Người gõ có được cơ may làm việc trên 23 năm liền ngay trong tuyến đầu
của ngành thịt tại Canada nên cũng nhìn thấy được phần nào mặt trái của
nó …
Bs thú y mà khuyên người ta bớt ăn thịt, sao lạ vậy?
- Mặt Trái Của Kỹ Nghệ Thực Phẩm
Vật dưỡng nhơn, đó là câu tôi thường nghe Ông nội nói ngày xưa lúc tôi còn nhỏ.
Ngày
nay, đối với các quốc gia đang phát triển, một bữa ăn có nhiều thịt là
dấu hiệu của sự giàu sang và sự sung túc của gia đình. Giàu thì ăn thịt
ăn cá, còn nghèo thì ăn rau ăn độn.
Trong thực tế từ vài thập
niên qua, Tây phương đã thay đổi cái nhìn về thịt vì khoa học cho biết
nó là đầu mối của nhiều vấn đề sức khỏe.
Thịt Đỏ hay Thịt Trắng
Đối
với các nhà dinh dưỡng cũng như theo quy định của Cơ Quan Kiểm Tra Thực
Phẩm Canada CFIA, thì thịt được phân chia ra làm hai loại chánh căn cứ
trên màu sắc của chúng:
– Thịt đỏ (red meat): thịt bò, thịt heo,
thịt dê, thịt trừu, thịt ngựa, và đồ lòng như tim, gan, thận là ba món
được chánh thức được cho phép sử dụng tại Canada. Còn những món phá lấu
như bao tử, phổi, tử cung heo, ngầu pín…là những ngoại lệ chỉ dành cho
các sắc dân ethnies. Bò con nuôi bằng sữa, thịt có màu trắng hơi hồng
hồng nhưng cũng được xếp vào nhóm thịt đỏ.
– Thịt trắng (white
meat): thịt gà, thịt vịt, thịt gà Tây, thịt ngỗng, v.v…(vịt hay bay nên
thịt cần chứa nhiều myoglobin để giữ oxy giúp các cơ hoạt động, vì vậy
phần thịt ức hay magret có màu đỏ xậm hơn thịt gà và gà Tây).
Duck
and goose are poultry and considered “white” meat. Because they are
birds of flight, however, the breast meat is darker than chicken and
turkey breast. This is because more oxygen is needed by muscles doing
work, and the oxygen is delivered to those muscles by the red cells in
the blood. One of the proteins in meat, myoglobin, holds the oxygen in
the muscle, and gives the meat a darker color. USDA
Gần đây vì lý
do sức khỏe, dân chúng có khuynh hướng chuộng thịt trắng hơn thịt đỏ
nên kỹ nghệ chăn nuôi heo tại Canada cũng đã quảng cáo rầm rộ lên là
thịt heo cũng là một loại thịt trắng.
Xét về mặt dinh dưỡng thì
thịt nào cũng đều bổ cả, nhưng vấn đề then chốt là từ vài chục năm nay
có dư luận cho rằng ăn nhiều thịt đỏ không tốt cho sức khỏe. Các nhà
dinh dưỡng cũng như các giới y tế của các quốc gia u Mỹ đều thường hay
khuyên mọi người nên bớt ăn thịt, nhất là thịt đỏ (nhiều calories, nhiều
mỡ và nhiều cholesterol) để giảm thiểu nguy cơ xuất hiện của các bệnh
về tim mạch cũng như của một vài loại cancer mà nhứt là ung thư ruột già
(colon cancer).
Soi Ruột Cứu Người-Bác sĩ Nguyễn Văn Đức
http://nguoiphuongnam52.blogspot.com/…/soi-ruot-cuu-nguoi.h…
http://nguoiphuongnam52.blogspot.com/…/soi-ruot-cuu-nguoi.h…
“Ung thư ruột già là một trong những ung thư thường xuyên và nguy hiểm nhất tại Hoa Kỳ. Mỗi năm trên nước Mỹ hơn 130 ngàn người bị ung thư ruột già và trong số này gần phân nửa sẽ từ trần trong một thời gian ngắn sau khi bệnh được khám phá. Nếu so với các loại ung thư khác, ung thư ruột già đứng hàng thứ hai về số tử vong hàng năm, sau ung thư phổi. Người ta ước đoán khoảng 6% dân chúng sống tại Hoa Kỳ sẽ bị ung thư ruột già, và 6 triệu người đang sống trên nước Mỹ sẽ lìa trần vì bệnh này. Điều đáng ngại nhất là trong số những bệnh nhân này, tỷ số người Á châu càng ngày càng tăng nhanh”(ngưng trích Bs Bùi Xuân Dương –Ung thư ruột già.Hội Ung thư Việt Mỹ)
Ung
thư ruột già
People
who eat a lot of red meat or processed meats may be raising their risk
for colon cancer. Although this link has been shown before, a new study
by American Cancer Society researchers helps explain the relationship.
Eating
large amounts of red or processed meat over a long period of time can
indeed raise colorectal cancer risk. But the risks from such a diet are
smaller than those from obesity and lack of exercise, both for colon
cancer and for overall health.
Trước tình thế bất lợi nầy, kỹ
nghệ thịt bò và thịt heo đã không ngừng gia tăng quảng cáo khuyến mãi
cũng như tung ra những cuộc vận động hành lang lobbies rất nặng kí để
mong giành lại thị trường thịt đang có nguy cơ càng ngày càng xuống dốc.
Ngộ độc thực phẩm do thịt bẩn
Ngộ độc thực phẩm từ thịt bẩn cũng
là chuyện vẫn thường thấy xảy ra hằng ngày. Thịt có thể bị nhiễm phân
tại nhà máy, nhiễm vi khuẩn Salmonella, E coli 0157:H7, Campylobacter
jejuni, Listeria monocytogenes…
Vi khuẩn E.coli 0157:H7 là tác nhân của bệnh hamburger gây tiêu chảy có máu và suy thận vô cùng nguy hiểm đặc biệt là ở trẻ em.
Vấn đề hóa chất và tồn dư kháng sinh trong thịt
Trong
chăn nuôi thuốc kháng sinh được dùng để trị bệnh và để phòng bệnh,
nhưng công dụng chánh là để kích thích booster tăng trưởng (growth
promoter) giúp cho con vật mau lớn, tăng trọng nhanh cũng như giúp cải
thiện hệ số biến chuyển thức ăn (feed efficiency, feed conversion) hay
số lượng thực phẩm cần thiết để tạo ra 1kg thịt.
Theo luật Kiểm
Tra Thực Phẩm Canada, nhà chăn nuôi phải ngưng sử dụng thuốc kháng sinh
một thời gian năm ba ngày trước khi gởi con vật đến lò sát sinh. Lý do
là để thịt không có chứa các chất thuốc tồn dư. Thời gian ngưng thuốc
(withdrawal period) dài hay ngắn tùy theo loại kháng sinh sử dụng.
Sự
hiện diện của chất tồn dư kháng sinh (antibiotic residue) trong thịt có
thể gây nguy hiểm cho người tiêu thụ. Chẳng hạn như Pénicilline có thể
gây ra hiện tượng dị ứng.
Ăn thường xuyên thịt có kháng sinh có
thể làm nẩy sinh ra tình trạng kháng kháng sinh (antibioresistance) đối
với một vài loại vi khuẩn nào đó.
Thịt cũng có thể chứa các tồn dư của hóa chất, nông dược, thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ.
Thịt và hormones
Thịt bò cũng có thể chứa tồn dư hormones dùng để kích thích tăng trưởng ở các giống bò thịt.
Tại
Canada, luật chỉ cho phép sử dụng hormones để cấy dưới da sau lỗ tai bò
thịt (beef, bovin de boucherie) mà thôi. Đó là Estradiol, Progesterone,
Testosterone, Zeranol và Acetate de Trombolone. Hormones giúp chúng
tăng trưởng nhanh, cho thịt mềm và ít mỡ.
Có dư luận nghĩ rằng
hormones làm xáo trộn thời gian tiền dậy thì (prepuberty) ở trẻ em, và
cũng có thể gây ra một vài loại cancer nữa? Bởi lý do nầy mà Liên Hiệp u
Châu có một dạo đã cấm vận việc nhập cảng thịt bò Mỹ và Canada.
Để
bảo vệ sức khỏe người tiêu thụ, Cục Kiểm Tra Thực Phẩm Canada (CFIA)
vẫn thường xuyên đề ra những chương trình thử nghiệm chất tồn dư tại các
nhà máy thịt.
Đại tài phiệt Monsanto ngoài chuyện độc quyền
trong lãnh vực hạt giống đậu nành OGM và thuốc diệt cỏ Roundup họ còn là
nhà sản xuất và phân phối hormone rbGH giúp làm tăng năng xuất bò sữa.
Tại
Hoa Kỳ, bên cạnh vấn đề thịt bò nhiễm hormone, thì sữa bò cũng chẳng
khá gì hơn. Trên 30% bò sữa cũng thường được tiêm hormone tăng trưởng
recombinant bovine Growth Hormone (rbGH) gọi tắt là bovine somatotropin
(rbST). Đây là một loại hormone được chuyển đổi gène (genetically
engineered hormone) do Monsanto sản xuất ra và phân phối dưới tên thương
mại là Posalic.
Hormone nầy giúp tăng năng suất sữa lên rất khả
quan.Mặc dù bị chống đối dữ dội khắp nơi nhưng rbST vẫn được cơ quan FDA
Hoa kỳ chấp thuận cho phép sử dụng như thường từ năm 1993.
Rất
nhiều công trình khảo cứu giá trị trên thế giới đã cảnh giác dư luận về
mối nguy hại có thể có của hormone rbST đối với sức khỏe chúng ta nhất
là đối với trẻ em.
Ngoài Hoa kỳ ra, các quốc gia sau đây cũng
được thấy có áp dụng phương pháp tiêm hormone rbST cho bò sữa: Nam Phi,
Đại Hàn, Costa Rica, Ai Cập, United Arab Emirates, Honduras, Do Thái,
Kenya, Namibia, Peru, Nga, Slovakia, Zimbabwe…
Chỉ có Canada và
các quốc gia thuộc khối Liên hiệp u châu thì tuyệt đối không cho phép sử
dụng hormone rbST trong kỹ nghệ sữa của xứ họ.
Ăn nhiều thịt sẽ không tốt cho sức khỏe
Khảo cứu của National Institute of Health và American Association of Retired Persons.
Năm
1995, National Institute of Heath (NIH) phối hợp với American
Association of Retired Persons đã theo dõi sức khỏe của 500 000 người
hưu trí, tuổi từ 50 đến 71 tuổi. Có tất cả 71 000 đã qua đời trong thời
gian 10 năm nghiên cứu.
Qua khảo cứu trên, những người ăn nhiều thịt đỏ có nguy cơ tử vong 30% cao hơn những người tiêu thụ ít thịt đỏ.
Đối
với loại thịt biến chế (saucisse hong khói và bacon): những người tiêu
thụ nhiều cho thấy có số tử vong 20 lần cao hơn những người ăn ít hai
loại sản phẩm trên.
Nếu những người ăn nhiều thịt chịu thay đổi
thói quen và giảm bớt việc tiêu thụ thịt lại thì vấn đề bệnh tim mạch sẽ
giảm đi một cách rõ rệt ở 11% đàn ông và 21% ở đàn bà.
Có nhiều bằng chứng khoa học cho thấy một sự tiêu thụ quá nhiều thịt đỏ là nguyên nhân đưa dến cancer ruột colorectal.
Ngoài
ra sự lạm dụng thịt đỏ và thịt biến chế cũng bị nghi ngờ làm sản sinh
ra các loại cancer: phổi, thực quản,tụy tạng, tiền liệt tuyến, và cancer
vú ở phụ nữ trong thời gian tiền mãn kinh.
Mỡ động vật (tổng số
chất béo gras total, mỡ bão hòa saturated fat, hay chất béo không bão
hòa đơn thể monounsaturated fat) cũng là đầu mối gây cancer tụy tạng.
Đây là một loại cancer hiếm thấy, thường đưa đến tử vong. Tuy nhiên,
cũng có lối 5% bệnh nhân có thể sống trên 5 năm.
Trong khảo cứu
nói trên, những người tiêu thụ quá nhiều mỡ dầu dễ có nguy cơ bị cancer
tụy tạng (đàn ông 53% và đàn bà 23%) nhiều hơn so với nhóm người ăn ít
mỡ dầu.
Không thấy có mối liên hệ nào được đề cập giữa cancer tụy tạng và chất béo không bão hòa đa thể (polyinsaturés) gốc thực vật.
Ngoài ra thuốc lá, tình trạng béo phì, và bệnh tiểu đường đều được xem là những yếu tố nguy cơ của cancer tụy tạng.
Khảo cứu của National Institute of Health và American Association of Retired Persons.
Năm
1995, National Institute of Heath (NIH) phối hợp với American
Association of Retired Persons đã theo dõi sức khỏe của 500 000 người
hưu trí, tuổi từ 50 đến 71 tuổi. Có tất cả 71 000 đã qua đời trong thời
gian 10 năm nghiên cứu.
Qua khảo cứu trên, những người ăn nhiều
thịt đỏ có nguy cơ tử vong 30% cao hơn những người tiêu thụ ít thịt
đỏ.(heo, bò, dê, cừu)
Đối với loại thịt biến chế (saucisse hong
khói và bacon): những người tiêu thụ nhiều cho thấy có số tử vong 20 lần
cao hơn những người ăn ít hai loại sản phẩm trên.
Nếu những
người ăn nhiều thịt chịu thay đổi thói quen và giảm bớt việc tiêu thụ
thịt lại thì vấn đề bệnh tim mạch sẽ giảm đi một cách rõ rệt ở 11% đàn
ông và 21% ở đàn bà.
Có nhiều bằng chứng khoa học cho thấy một sự tiêu thụ quá nhiều thịt đỏ là nguyên nhân đưa dến cancer ruột colorectal.
Ngoài
ra sự lạm dụng thịt đỏ và thịt biến chế cũng bị nghi ngờ làm sản sinh
ra các loại cancer: phổi, thực quản,tụy tạng, tiền liệt tuyến, và cancer
vú ở phụ nữ trong thời gian tiền mãn kinh.
Mỡ động vật (tổng số
chất béo gras total, mỡ bão hòa saturated fat, hay chất béo không bão
hòa đơn thể monounsaturated fat) cũng là đầu mối gây cancer tụy tạng.
Đây là một loại cancer hiếm thấy, thường đưa đến tử vong. Tuy nhiên,
cũng có lối 5% bệnh nhân có thể sống trên 5 năm.
Trong khảo cứu
nói trên, những người tiêu thụ quá nhiều mỡ dầu dễ có nguy cơ bị cancer
tụy tạng (đàn ông 53% và đàn bà 23%) nhiều hơn so với nhóm người ăn ít
mỡ dầu.
Không thấy có mối liên hệ nào được đề cập giữa cancer tụy tạng và chất béo không bão hòa đa thể (polyinsaturés) gốc thực vật.
Ngoài ra thuốc lá, tình trạng béo phì, và bệnh tiểu đường đều được xem là những yếu tố nguy cơ của cancer tụy tạng.
Vấn đề chất N-nitroso
Nitrates and nitrites are used widely in the meat industry to cure. They are usually mixed with meat binders and cure ingredients and are added to dry sausages, semi-dry sausages, preserved meat and preserved meat by-products such as ham and salami. They can be added in the form of sodium and potassium salts (ex: sodium nitrate, sodium nitrite, potassium nitrate and potassium nitrite).
Ts dinh dưỡng học Marie Josée Leblanc, Université de Montréal, cho biết cơ chế hình thành ung thư là sự tạo ra trong ruột chất N-nitroso.
Cùng với một số chất khác N-nitroso thúc đẩy ra sự xuất hiện cancer. Một trong những chất khác là chất sắt trong máu dưới dạng heme. Đây là chất tạo ra màu đỏ của thịt.
Sắt heme rất dễ hấp thụ trong cơ thể và giúp vào việc tạo ra chất N-nitroso, ngược với chất sắt gốc thực vật gọi là non heme (fer non hémique).
Ngoài ra cũng phải kể đến sự hiện diện của nitrite, một chất phụ gia được trộn thêm trong thịt biến chế, hoặc các chất nitrate có trong nước, hay trong một vài loại rau quả. Tất cả đều cần thiết để tạo ra N-nitroso.
Một số vi khuẩn nằm sẵn trong ruột cũng dự phần vào trong việc sản xuất ra N-nitroso.
Cách nấu nướng cũng là một nguyên nhân nữa.
Một cơ chế khác là cách nấu nướng cũng có thể là nguyên nhân gây cancer.
Nhiệt độ càng cao, nấu càng lâu và thịt cành chín thì càng tạo ra nhiều chất gây cancer.
Có hai loại phân tử được tạo ra lúc nấu nướng: Chất amines hétérocycliques AHC và chất Hydrocarbures aromatiques polycycliques HAP.
AHC được tạo ra lúc thịt (thịt đỏ cũng như thịt trắng) phải chịu đựng một nhiệt độ quá cao.
HAP,xuất hiện lúc nước thịt hay mỡ chảy ra, bóc khói và bám vào thịt. Đây là trường hợp thường thấy lúc nướng thịt trên lữa hoặc chiên trong chảo.
Làm sao bây giờ?
Các nhà dinh dưỡng cũng như Canadian Cancer Society khuyên chúng ta nếu có ăn thịt đỏ thì:
*nhớ ăn kèm theo nhiều rau quả đặc biệt là broccoli, cải bắp cabbage, các loại hạt, trái cây vì chúng rất giàu chất chống oxyt hóa antioxidant và chất chống cancer.
*lựa những thịt nhiều nạc, lóc bỏ bớt mỡ trước khi nướng.
*Nướng những phần thịt nhỏ nhằm giảm thời gian trên lửa.
*Ướp thịt trong môi trường acide, chẳng hạn như với chanh, với giấm…
*Bao thịt lại trong giấy nhôm trước khi nướng.
*Nên nấu, nướng hoặc luộc sơ sơ các miếng thịt trong trong nồi nước trước khi đem nướng thật sự trên lò barbecue.
*Giảm bớt độ nóng lò barbecue và thường xuyên trở bề miếng thịt lúc nướng.
*Ưu tiên cách nấu, nướng với lửa nhỏ.
*Trong một tuần, giới hạn tối đa ba miếng thịt 85gr (3 ounces) cho một người. Mỗi miếng không lớn hơn kích thước một lá bài.
*Nên sử dụng thịt biến chế không có bảo quản bằng nitrite.
*Chót hết, nên dùng thường xuyên thịt gà, cá, rau cải, các loại đậu, trứng gà, tàu hũ…
C - réactive Protein CRP: một nguy cơ cho bệnh tim mạch
CRP do gan sản xuất và thải vào máu. CRP xuất hiện nhiều trong các tình trạng viêm sưng inflammation.Một mối nguy cơ cho bệnh tim mạch.
High CRP levels are considered by some to be a risk factor for heart disease, but it is not clear whether CRP is only a sign of cardiovascular disease or if it actually an underlying cause of heart problems. The American Heart Association has developed the following in relation to cardiovascular health and CRP levels:
You are at low risk of developing cardiovascular disease if your hs-CRP level is lower than 1.0mg/L
You are at average risk of developing cardiovascular disease if your levels are between 1.0 and 3.0 mg/L
You are at high risk for cardiovascular disease if your hs-CRP level is higher than 3.0 mg/L
Ts dinh dưỡng học Benoit Lamarche, univ. Laval Canada, nghĩ rằng protein động vật có khuynh hướng làm gia tăng hiện tượng viêm sưng so với protein gốc thực vật.
Nhận xét trên được rút ra tử khảo cứu dinh dưỡng so sánh giữa chế độ ăn uống của dân Quebecois (nhiều mỡ dầu, chất béo chẳng hạn như các món, poutine, pâté chinois, sous marins, dessert bánh ngọt, rượu…) với chế độ dinh dưỡng Địa trung Hải (régime méditerranéen) nhiều cá, rau đậu, hạt vẻ, hạt thô, và một ly rượu chát đỏ (ly nho nhỏ) mỗi ngày sau buổi ăn chiều. Uống 5 ngày/tuần.
Sự kiện ăn uống theo chế độ dinh dưỡng Địa Trung Hải, có giảm hoặc không có giảm cân, giúp kéo hàm lượng Protein C xuống 22%. Protein C là chỉ điểm marqueur của viêm sưng.
Biết rằng tình trạng viêm sưng mãn tính thường gặp ở những ngưởi dư cân, mập bụng obésité abdominale, là một nhân tố nguy cơ cho sự xuất hiện ra các bệnh tim mạch.
Theo Ts Benoit Lamarche, chế độ dinh dưỡng Địa Trung Hải có thể làm giảm một cách hiệu quả tình trạng viêm sưng.
Kết luận: “bớt ăn thịt” là tốt nhứt
Ăn thịt hay không ăn thịt ? Một câu hỏi rất khó trả lời.
Câu trả lời có khác nhau hay không là tùy theo cái nhìn của mỗi người.
Nói chung, thì ngày nay, rất nhiều nhà khoa học đều khuyên chúng ta nên giảm bớt việc ăn thịt đỏ (thịt bò, thịt heo, thịt dê cừu, đồ lòng, gan, tim, thận…).
Nên ăn thịt nạc, hoặc thay thế bằng thịt trắng như thịt gà đã bỏ da bỏ mỡ, và cũng nên ăn cá 2-3 lần trong tuần.
Nên dùng thức ăn đa dạng, ít mỡ dầu, ít muối, ít đường, nhiều chất xơ, nhiều rau quả tươi 10 portions, servings tức 10 phần chuẩn trong một ngày (1phần tương đương ½ tách rau tươi hoặc 1 trái pomme trung bình), nhiều đậu và hạt.
Bớt rượu, bớt cà phê, bỏ thuốc lá và phải nhớ vận động tập thể dục đều đặn và thường xuyên./.
Đọc Thêm:
- Thịt, Bạn Hay Thù
http://vietbao.com/a187870/thit-ban-hay-thu
- Có nên ăn chay hay không?
http://vietbao.com/a235119/co-nen-an-chay-hay-khong
Dầu Olive Và Chế Độ Dinh Dưỡng Địa Trung Hải
http://vietbao.com/a222564/dau-olive-va-che-do-dinh-duong-dia-trung-hai
- Eating Meat May Raise Colon Cancer Risk
http://www.webmd.com/colorectal-cancer/news/20110523/eating-meat-may-raise-colon-cancer-risk
Nitrates and nitrites are used widely in the meat industry to cure. They are usually mixed with meat binders and cure ingredients and are added to dry sausages, semi-dry sausages, preserved meat and preserved meat by-products such as ham and salami. They can be added in the form of sodium and potassium salts (ex: sodium nitrate, sodium nitrite, potassium nitrate and potassium nitrite).
Ts dinh dưỡng học Marie Josée Leblanc, Université de Montréal, cho biết cơ chế hình thành ung thư là sự tạo ra trong ruột chất N-nitroso.
Cùng với một số chất khác N-nitroso thúc đẩy ra sự xuất hiện cancer. Một trong những chất khác là chất sắt trong máu dưới dạng heme. Đây là chất tạo ra màu đỏ của thịt.
Sắt heme rất dễ hấp thụ trong cơ thể và giúp vào việc tạo ra chất N-nitroso, ngược với chất sắt gốc thực vật gọi là non heme (fer non hémique).
Ngoài ra cũng phải kể đến sự hiện diện của nitrite, một chất phụ gia được trộn thêm trong thịt biến chế, hoặc các chất nitrate có trong nước, hay trong một vài loại rau quả. Tất cả đều cần thiết để tạo ra N-nitroso.
Một số vi khuẩn nằm sẵn trong ruột cũng dự phần vào trong việc sản xuất ra N-nitroso.
Cách nấu nướng cũng là một nguyên nhân nữa.
Một cơ chế khác là cách nấu nướng cũng có thể là nguyên nhân gây cancer.
Nhiệt độ càng cao, nấu càng lâu và thịt cành chín thì càng tạo ra nhiều chất gây cancer.
Có hai loại phân tử được tạo ra lúc nấu nướng: Chất amines hétérocycliques AHC và chất Hydrocarbures aromatiques polycycliques HAP.
AHC được tạo ra lúc thịt (thịt đỏ cũng như thịt trắng) phải chịu đựng một nhiệt độ quá cao.
HAP,xuất hiện lúc nước thịt hay mỡ chảy ra, bóc khói và bám vào thịt. Đây là trường hợp thường thấy lúc nướng thịt trên lữa hoặc chiên trong chảo.
Làm sao bây giờ?
Các nhà dinh dưỡng cũng như Canadian Cancer Society khuyên chúng ta nếu có ăn thịt đỏ thì:
*nhớ ăn kèm theo nhiều rau quả đặc biệt là broccoli, cải bắp cabbage, các loại hạt, trái cây vì chúng rất giàu chất chống oxyt hóa antioxidant và chất chống cancer.
*lựa những thịt nhiều nạc, lóc bỏ bớt mỡ trước khi nướng.
*Nướng những phần thịt nhỏ nhằm giảm thời gian trên lửa.
*Ướp thịt trong môi trường acide, chẳng hạn như với chanh, với giấm…
*Bao thịt lại trong giấy nhôm trước khi nướng.
*Nên nấu, nướng hoặc luộc sơ sơ các miếng thịt trong trong nồi nước trước khi đem nướng thật sự trên lò barbecue.
*Giảm bớt độ nóng lò barbecue và thường xuyên trở bề miếng thịt lúc nướng.
*Ưu tiên cách nấu, nướng với lửa nhỏ.
*Trong một tuần, giới hạn tối đa ba miếng thịt 85gr (3 ounces) cho một người. Mỗi miếng không lớn hơn kích thước một lá bài.
*Nên sử dụng thịt biến chế không có bảo quản bằng nitrite.
*Chót hết, nên dùng thường xuyên thịt gà, cá, rau cải, các loại đậu, trứng gà, tàu hũ…
C - réactive Protein CRP: một nguy cơ cho bệnh tim mạch
CRP do gan sản xuất và thải vào máu. CRP xuất hiện nhiều trong các tình trạng viêm sưng inflammation.Một mối nguy cơ cho bệnh tim mạch.
High CRP levels are considered by some to be a risk factor for heart disease, but it is not clear whether CRP is only a sign of cardiovascular disease or if it actually an underlying cause of heart problems. The American Heart Association has developed the following in relation to cardiovascular health and CRP levels:
You are at low risk of developing cardiovascular disease if your hs-CRP level is lower than 1.0mg/L
You are at average risk of developing cardiovascular disease if your levels are between 1.0 and 3.0 mg/L
You are at high risk for cardiovascular disease if your hs-CRP level is higher than 3.0 mg/L
Ts dinh dưỡng học Benoit Lamarche, univ. Laval Canada, nghĩ rằng protein động vật có khuynh hướng làm gia tăng hiện tượng viêm sưng so với protein gốc thực vật.
Nhận xét trên được rút ra tử khảo cứu dinh dưỡng so sánh giữa chế độ ăn uống của dân Quebecois (nhiều mỡ dầu, chất béo chẳng hạn như các món, poutine, pâté chinois, sous marins, dessert bánh ngọt, rượu…) với chế độ dinh dưỡng Địa trung Hải (régime méditerranéen) nhiều cá, rau đậu, hạt vẻ, hạt thô, và một ly rượu chát đỏ (ly nho nhỏ) mỗi ngày sau buổi ăn chiều. Uống 5 ngày/tuần.
Sự kiện ăn uống theo chế độ dinh dưỡng Địa Trung Hải, có giảm hoặc không có giảm cân, giúp kéo hàm lượng Protein C xuống 22%. Protein C là chỉ điểm marqueur của viêm sưng.
Biết rằng tình trạng viêm sưng mãn tính thường gặp ở những ngưởi dư cân, mập bụng obésité abdominale, là một nhân tố nguy cơ cho sự xuất hiện ra các bệnh tim mạch.
Theo Ts Benoit Lamarche, chế độ dinh dưỡng Địa Trung Hải có thể làm giảm một cách hiệu quả tình trạng viêm sưng.
Kết luận: “bớt ăn thịt” là tốt nhứt
Ăn thịt hay không ăn thịt ? Một câu hỏi rất khó trả lời.
Câu trả lời có khác nhau hay không là tùy theo cái nhìn của mỗi người.
Nói chung, thì ngày nay, rất nhiều nhà khoa học đều khuyên chúng ta nên giảm bớt việc ăn thịt đỏ (thịt bò, thịt heo, thịt dê cừu, đồ lòng, gan, tim, thận…).
Nên ăn thịt nạc, hoặc thay thế bằng thịt trắng như thịt gà đã bỏ da bỏ mỡ, và cũng nên ăn cá 2-3 lần trong tuần.
Nên dùng thức ăn đa dạng, ít mỡ dầu, ít muối, ít đường, nhiều chất xơ, nhiều rau quả tươi 10 portions, servings tức 10 phần chuẩn trong một ngày (1phần tương đương ½ tách rau tươi hoặc 1 trái pomme trung bình), nhiều đậu và hạt.
Bớt rượu, bớt cà phê, bỏ thuốc lá và phải nhớ vận động tập thể dục đều đặn và thường xuyên./.
Đọc Thêm:
- Thịt, Bạn Hay Thù
http://vietbao.com/a187870/thit-ban-hay-thu
- Có nên ăn chay hay không?
http://vietbao.com/a235119/co-nen-an-chay-hay-khong
Dầu Olive Và Chế Độ Dinh Dưỡng Địa Trung Hải
http://vietbao.com/a222564/dau-olive-va-che-do-dinh-duong-dia-trung-hai
- Eating Meat May Raise Colon Cancer Risk
http://www.webmd.com/colorectal-cancer/news/20110523/eating-meat-may-raise-colon-cancer-risk
Nguyễn Thượng Chánh
No comments:
Post a Comment