Sau nhà tôi là rừng, rừng ngày xưa không nhìn thấy gì ngoài màu
lá xanh, những con chim sặc sỡ màu nhưng chúng chỉ cất tiếng hót lẻ loi một
mình, không buồn cũng không vui. Những con thú hiền hòa như sóc với thỏ là
những kẻ lãng du tử tế. Chúng thấy người không thích mắt khi nhìn chúng nữa thì
sóc nhập thiền nơi những hốc cây, những hốc đá ven bờ suối là tịnh thất của
thỏ. Trong khu rừng có con suối nhỏ, có đàn vịt trời khi lội khi bay dưới chân
đồi bluebonnet tượng trưng cho tiểu bang Texas. Mùa hoa rộ tháng tư thì cơ man
là người đến chụp hình, xe đậu quanh đồi không đủ chỗ thì người ta lái xe vào
xóm nhà đậu tạm. Tôi thích bị làm phiền kiểu Mỹ vì chỉ có ở Mỹ khi người không
quen biết bấm chuông nhà chỉ để xin phép cho họ đậu cái xe trước nhà mình một
lát, họ lên đồi chụp vài tấm hình sẽ đi ngay. Tôi hình dung ra những bức ảnh gia
đình, tình nhân, bạn hữu của những người tử tế đã làm nên phong cách Mỹ khác
biệt. Bên kia đồi bluebonnet là đường xa lộ tiểu bang chạy song song với đường ray
xe lửa, ai muốn đi thêm nữa để khám phá thì phải dùng xuồng chèo vì đầm lầy nên
chỉ có những người đi câu cá hay săn heo rừng mới lặn lội khi hết đường bộ.
Nhưng vài năm nay đã thay đổi từ khi người ta san bằng ngọn đồi
bluebonnet cao hơn cột đèn để xây dựng khu thương mại theo đà phát triển dân
số. Cả dãy cửa hàng dịch vụ, cây xăng, tiệm rượu, phòng tập thể dục, đại lý cho
mướn xe, nhà hàng, tiệm nail cặp theo xa lộ buôn bán làm ăn tấp nập. Để lại sau
lưng sự sầm uất náo nhiệt của khu thương mại một khoảng đất rộng lớn trở vô con
suối và bên đây suối là khu nhà ở, là sau nhà tôi. Khoảng đất rộng ấy có lẽ do
đại dịch covid-19 đã làm chựng lại những kế hoạch xây dựng khu chung cư hay kho
chứa hàng hóa gì đó nên tôi cũng còn thấy được cánh đồng bluebonnet mênh mông,
miên man tháng tư khi cánh đồng tím ngát màu hoa bluebonnet, vạt rừng mỏng còn
lại ven suối xanh mướt lá non, hoa dại khoe sắc bên bờ suối là tháng tư đã về,
không cần xem lịch cũng biết tháng tư đã về khi trời thường nhiều mây và những
cơn mưa bất chợt, nắng vàng óng ánh lá non, bướm dập dờn chào mùa xuân mới…
Tháng tư với mọi người trên thế giới cũng chỉ là một tháng trong
năm, những người có đạo chuẩn bị lễ lá, tĩnh tâm đi vào lễ phục sinh, trẻ con
nô nức đi lượm trứng ngoài những bãi cỏ gần nhà cũng là một biểu tượng của
tháng tư xanh lá, trong sắc màu hoa dại trên những cánh đồng cỏ mênh mông, nhìn
những cô bé mới vài tuổi, mặc áo đầm, xách cái giỏ đi lượm trứng như những
thiên thần vỗ về cuộc sống nhiêu khê của người lớn may mắn làm hãng xưởng, công
ty có ông chủ là tín đồ tốt bụng sẽ cho công nhân nghỉ ăn lương ngày thứ sáu
tốt lành mà chúng ta quen gọi là goodfriday.
Nhưng từ biến cố lịch sử ba mươi tháng tư năm một chín bảy lăm
thì tháng tư đã im đậm vào lòng người Việt những khắc khoải về lịch sử, đất nước,
quê hương, không ai quên được ngày lịch sử ấy dù bản thân thuộc về bên nào
trong cuộc chiến! Với tôi khi ấy chỉ là một đứa trẻ nhưng nhớ mãi ngày cuối
tháng tư năm mất nước. Trời đã về chiều ngày ba mươi tháng tư, mẹ tôi như người
tâm thần bấn loạn vì không biết cha tôi, các anh tôi trên các chiến trường còn
sống hay đã chết, sao chưa thấy ai về nhà? Trong gia đình có ba đứa nhỏ còn đi
học là người anh kế tôi, tôi, với thằng em út. Ba đứa đói từ sáng mà không dám
lên tiếng đòi ăn. Tôi là đứa phá phách nhất nên lại biết nhiều hơn người anh chỉ
biết than đói bụng, hơn thằng em quen được phục vụ từ mở mắt tới đi ngủ. Tôi biết
nấu cơm nên đi bắc nồi cơm để ba anh em ăn. Nhưng chẳng còn gì để ăn với cơm vì
người anh với người em tôi đói quá nên đã ăn hết nồi thịt kho trứng trong chạn
từ hồi trưa. Ngày đầu tiên trong đời ba anh em tôi không có cơm ăn được hô vang
ngoài ngõ với hai từ “hoà bình”. Hoà bình rồi với những người giải phóng quân
lăm lăm tay súng.
Tuy còn nhỏ nhưng tôi biết không nên làm phiền mẹ lúc quẫn trí,
nhìn đầu tóc mẹ tôi gọn gàng từ khi sinh ra tôi thì hôm đó rối bời như bà cụ
xin ăn ngoài chợ. Tôi sang nhà hàng xóm xin chút thức ăn, chòm xóm tôi là thiên
đàng có thật trong cuộc đời tôi. Bác Ba gái bên hàng xóm đang rửa rổ cá đồng ở
sàn nước nhà bác, bác sớt cho tôi nửa rổ, đem về cho mẹ mày muốn làm gì thì
làm. Bác dặn thêm tôi, mày đừng chạy lung tung cho mẹ mày thêm lo tên bay đạn lạc…
Tôi về nhà, bắc nồi kho cá. Nồi cá luộc đã sôi nhưng tôi không
biết bỏ gia vị nào vô nồi cho thành cá kho. Thằng em tôi níu áo mẹ xuống bếp để
nấu cho nó ăn vì nó đói quá rồi. Mẹ tôi nêm vài thứ vô nồi cá luộc đang sôi.
Cũng lại nó đã chạy lên nhà trên, nó la làng lên: “Mẹ ơi! Anh Hên về rồi.” Mẹ
tôi bỏ bếp, nhào lên nhà trên ôm chầm lấy anh Hên: “Sao có mỗi mình mày về, anh
mày đâu?” Anh Hên là trung sĩ truyền tin của anh tôi. Anh ấy quê ở Vĩnh long,
không chịu vô bưng với Việt cộng nên trốn lên Sài gòn, đi lính. Từ đó không về
lại Vĩnh long vì về là tụi nó làm thịt anh. Anh và anh tôi đóng quân ở An Lộc,
lần nào về phép, hai anh em cũng về chung và về nhà tôi, anh gọi mẹ tôi là mẹ rất
tự nhiên nên mẹ tôi thương anh lắm. Chúng tôi xem anh như người anh trong nhà
nên chơi thân với anh. Anh về phép còn bận rộn hơn ở đơn vị vì sáng sớm đã đi bắt
dế với chúng tôi, trưa đi câu cá rô, cá sặc, chiều tắm sông, tối đốt lửa nướng
khoai, nướng bắp. Những đêm mưa rỉ rả, anh làm đèn soi nhái, cây chĩa, rồi dẫn
tôi đi soi nhái rất thích…
Anh nói với mẹ tôi: “Mấy anh em con di tản cùng với dân để bảo vệ
đồng bào. Cứ đụng miết trên đường di tản vì dân có trẻ con khóc nhoi nên không
thể đi êm như tụi con trong rừng, nhưng về tới Bình dương thì dân tự về nhà người
thân được rồi. Tụi con bỏ súng, lột quân phục, xin đồ dân mặc đỡ để về nhà. Con
đi với thằng trung sĩ Minh, nhà nó ở Long an nên về tới Sài gòn thì tự nó về
nhà nó. Anh Tư con đi với thằng Dũng vì nhà nó ở Phú xuân, cùng đường về. Tụi
con chia ra đi cho bớt khả nghi chứ không đi chung vì đã bỏ súng. Không biết
sao anh Tư với thằng Dũng còn chưa về tới nhà…”
Mẹ tôi bảo tôi: “Con xuống bếp xem cá chín chưa. Lấy cơm cho em
con ăn dùm mẹ. Nó ồn quá!” Tôi xuống bếp, thấy nồi cá kho trào bọt lạ thường, bọt
tràn xuống tới bàn bếp. Vài con cá sặc nhỏ bị bọt tống ra khỏi nồi, đang cháy
khét ở đầu ngọn lửa bếp dầu hoả. Hèn gì thằng em tôi nói là cá ói hết ra nồi.
Tôi ngửi được mùi xà bông giặt nên nhìn quanh. Đúng là có bịch bột giặt hiệu
Viso trên bàn bếp…
Đã bốn mươi bảy năm rồi, thỉnh thoảng đi câu về cũng kho cá ăn
cơm, vớt bọt khi cá bắt đầu sôi nước. Tôi không thể nào quên nồi cá kho bột giặt
Viso hôm ba mươi tháng tư lịch sử ở quê nhà, lịch sử gia đình tôi sang trang, mẹ
tôi và cơn bấn loạn tinh thần theo vận nước.
Sáng nay được nghỉ lễ thứ sáu tốt lành. Trời mát rượi sau cơn
mưa đêm, khung cảnh sau nhà tuyệt đẹp và yên tĩnh với nắng vàng long lanh những
giọt mưa đêm còn đọng trên lá mới. Ngồi nghe tin tức chiến sự Ukraine với Nga
qua cái điện thoại với tách trà đầu ngày. Lòng khó quên bản tin cuối cùng trên
đài phát thanh Sài gòn khi cựu tổng thống Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng vô
điều kiện. Tôi cầu nguyện cho Ukraine vạn nhà, triệu người không tan tác gia
đình để từ đó điêu linh như người Việt, đất nước tôi bị thất thủ ngày ba
mươi tháng tư năm một chín bảy lăm.
Thời điểm lịch sử, cột mốc lịch sử ấy đã vui ít buồn nhiều trong
lòng bao thế hệ người Việt? Những người trực tiếp tham chiến ở tuổi đôi mươi
thì nay đã già, những người lớn tuổi hơn nữa đã đi xa; đứa trẻ chưa biết kho cá
hôm mất nước cũng đã phiêu bạt tới tóc bạc trên đầu nhưng đường về quê vẫn xa lắc
lê thê. Tôi nghĩ đến những người sinh ra đúng ngày ba mươi tháng tư năm một
chín bảy lăm thì nay họ cũng đã bốn mươi bảy tuổi. Cái tuổi nhìn lại cũng đã lắm
vui buồn cuộc đời, nhìn tới chững chạc vì đã qua tuổi mộng mơ, hoang tưởng như
khi còn trẻ. Những người bốn mươi bảy tuổi sống ở những thành phố lớn trong nước
hay định cư ở hải ngoại thì con cái họ đã tới tuổi đi đại học. Những người sống
ở thôn quê, thường lập gia đình sớm thì đã và đang lo chuyện dựng vợ gả chồng
cho con cái họ. Cho dù có sự khác biệt địa lý giữa trong nước và hải ngoại, sự
khác biệt giữa thành thị và thôn quê thì những người sinh ra ngày cột mốc lịch
sử ba mươi tháng tư năm một chín bảy lăm đã bước vào tuổi ngũ thập tri thiên mệnh
là đã nửa đời người, nói chính xác hơn là đã hai phần ba đời người với tuổi
trung bình thọ của người Việt nam. Nghĩa là chiến tranh đã kết thúc hai phần ba
một đời người, gần nửa thế kỷ thời gian đã lặng lẽ trôi qua. Những người tham
chiến đã lần lượt đem theo những vui buồn về nơi gió cát, lứa tuổi chúng tôi chỉ
là những chứng nhân lịch sử sẽ tiếp tục muộn phiền với ký ức chiến tranh, vẫn sống
với lòng hoài hương trên khắp địa cầu tới hết đời chúng tôi là hết người hoài
mong một Việt nam không cộng sản.
Tôi còn nhớ hôm kỷ niệm ba mươi năm ngày quốc hận ba mươi tháng
tư nơi tôi sinh sống. Sau buổi lễ long trọng ở Trụ sở cộng đồng của người Việt
quốc gia trong thành phố, vài người là lính cũ, vài anh em bên truyền thông báo
chí, vài người có lòng là bác sĩ, kỹ sư. Coi như thân hữu ở địa phương ngồi lại
với nhau để cùng tri ân những người đã khuất trong cuộc chiến đã hằn sâu vào
lòng người dân nước Việt, người lính thiệt thòi nhất từ khi loài người có chiến
tranh là lính Việt nam Cộng hòa. Một người bạn là nhà báo đã bộc bạch nỗi buồn:
“Đã ba mươi năm trôi qua mà cả trong và ngoài nước đều không có một tác phẩm
văn học đủ tầm mức với cuộc chiến Việt nam. Những người đủ sức viết nên tác phẩm
ấy đã lần lượt qua đời, những người đời sau càng không đủ sức vì không trực tiếp
tham chiến, còn quá nhỏ trong chiến tranh nên coi như không bao giờ có một tác
phẩm đúng đắn, xứng đáng với cuộc chiến mà theo tôi là không có hồi kết dù chiến
tranh đã tàn, nhưng hố phân cách bắc nam ngày càng sâu hơn, rộng hơn. Càng buồn
hơn với những quyển hồi ký mà chúng ta đã đọc, có lẽ ai trong chúng ta cũng dễ
dàng nhận ra hai nội dung cơ bản của những hồi ký về chiến tranh Việt nam ấy. Một
là đánh bóng tên tuổi người viết hồi ký để còn chút danh gì với núi sông, hai
là chạy tội bằng cách đổ tội cho chính những người đồng đội của mình. Đó không
phải chân dung đích thực của cuộc chiến.”
Tôi thấy bạn mình khá đúng với nhận xét trên. Nhưng tôi tìm thêm
mười bảy năm nữa cũng không ra được tác phẩm nào khả dĩ để giới thiệu cho độc
giả. Tìm thêm mười bảy năm cho đến hôm nay là quãng thời gian không ngắn cũng
không dài trong vô vọng thật rồi.
Nhưng lại gặp được một người đàn ông ở Hà nội chừng năm mươi tuổi,
là lứa tuổi sinh ra trước hay sau chiến tranh kết thúc không nhiều. Anh khoe mẽ
trên YouTube về việc anh mới mua được xe hơi bằng cách đưa cả gia đình đi ăn phở
vào một sáng cuối tuần ở Hà nội. Ba thế hệ ăn mặc chỉnh tề, mỗi người cầm trên
tay một lá cờ đỏ sao vàng be bé, họ hớn hở có trật tự hàng một tiến vào tiệm phở.
Họ vẫy cờ chào những người xem họ đang quay video clip, họ chào cả khán giả sẽ
xem đoạn video đang quay trên khắp thế giới bằng những lời kêu gọi ủng hộ kênh.
Họ chào cả nước với gương mặt tự hào, rạng rỡ nhất của người Hà nội đang tự mãn
với xã hội chủ nghĩa của bên thắng cuộc. Người cha của anh Hà nội mới mua được
cái xe van chở cả ba đời đi ăn phở. Ông cứ như ngài tổng bí thư đi kinh lý phố
phường, chào hỏi mọi người trong tiệm phở với cung cách bề trên kẻ cả, rồi đặt
cái nón cối xuống bàn trang trọng như báu vật của đời. Người ngoài bắc thích đội
nón cối như người miền tây nam bộ thích quấn khăn rằng ở cổ, có điều là đàn ông
hay đàn bà quấn cái khăn rằn quanh cổ đều thấy dân dã, hệch hạc. Không nhìn cứ
thấy ngu ngu, đần đần như đội cái nón cối. Tôi rất xin lỗi nói lên cảm xúc thật
trong lòng về sự hèn hạ khi nhìn cái nón cối. Điều tôi thấy không hiện hữu qua
hiện vật là người ta chấp nhận lá cờ vàng sao đỏ như một tự nhiên vì nó đại diện
cho lòng tự hào. Đời ông trong gia đình nọ ở độ tuổi ngoài bảy mươi, chắc là
anh bộ đội cụ Hồ trong chiến tranh Việt nam nên đến giờ ông vẫn đội nón cối dù
mặc bộ đồ lớn khá chỉn chu. Nhưng cái nón cối chửi bộ đồ tây, bộ đồ tây chửi
cái nón cối theo từng bước chân đi vào hư vô của ông. Không biết tả làm sao
gương mặt tự hào của ông như chửi cả loài người văn minh tiến bộ thật sự. Đến đời
con ông là người sanh trước hay sau biến cố lịch sử của quê nhà. Anh không có tổ
quốc, gia đình là màu mè cho vui ống kính máy quay, anh chỉ tự hào về thành quả
của anh là mới mua được cái xe hơi bảy chỗ ngồi nhưng nhồi nhét hết gia đình
lên tới gấp đôi số ghế. Hạnh phúc quá đơn sơ với lá cờ đỏ sao vàng trên tay anh
luôn tích cực hoạt động như để làm bằng nhờ ơn bác đảng nên anh mới có hôm nay,
anh có xe hơi. Đến đời thứ ba là những đứa cháu hồn nhiên vui tươi trong bộ quần
áo mới, được đi xe hơi, được đi ăn phở. Lẽ ra phải mừng cho (một) người Hà nội đã
thoát nghèo vì dù gì họ cũng là đồng bào, là bà con xa hay bà con gần không chừng
vì cha mẹ tôi cũng là người Hà nội. Nhưng không biết sao trong tôi cứ u uẩn nỗi
buồn chả lẽ mọi người dân Việt đã cam phận với lá cờ đỏ sao vàng – thì chấp nhận
được vì dù sao cũng phải sống đã, có tồn tại thì mới mưu cầu hạnh phúc được.
Nhưng hình ảnh trên tivi đang nói gì với tôi? Họ không phải cam phận. Họ không
có mưu cầu chính đáng. Họ đang rất tự hào với chỉ một cái xe hơi đã qua sử dụng.
Tôi thấm thía cụm từ “phía bên thua cuộc”. Tôi cam phận lực bất
tòng tâm. Nhưng về lại trong nam qua cái clip “đám cưới miền tây”. Tôi hay đọc,
xem truyền hình khi có thời gian để biết được sự thay đổi ở quê xưa. Cũng là
người cha ở độ tuổi năm mươi, cũng là người nếu có biết gì về chiến tranh Việt
nam thì chỉ là chuyện kể, hay những trang sách giáo khoa dưới mái trường xã hội
chủ nghĩa. Hôm trong ti vi tôi đang xem là hôm ông đi cưới vợ cho con trai ông.
Khi cả đoàn người nhà trai đi rước dâu đã sẵn sàng mâm, quả từ ngõ ra xe chờ
ngoài đường lộ. Ông rất thành kính dâng hương lên bàn thờ gia tiên nhà ông như
xin phép tổ tiên, ông bà cho ông được phép hôm nay đi cưới vợ cho con trai ông.
Sau ông là người con trai hôm nay đi cưới vợ cũng thắp hương, vái lạy tổ tiên,
ông bà cho phép con hôm nay được lập gia thất. Tôi mừng cho phong tục ở quê nhà
vẫn còn giữ được văn hoá dân tộc sau bốn mươi bảy năm miền nam bị cưỡng chiếm.
Nhưng tôi đã sụp hầm đau điếng lòng khi thấy bên trên những linh vị của tổ tiên
nhà nọ là di ảnh ông Hồ. Không lẽ bây giờ người ta chấp nhận dễ vậy sao? Một
người không bà con ngồi trên tiên tổ họ nhà mình. Lịch sử Việt nam bao đời chỉ
có Trời Phật mới trên ông bà. Sao đau lòng quá!
Còn gì nữa đâu mà hy với vọng, những người không biết mùi thuốc
súng đã lãnh trọn nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, nay đến đời con họ, cháu họ là
sự định đặt của số phận Việt nam. Buồn thì cứ buồn vì sự thực là chuyện buồn,
nhưng buồn nhất là người trong hai câu chuyện tôi kể lại không thấy buồn vì họ
đã bị tẩy não tới trống trơn…
Tôi nhìn ra cánh đồng bluebonnet sau nhà, hoa vẫn nở tím cả chiều
hoang biền biệt như màu tím hoa sim trong thơ Hữu Loan. Thấy thương thân biền
biệt tới hết đời vẫn không hết buồn khi tháng tư lại về cho hoa bluebonnet vẫn
nở sau nhà, những con chim sặc sỡ màu vẫn không cất nổi tiếng hót lảnh lót, tiếng
hót không vui cũng không buồn của nó như một đời người lưu lạc ngồi nhìn về cố
hương trong tiết tháng tư…
Phan
No comments:
Post a Comment