ nhượng bộ tiến sĩ Kissinger vào tháng Mười,
1972, Thọ làm vậy để giải tỏa áp lực cho quân đội cộng sản đang tháo
lui. Về sau, những tính toán sai lầm của Hà Nội đã gây ra cuộc ném bom
vào tháng Mười Hai, 1972, nhưng theo thỏa thuận cuộc ném bom ngừng lại
để chấp nhận bản dự thảo hiêp định ngừng bắn. Qua giải pháp Paris Bắc
Việt có được sự rút lui của Mỹ và quyền hiện diện quân sự hợp pháp ở Nam
Việt. Đúng ra, Bắc Việt đã đồng ý rút quân ra khỏi Lào và Cambodia và
cam kết không tiến hành xâm lăng quân sự ở Miền Nam, nhưng những cam kết
này chỉ là những nhượng bộ mang tính chiến thuật của phong trào mà về
lâu dài Bắc Việt không có ý định tôn trọng. Như thế giới đã thấy, Cộng
Sản Việt Nam đã vi phạm mọi điều khoản của hiệp định ngừng bắn Paris như
vào lúc ký hiệp định tôi nói họ sẽ vi phạm.
Cho dù Quốc Hội Hoa Kỳ có thể hợp lý hóa như thế nào chăng nữa; cho dù
những người biện hộ cho cộng sản trong thế giới tự do có thể biện hộ như
thế nào chăng nữa; cho dù các đài phát thanh Hà Nội hay "Giải Phóng"có
thể phát đi những lời hứa hẹn hòa giải gì chăng nữa thì chiến thắng của
cộng sản ở Nam Việt sẽ gây ra những cuộc giết người trên phạm vi lớn.
Toàn bộ hồ sơ trong quá khứ của giới lãnh đạo Cộng Sản, sát hại hay bắt
cóc 5.800 thường dân ở Huế trong 26 ngày Cộng Sản chiếm đóng vào năm
1968, trong suốt nhiều năm Cộng Sản không ngừng ám chỉ đến "những món nợ
máu" "phải trả", đến "tội ác" của "bọn ác ôn" hay "bè lũ tay sai",
những sự kiện kinh hoàng diễn ra theo sau cuộc tiếp quản của Cộng Sản ở
Bắc Việt, và những lời chứng của những người được Bắc Việt phái đi thực
hiện cuộc tiếp quản ấy khiến ta không còn nghi ngờ gì mữa.
Đầu tiên Cộng Sản sẽ yêu cầu những người ngoại quốc phải rời khỏi Việt
Nam và rồi, đằng sau biên giới bị đóng lại, họ sẽ thanh toán tất cả
những người nào, những nhóm nào và thể chể nào mà họ tin sẽ gây đe dọa
cho chế độ. Họ sẽ trả thù "những kẻ có tội", mà tội của những người này
là phục vụ Chính Quyền Nam Việt được thiết lập hợp pháp hay chống cộng
sản ở mọi cấp, địa phương, tỉnh hay toàn quốc. Nếu cuộc tắm máu xảy ra,
nó không phải là cái cớ cho những người chẳng làm gì để ngăn cản nó nói
rằng họ đã không biết. Tất cả những ai mà cho rằng Cộng Sản Việt Nam sẽ
không trả thù đang làm bộ không biết đến những bằng chứng rất nhiều và
không thể tranh cãi. Những người này đang đánh cược ý kiến cá nhân của
họ trên sinh mạng có lẽ của hàng triệu người Miền Nam Việt Nam.
P.J. Honey (1922-2005) là học giả Anh chuyên nghiên cứu về chiến
tranh Việt Nam. Ông từng sống ở cả hai miền Bắc và miền Nam Việt Nam, và
rất thông thạo tiếng Việt. Ông đã dịch tác phẩm của học giả Trương Vĩnh
Ký, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876), sang tiếng Anh.
Nguồn:
Dịch từ báo Anh London Daily Telegraph số ra ngày 16 tháng Tư, 1975. Bài
báo được một dân biểu Mỹ đề cập đến ở Hạ Viện Hoa Kỳ vào ngày 21 tháng
Tư, 1975. Tựa đề tiếng Việt của người dịch.
https://www.govinfo.gov/content/pkg/GPO-CRECB-1975-pt9/pdf/GPO-CRECB-1975-pt9-3-3.pdf. Trang 11121 & 11122.
Người dịch:
No comments:
Post a Comment