Hoa
quay lại nói với Chi:
-Về
bên đó gặp bồ sau. Nhớ đừng nói lại với ai về việc “cha cà chớn”, có vợ đẹp,
con ngoan mà còn đi “tù ti tú tí”, nha!
Chi
cười, “Okay”. Quay lại, Chi chưa kịp hỏi hai cháu nội – Paul và Diana –
xem hai cháu đã chọn được món quà nào ưng ý chưa thì Luân, con trai của Chi, học
trường Bà Sơ từ nhỏ, hỏi:
-Măng!
Đi “tù ti tú tí” là đi đâu?
Paul
và Diana đến bên Chi vừa khi Chi đáp lời Luân:
-Là
đi “có bồ có bịch” đó mà.
Paul
và Diana chỉ nghe được “lỏm bỏm” tiếng Việt chứ không hiểu. Paul hỏi Chi bằng
tiếng Anh:
-“Ba
Noi”! Đi “co bo co bit” là đi đâu?
Chi
đáp bằng tiếng Anh:
-Con
còn con nít, đừng hỏi.
Paul
nắm tay Diana, kéo đi:
-Đi,
Diana! “Ba Noi” không nói thì anh em mình đi “co bo co bit”.
Chi
và Luân cùng phát âm một lúc “No!”. Hai đứa bé đều tròn mắt, hết nhìn
“Ba Noi” lại nhìn Daddy. Chi dịu dàng:
-Người
lớn mới được “có bồ có bịch”, hiểu chưa?
Paul
kéo tay Luân:
-Đi,
Daddy! Daddy đi với chúng con thì chúng ta có thể “co bo co bit”.
Luân
cười lớn:
-Your
Mommy không cho Daddy “co bo co bit” đâu.
Paul
lắc đầu:
-Chịu
thua tiếng Việt!
Thấy
bốn người Việt mà đối thoại nửa Tây nửa Ta, nhiều người chung quanh đều cười.
Ngại bị để ý, Chi nói nhỏ với Luân:
-Mình
đi chỗ khác, con!
Vừa
đi được một khoảng ngắn, chợt nghe thoang thoảng trong không gian tiếng Guitar
văng vẳng một tình khúc quen thuộc, Chi chậm bước, lắng nghe. Chi nhận ra tiếng
Acoustic Guitar không phải từ radio
hoặc youtube. Một thoáng sau, tiếng hát vang lên nho nhỏ, khàn khàn:
“Some say love it is a river that drowns the tender
reed.
Some say love it is a razor that leaves your soul to
bleed…”(1)
Chi
dừng bước. Theo tiếng hát, Chi cảm thấy nặng lòng vì niềm thương nhớ người xưa
cuồn cuộn trở về. Chi bước chầm chậm về hướng phát ra tiếng hát. Vừa lúc đó vợ
của Luân xuất hiện, hỏi bằng tiếng Anh:
-Măng
đi đâu vậy? Con xong chuyện rồi. Măng đi ăn trưa với chúng con.
-Măng
chưa đói. Hai con với các cháu đi ăn đi; ăn xong trở lại đây đón Măng.
-Con
sẽ điện thoại cho Măng khi chúng con ăn xong. Okay?
Chi
chưa kịp đáp thì nghe tiếng Paul:
-“Ba
Noi”! “Ba Noi” đi “co bo co bit” phải không?
Chi
lắc đầu, cười, khoát tay ra hiệu cho con cháu lên chiếc xe thuê.
Vừa
qua khỏi vài gian hàng, Chi thấy vài người ngoại quốc đang đứng quanh một người
đàn ông. Tiếng hát và tiếng đàn phát xuất từ nơi này:
“…Some
say love, it is a hunger, an endless aching need.
I say love, it is a flower, and you it's only
seed…”(2)
Khi
còn cách mấy người ngoại quốc vài bước, Chi thấy một người Á-Đông, tóc thưa và
bạc phơ, ngồi trên chiếc ghế xếp. Ông mặc áo thun, quần ngắn. Cạnh Ông là chiếc
nạn gỗ. Đến gần, Chi thấy đôi chân và gương mặt của Ông đầy sẹo. Trước mặt Ông
là một ghế nhựa; trên ghế để chiếc mũ cũ, xấp vé số và một tấm bìa dày, ghi: “Xin
vui lòng tự chọn vé số và cho tiền vào chiếc mũ này. Please select the
ticket(s) of your choice and put the payment into this hat”. Ông ôm chiếc Guitar
cũ, say sưa theo tiếng hát xót xa của chính Ông:
“…
And the night has been too lonely. And the road has been too long.
And you think that love is only for the lucky and the
strong...”(3)
Theo
tiếng hát của ông bán vé số, Chi tưởng như nàng có thể thấy lại được hình ảnh
Tuấn và nàng bước chầm chậm trên bờ cát mịn trong những chiều Hè lộng gió bên bờ
biển xưa.
Những
lúc đi bên nhau, “hai đứa” thường im lặng. Thỉnh thoảng “hai đứa” nhìn nhau, cười.
Khi nào mỏi chân, “hai đứa” ngồi bên gốc dừa và Tuấn thường “ngân nga”:
“Some say love, it is a river, that drowns, the tender
reed.
Some say love, it is a razor, that leaves, your soul
to bleed…”
Chi
nũng nịu:
-Sao anh cứ hát
bài này hoài, nghe buồn quá!
Tuấn
chỉ im lặng, thở dài.
Không
thể nào Chi hiểu được tiếng thở dài của Tuấn. Đã nhiều lần, tại nhà Chi, Tuấn gặp
nhiều “cây đại thụ” đang cố chinh phục tình cảm của Chi. Thời gian đầu, khi mới
quen Chi tại nhà người Chú, Tuấn đã được Tuyết – con của người Chú – cho biết rằng
gia đình Chi rất khó và Chi cũng là một cô gái rất khó chinh phục. Tuyết lại bảo,
những “cây đại thụ” đang cố chinh phục Chi đều theo học đại học tại Saigon. Tuấn
tự nhủ chàng phải cố chinh phục Chi trong mùa Hè này; nếu không, hết Hè, Chi sẽ
trở vào Saigon học, Tuấn không an tâm.
Dù
đã mấy mươi năm qua, Chi cũng vẫn chưa quên được buổi chiều thứ Bảy, lúc gia
đình sửa soạn cúng Ông Ngoại của Chi thì Khánh đến thăm. Trong số những người
theo đuổi Chi, Bà Ngoại và Ba Má của Chi đều biết Khánh là người ít nói và hiền
nhất. Chi cũng hiền và ít nói. Gia đình thầm mong Chi “chịu” Khánh thì sau này
vợ chồng Khánh Chi sẽ thuận hòa/hạnh phúc.
Khánh
và Chi cùng ngồi vào xa-lông trong khi Bà Ngoại, Ba Má và anh em của Chi đều phụ
với bà giúp việc chưng dọn hoa quả và bưng thức ăn lên bàn để cúng ông Ngoại của
Chi. Chi nhận thấy Khánh tỏ ra hơi lúng túng, không ngờ chàng đến không đúng
lúc. Khánh và Chi vừa thăm hỏi được vài câu thì một chàng mặc quân phục trắng
xuất hiện. Chi giới thiệu:
-Thưa anh Khánh, đây là anh Tuấn, sinh viên
sĩ quan Hải-Quân.
Xoay
sang Tuấn, Chi tiếp:
-Thưa anh Tuấn,
đây là anh Khánh, sinh viên Y Khoa.
Vừa
bắt tay Tuấn, Khánh vừa tỏ thái độ thân thiện:
-Hay quá! Anh cả của tôi cũng là Hải-Quân. Tôi vào
Saigon học, ở nhờ nhà anh ấy đấy. -Anh
của anh tòng sự tại đâu ạ?
-Bộ Tư Lệnh.
Tuấn
cảm thấy bất an, vì nghĩ rằng “gốc” của Khánh rất “bự”! Tuấn để mũ “kết” lên bàn,
xin lỗi Khánh để ra nhà sau chào Bà Ngoại, Ba Má và anh em của Chi.
Thấy
anh em của Chi phụ bưng thức ăn lên bàn để cúng, Tuấn cũng vui vẻ bưng thức ăn,
phụ với mọi người. Đợi Bà Ngoại, Ba Má và anh em của Chi và Chi thắp nhang, khấn
vái xong, Tuấn nói:
-Thưa Ngoại, thưa hai Bác, cho phép con thắp
nhang cúng Ông Ngoại với.
Khánh
và Chi đều bất ngờ, nhìn nhau. Chi cảm thấy tội nghiệp Khánh vô cùng; vì Khánh
không thể che giấu được sự lúng túng của chàng! Nhận ba cây nhang từ tay Má của
Chi, Tuấn đứng nghiêm, lâm râm khấn nguyện.
Sau
khi gia đình cúng xong, Khánh nghĩ rằng – và hy vọng rằng – thế nào Ba Má của
Chi cũng sẽ mời Tuấn và chàng dùng cơm. Nhưng, vừa khi đó, Tuấn nói một cách rất
chân thành:
-Thưa Ngoại,
thưa hai Bác, tháng này con chưa lãnh lương; Ngoại với hai Bác cho con ăn cơm với.
Khánh
không thể ngồi nán lại được giây phút nào nữa!
Hành
động của Tuấn hôm đám giỗ ông Ngoại chiếm ngay cảm tình của gia đình Chi; nhưng
cũng vẫn chưa chinh phục được Chi.
Vài
tuần sau, không biết có phải do sự sắp đặt của Tuyết hay không, Chi được mời đến
nhà Tuyết tham dự văn nghệ “bỏ túi”.
Trong
số sinh viên và học sinh tham dự văn nghệ “bỏ túi” tại nhà Tuyết dường như ai
cũng để ý đến bộ quân phục tiểu lễ của Tuấn. Nhiều nam sinh viên và học sinh
còn hỏi thăm Tuấn về thể lệ và điều kiện để được thi vào Hải-Quân. Đến phần văn
nghệ, mọi người đều “xung phong” ca hát. Tuấn vẫn ngồi lặng yên cho nên Chi
không biết Tuấn có khả năng văn nghệ hay không. Bất ngờ một anh nói vào micro:
-Từ nãy giờ học trò tụi mình ‘hét’ đủ rồi.
Bây giờ mời “ông nhà binh”. Các bạn đồng ý không?
Mọi
người vỗ tay. Tuấn từ từ đến bên Piano, mở nắp đàn rồi xoay lại nói với
mọi người:
-Thưa các bạn, tôi xin hát tình khúc La Fontain Des
Amours của John William để tặng các bạn và riêng tặng một người đã cho tôi diễm
phúc được chia xẻ những giờ phút đầm ấm trong bữa cơm giỗ ông Ngoại.
Chi
ngạc nhiên, nhìn Tuyết. Tuyết giả vờ:
-Ảnh ăn giỗ ở
đâu tao đâu biết.
Vừa
nghe Tuấn dạo phân đoạn đầu, Chi nhận ra Tuấn có ngón đàn piano rất tuyệt.
Tuấn “bắt” vào:
“Prés de la fontaine.
La fontaine des
amours.
Si ton cœur est en
peine,
Tu vas te pencher
un jour…”
Chi
bàng hoàng, nhận ra giọng ca của Tuấn rất thiết tha, rất ngọt ngào. Tuấn vẫn
say sưa theo tiếng hát, vờ như chẳng để ý đến Chi:
“… Je l'aime et qu'elle m'aime aussi.
Et dans l'eau qui chante
Tu vois danser un beau jour…”
Vừa
hồi tưởng đến đây, Chi nhận ra ông bán vé số chuyển sang tình khúc Việt-Nam:
“Chiều
nay một mình đi trên đường cũ.
Nhìn mây lặng lờ trôi theo làn gió.
Tôi nhớ chiều nào đã xa xôi,
hai đứa mình thường bước song đôi
khi nắng giăng tơ vàng khắp lối…”(4)
Chi tự
hỏi, làm thế nào một ông bán vé số lại có ngón đàn Tây Ban Cầm “nhuyển” và lại
chọn những tình khúc tuyệt vời đến như thế? Bất ngờ điện thoại cầm tay của Chi
“rung”. Chi “Allo”. Giọng Luân:
-Chúng
con ăn rồi. Măng đang ở đâu?
-Sao
ăn nhanh vậy? Măng đang đứng nơi gốc cây bàng, cách chỗ hồi nãy khoảng ba bốn
gian hàng.
-Dạ,
hai đứa nhỏ đòi ăn McDonald’s, chúng con mua đem theo. Con thấy cây bàng rồi.
Chúng con tới ngay. Có bác Hoa tìm Măng nữa đó.
Chi
“Okay”, cúp điện thoại. Vừa bước về ông bán vé số Chi vừa mở ví, có ý lấy
tiền cho vào mũ của ông bán vé số vừa khi chiếc xe thuê dừng lại. Chi cầm ít tiền
lẽ, chưa kịp biếu ông bán vé số, chợt thấy Hoa vội vàng mở cửa xe, reo vui:
-
Chi! Bồ biết tui mới gặp ai không?
Chi
lắc đầu. Hoa tiếp:
-Tui
gặp Tuyết hồi trước cùng học ở Văn Khoa với bồ đó.
-Rồi
sao? Có tin gì về anh Tuấn không?
-Có.
Tuyết nói anh Tuấn bây giờ cơ cực lắm…
Chi
chụp vai Hoa:
-Bồ
biết, mấy mươi năm qua tôi liên lạc với hầu như tất cả các Hội Hải-Quân ở ngoại
quốc để hỏi về anh Tuấn mà không ai biết cả!
-Làm
sao người ta biết được mà hỏi! Anh Tuấn “của bồ” vẫn còn ở Việt-Nam!
-Tại
sao anh Tuấn không xin đi diện H.O.?
-Tôi
quên hỏi Tuyết chuyện đó. Có thể số năm anh Tuấn bị ở tù không đúng tiêu chuẩn
của Mỹ. Ai biết được. Nè, địa chỉ của “chàng”, tìm gặp “chàng” mà hỏi. Tui đi
nhen. Về bển gặp.
-Tại
sao bồ không rủ Tuyết đến gặp tôi?
-Tuyết
phải trở về kinh tế mới ngay, vì đó là chuyến xe chót.
-Cảm
ơn bồ nhiều, nha!
Cầm
mảnh giấy do Hoa trao, Chi xúc động quá, lòng rộn ràng, quên bẳng tiếng hát và
ông bán vé số.
Xe
chạy được một khoảng ngắn, Chi nhận ra mấy tờ bạc còn trong tay, vội thốt lên: “Oh,
no!” Luân hỏi:
-Măng
bị gì vậy?
-Măng
quên cho tiền ông bán vé số.
Từ
ngày Bố qua đời, lúc nào Luân cũng chăm lo cho Chi và cố gắng làm vui lòng Mẹ.
Luân bảo tài xế quay lại gốc cây bàng. Xe quay trở lại. Gốc cây bàng còn đó
nhưng ông bán vé số không còn!
******
Cảm
thấy áy náy trong lòng, Tuấn cầm tay Lụa, tha thiết nói với Lụa mà cũng như tự
dặn lòng hãy cố quên bóng dáng xưa:
-Lúc
nào anh cũng biết ơn và hết lòng yêu em. Nếu không có tình thương yêu của em,
anh nghĩ không thể nào anh có thể vượt qua được nghịch cảnh.
Lụa
nguýt yêu Tuấn:
-Thôi
đi! “Dợ” chồng bao nhiêu năm rồi mà anh cứ nói cái giọng đó “woài”, nghe “ghét”
“wá” hà!
Hai
vợ chồng cùng cười. Lụa tiếp:
-Anh
coi “diết” thơ ra “nước ngoài”, tìm mấy ông Hải-Quân xin giúp đỡ để có tiền mổ
cườm mắt; anh để lâu “wá” coi chừng bị mù đó.
-Anh
thuộc vào lứa con muộn màng của đại gia đình Hải-Quân cho nên chẳng quen biết
ai. Những thằng cùng khóa đa số kẹt lại; những thằng đã vượt biên thì anh không
biết địa chỉ. Nhưng, em à! Anh còn đi khập khểnh, còn thấy lờ mờ, còn bán vé số
kiếm lời phụ với em thì anh còn may mắn hơn nhiều thương binh Việt Nam Cộng Hòa
bị tàn phế nặng nề. Anh nghĩ như vậy để tự cảm thấy mình còn “may mắn”!
Đã
quen với tính tự lập và an phận của Tuấn, Lụa lắc đầu:
-Bởi
“dậy”, sinh hai thằng con có khác anh chút nào đâu!
-Khác
chứ.
-Khác
gì, nói coi!
-Anh
thích âm nhạc; hai đứa nó không thích.
-Thời
buổi này bươn chải đầu ngược đầu xuôi còn không đủ sống mà anh đòi dạy tụi nó đờn
ca, ích lợi gì?
-Ích
lợi chứ sao không?
-Ích
lợi gì?
-Nhờ
anh đàn hát mà em thương anh. Em đem hạnh phúc đến cho anh và em cho anh hai thằng
con “ngon lành”.
-Còn
anh cho em hai thằng con cao, to, đẹp trai giống anh.
-Mặt
anh như vầy mà đẹp trai nỗi gì nữa, em!
-“Xời”,
mặt anh mà “hỏng” như “dậy”, anh đâu thèm lấy em!
-Nói
bậy rồi! Anh lấy em vì anh thương em mà em cũng thương anh nữa, phải không?
Lụa
cảm thấy bồng bột yêu chồng, giọng nũng nịu:
-Ai
nói “dới” anh tui thương anh “dậy”?
-Em
chứ ai. Đừng làm bộ quên, “cô nương”! Thôi, anh vô nghỉ một chút.
Trong
khi Tuấn đi vào sau tấm màn, ngả lưng lên manh chiếu, Lụa cảm thấy lòng bồi hồi
nhớ lại thời mới lớn, ra chợ phụ Mẹ bán cháo lòng để nuôi em trai đi học; vì Ba
đã tử trận. Khi đi ngang ông bán vé số – nhiều người cho biết rằng Ông là sĩ
quan Hải Quân “Ngụy”, bị thương vào cuối tháng Tư năm 1975, khi đơn vị của Ông trấn
thủ tại Thảo Cầm Viên, bên nay cầu Thị Nghè – nghe giọng hát nghẹn ngào của
Ông, Lụa cảm thấy “buồn muốn chết”!
Thỉnh
thoảng, nếu cháo bán không hết, Mẹ của Lụa dừng lại, múc cho ông bán vé số một
tô. Mấy lần đầu, ăn xong, Ông đưa tập vé số, bảo Mẹ con của Lụa lấy vé số “trừ”
tiền tô cháo. Mẹ từ chối. Ông bảo nếu Mẹ không lấy vé số thì Ông sẽ không dám
ăn cháo nữa. Từ đó, Mẹ đành lấy một vé số mỗi khi múc cháo cho Ông. Và cũng từ
đó Ông mới cho biết Ông tên Tuấn.
Đôi
khi nghe Tuấn hát tiếng gì chứ không phải tiếng Việt, Lụa hỏi. Tuấn bảo tiếng
Anh, nếu lời ca bằng tiếng Anh; nếu lời ca bằng tiếng Pháp, Tuấn đáp đó là nhạc
Pháp. Nghe như vậy, Mẹ hỏi dò về hoàn cảnh gia đình của Tuấn. Tuấn bảo chỉ còn
ông chú bị tù, nhà cửa, tài sản của chú bị “cách mạng” tịch thu và gia đình bị
đuổi đi kinh tế mới. Hiện tại, ban ngày Tuấn bán vé số, tối ngủ ở ga xe lửa. Mẹ
mời Tuấn về ở chung trong căn nhà “ọp ẹp”, mỗi tối dạy cho Lụa và đứa con trai
học. Từ đó, tình cảm nảy sinh trong lòng Tuấn và trong lòng Lụa…
Lụa
chưa kịp hồi tưởng lại những lời văn hoa khi Tuấn ngõ lời yêu thương thì chiếc
xe xích lô dừng gần cửa. Chi bước xuống, quay lui, dặn bác xích-lô chờ. Chi đi
về hướng Lụa. Đến cửa, Chi nhìn Lụa, mỉm cười, gật đầu chào. Lụa chào lại. Chi
hỏi:
-Thưa,
có phải đây là nhà của ông Tuấn không ạ?
Đã
được Tuấn dặn trước, Lụa đáp:
-Tuấn
nào, tui “hỏng” biết.
Chi
mở ví, nhìn lại địa chỉ trên mảnh giấy mà Hoa đã đưa lúc xế trưa rồi hỏi:
-Dạ,
có phải địa chỉ nhà này là 701/15/34/96 hay không, thưa bà?
Nhận
ra giọng “Huế lai” của Chi, Tuấn ngồi giậy, lắng nghe, lòng nát tan! Trong những
mảnh vụn của trái tim tan vỡ, Tuấn nhận ra có nhiều mảnh sậm màu; vì hằn rõ niềm
ăn năn Tuấn dành cho Lụa – người vợ mộc mạc đã hết lòng thương yêu chàng!
Lụa
đáp:
-Phải.
Nhưng “hỏng” có ai tên Tuấn ở đây hết.
Nghĩ
có thể, vì hoàn cảnh, Tuấn phải đổi tên, Chi hỏi:
-Nếu
không có người tên Tuấn, bà làm ơn cho tôi gặp người đàn ông ngụ tại địa chỉ
này, được không ạ?
-Ảnh
đi làm chưa “dìa”.
-Bà
vui lòng cho biết bao giờ ông về để tôi trở lại?
-Trời
Đất! Tui nói ở đây “hỏng” có ai tên Tuấn mà bà “hỏng” tin tui sao?
-Dạ,
không phải tôi không tin bà; nhưng tôi xin được gặp người đàn ông ngụ tại địa
chỉ này, may ra ông ấy biết tin ông Tuấn.
Vì
đã được Tuấn căn dặn và cũng vì ngại sẽ khó đối đáp với Chi, Lụa trở nên cứng rắn:
-Ông
chồng tui lo làm ăn đầu tắt mặt tối, không quen biết ai đâu, bà đừng mất công.
Xin lỗi, tui phải đi nấu cơm chiều để ảnh “dìa” ảnh ăn.
Nói
xong, Lụa đóng cửa lại trước ánh mắt thất vọng của Chi!
******
Bác
xích-lô đạp chầm chậm dọc bờ biển. Mặt trời khuất dần trên đỉnh núi xa. Khi
xích-lô chạy ngang Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân, Chi cúi mặt, thở dài, lòng
chĩu nặng xót xa!
Xích-lô
đến gần cuối đường Trần Phú, Chi ra dấu cho bác xích-lô dừng lại. Chi trả tiền
rồi chầm chậm đi xuống bờ cát. Gần đến mé nước, Chi cúi xuống xách đôi dày và đếm
từng bước dọc bờ biển xưa.
Đi
được một đoạn ngắn, Chi dừng bước, nhìn ra khơi. Biển lặng. Quanh nàng, ngoài
tiếng sóng òa vỡ lao xao, không còn một âm thanh nào khác. Trong bóng chiều cô
tịch, Chi tưởng như thấy được hình bóng Tuấn, mặc quân phục tiểu lễ trắng, chờn
vờn trong những tia nắng hắt hiu cuối trời. Trong thinh lặng, Chi tưởng như có
thể nghe được tiếng hát nồng nàn của Tuấn vang vọng trong không gian:
“…Nhớ,
nhớ đêm nào trên bến hoàng hoa
hai đứa kề nhau, không nói một câu,
như thầm mơ ước, ước mơ dạt dào,
như thầm hẹn nhau mùa sau…
Tôi vẫn đi, lòng thương nhớ…” (6)
Chữ
“nhớ” cuối bài được Tuấn hát cao hẳn một bát trình – octave – và ngân dài như bất
tận, như xoáy sâu vào tâm thức u hoài của Chi.
Xa
thật xa, cuối tầm mắt không còn thơ dại của bà, Chi thấy hình ảnh Tuấn nhạt dần,
nhạt dần trong khi bóng hoàng hôn len lén trở về, phủ kín khung trời thân yêu!
ĐIỆP MỸ LINH
http://www.diepmylinh.com/
1, 2 và
3 - The Rose của Bette
Midler
4 - Người
Đi Chưa Về của Hoàng Trọng
5 - Hải-Quân
V.N.C.H. Ra Khơi của Điệp Mỹ Linh
6 -Tôi
Đi Giữa Hoàng Hôn của Văn Phụng
No comments:
Post a Comment