Vào năm 1940 quân Nhật đã
tràn vào Đông Dương và ngự trị Saigòn, nên hằng ngày máy bay Mỹ liên tục oanh
tạc, nhiều khu phố sụp đổ tan tành. Thương vong không ít. Nhiều
người đem gia đình tản cư về quê. Gia đình tôi cũng ở trong trường hợp đó, chỉ
có ông ngoại và dì Út tôi ở lại trông nhà. Lúc đầu ở ngay quận Đức Hòa, nhưng
vào tháng 11 năm 1945 quân Pháp đánh chiếm Hốc Môn Củ Chi và kiểm soát quốc lộ
1, đám Việt Minh ở Đức Hòa ra lịnh sơ tán vào vùng sâu. Dân chúng gồng gánh
chay vào khu Gò Sao , Rạch Nhum có gia đình chạy tuốt và
mật khu Rừng Thơm phải bị chết chốc vì Tây oanh
tạc, gia đinh tôi ngừng lại xóm Trại Bí xã Hiệp Hòa. Vào đầu năm 1946 Việt Minh
rất tàn bạo họ giết đạo Cao Đài, giết các ông hội đồng, cả người trong ban hội
tề xã., đốt nhà và cướp tài sản! Lúc đó thật kinh hoàng, cha tôi trước là công
chức sở Công chánh nên ông sợ lắm, một đêm ông bỏ nhá lẫn qua đường Hốc Môn vào
Sai gon. Thời gian sau, nửa đêm khuya má tôi dẫn chúng tôi lẫn trốn
qua Củ Chi , theo quốc lộ 1 về Phú Nhuận ở nhà Ông ngoại tôi. Bây giờ tôi bắt
đầu đi học lại, đã !0 tuổi rồi mà mới được học lớp hai chung lớp với mấy bạn ở
bảy tuổi. May quá trong xóm gần nhà có anh bạn tên Ân cùng hoàn cảnh hồi cư như
tôi, lớn đầu mà học trễ! Trường chúng tôi học rất xa, vùng Phú Nhuận chỉ có một
trường Sơ Học , gồm có 3 lớp ( 1,2,3 lúc đó gọi là lớp 5 , lớp tư và lớp 3 dạy
nhiều tiếng Pháp), gọi là trường Tổng, tọa lạc khu Tổng Tham Mưu. Hai chúng tôi
rất chăm học, vì cậu Mười tôi cứ hăm he rằng : hai đứa bây phải
gắng lên lớp luôn, nếu rớt người ta đuổi học vì lớn tuổi chịu dốt
đó!
Qua
lớp tiểu học , tôi và Ân thi đậu vào trường Petrus ký, lúc đó hai đứa đã mười
lăm tuổi rồi nhưng chúng tôi rất chăm học nên
thi đậu trung học đệ nhất cấp rất dễ. Đến lúc học đệ nhị để chuẩn bị
thi Tú tài 1 , các thầy giáo ai cũng bảo Tú Tài 1 khó đậu lắm, tỷ lệ
đậu chỉ mười phần trăm Chúng tôi thật lo, đã qua 20 tuổi nếu rớt là phải đi
quân dịch . Ngặt một nỗi, lúc đó khu phố tôi có một gia đình rất giàu về ở, họ
có cả Ô Tô, có máy hát, hát rùm trời!... nhất là từ buổi
trưa đến tối , đủ loại tuồng nào là Lan và Điệp, Phạm Công Cúc Hoa, Trần Minh
Khố Chuối …, gây xáo trộn cho sinh hoạt của cả xóm!
Một
buổi tan trường về Ân hỏi tôi: hơn tháng nay bạn có học bài được không? Tôi nói
: - trời ơi chỉ nghe cải lương nhức đầu lắm!
Ân đáp :- Có một chỗ yên
tịnh lắm. Mình vào chùa Kim Sơn học bài.
Tôi
nói đùa : vào chùa tu hả ông?
-Không
phải tu hành gì cả, chùa nầy sư nữ trụ trì là Dì Hai của tôi không sao đâu hai
đứa mình cứ ngồi bên hông chùa học bài, yên lắm, vả lại cảnh chùa đẹp, ông thấy
là ưng ý, chắc ông sẽ viết được những bài thơ hay!
Hôm
sau đi học về lối 2 giờ trưa hai đứa chúng tôi vào chùa Kim Sơn, cũng gần nhà ,
chỉ qua con lộ Thái Lập Thành ( nay là Phan Xích Long} là tới. Trước khi vào
chùa phải qua một nghĩa trang khá rộng. Chúng tôi đi men theo con đường mòn lên
khu đồi thấp là sân chùa. Ôi một cảnh thật dẹp ít có tại vùng Phú nhuận . Một
dãy hàng dương rì rào theo gió cạnh con rạch nhiều bông lục bình tím, bên phải
là một ao sen có nhiều cá, trên bờ ao vài bụi chuối, có cây buồng chuối có trên
2 trăm nải dài thòng xuống đất thật bắt mắt. Giữa sân một gò mối to đụn trên
ngọn có bụi dâm bụt bông vàng đỏ rung rinh theo gió!
Ân
chợt nói nhỏ với tôi rằng: dưới gò mối đó có hai con rắn hổ to và
dài, có lẽ nó tu rồi nên nó hiền lắm , thỉnh thoảng bò vào chánh điện nghe kinh
!Tôi nghe xong phát sợ hỏi lại :-bạn có lần nào thấy không?. Ân đáp : thấy
nhiều lần, vì chùa nầy là chủa dì Hai tôi nên tôi hay lui tới!
Chuyện đó coi như qua di.
Thường ngày cứ độ hai giờ trưa hai chúng tôi vào ngồi học ở hiên chùa thật bình
yên. Có một hôm đang ngồi học Ân vụt đứng dậy chạy băng qua nghĩa trang, tôi
chòm lên nhìn theo thắy Ân đang quảy một gánh vỏ dừa vào sân chùa , đi sau là
một ni cô trẻ,
Cô lấy chiếc khăn trên vai
lau mồ hôi trên mặt , mặt cô ửng hồng , đôi mắt thật tinh anh. Cô nhìn tôi chấp
tay khe khẻ nói : mô Phật chào huynh . Tôi nhìn cô không đáp lai , chỉ đa một
tiếng. Ân dổ hai thúng vỏ dừa xuông săn. Cô vội lấy chiếc đỏn
gánh trải mấy vỏ dừa ra phời, bèn nhìn Ân cười ,chấp tay nói khẻ: mô
Phật, xin cám ơn Huynh, Ân không nói lời nào chỉ gật đầu !
Sau
khi Cô khuất trong chùa thì Ân nói với tôi rằng: Ni cô nầy tội nghiệp lắm, cô
pháp danh là Diệu Hạnh, cha mẹ Cô ở cùng quê với má tôi quận Cần Đước. Vào năm
1947 Tây đi bố vào xã, ba Cô trước là thầy giáo tiểu học tức nhiên
là giỏi tiếng Pháp. Tây hỏi Ông trả lời ý tốt nói Tây đừng đốt nhà vì ở đây dân
hiền lắm. Thế là cả xóm không bị đốt nhà! Nhưng rủi ở xóm ngoài, ba
tên du kích đang núp dưới ao cá bị Tây bắn chết, thế là Việt Minh bảo thầy giáo
chỉ điểm cho Tây, nên tối chúng đến nhà giết cả cha mẹ Cô .Trời ơi lúc đó Cô
mới có Sáu tuổi thật bơ vơ! Má tôi hay tin xuống Cần Đước dẫn cô về cho đi học
cùng trường với Kim Anh em tôi. Cô thông minh học giỏi lắm và đậu
tiểu học, má tôi cho cổ cùng học với Kim Anh tại Tư Thục Tân
Thịnh được đến lớp đệ ngũ ( lớp 8 ) lúc dó cô trổ mã đẹp lắm , một
hôm má tôi dẫn cô và Kim Anh đi chùa nầy cô gặp Sư cô Diệu Đức là dì tôi họp ý
trùng nghiệp thế nào không biết, cổ xin nghỉ học vào chùa phát nguyện đi tu. Vì
là chùa của dì nên tôi thường hay lui tới, thấy cô cực khổ mà tôi tội nghiệp và
thương lắm! Thật hai ngõ Đạo đời trong cõi trần gian nầy ngõ nào cũng khổ cũng
cực! Nói đến đó tôi thấy
Ăn nhìn xuông
mắt vương lệ ngậm ngùi!
Chúng
tôi tiếp tục đến chùa nầy bọc bài một thời gian dài rất thuận tiện và kỳ thú:
nếu trời vừa đổ mưa ni cô Diệu Hạnh ra bảo: hai Huynh vào trong kẻo ướt lanh,
thường lúc đó Ân bảo nhỏ với tôi : không sao vào đi chắc dì Hai tôi bảo cô ra
kêu đấy. Còn điều kỳ thú nữa là thỉnh thoảng vào buổi trưa 2 chàng rắn hổ từ gò
mối chui ra lửng thửng bò vào chánh điện, thường có một con rùa thật
to từ đám chuối bò ra ăn những bông sứ ( hoa đại ) rụng , từ từ lại
gần chúng tôi rất thân thiện. Trên cành dương có những con chim cu
gù gáy liên tục bất chợt tôi nhớ cảnh quê nhà tôi vào buổi trưa quá! Thỉnh
thoảng chiếc xuồng ba lá lướt qua, các chi hay bà chấp tay hướng vào
chùa xá xá biểu lộ sự tôn kính !
Một
buổi trưa trước khi vào chùa để ôn bài, Ân dẫn tôi theo đường Võ Di Nguy vào
tiệm giày Minh Quang anh lấy đôi dép có quay sau, anh nói là mua cho Diệu Hạnh
vì anh thấy mấy ngày nay dép của Diệu Hạnh đứt quay nên cô đi chân
không thật tội nghiệp.
Nghe
như vậy tôi nghĩ Ân thương Diệu Hạnh biết bao!
Lần
lữa chúng tôi qua hai kỳ thi Tú Tài 1 và hai , cả hai đổ được hạng bình
thứ chúng tôi nghĩ chắc nhờ Cô Diệu Hạnh cầu nguyện cho
chúng tôi!
Sau
thời trung học có kết quả, chúng tôi nộp đơn thi vào trường Quốc Gia Hành Chánh
kết quả Ân rủi không trúng tuyển, tôi nghĩ Ân sẽ học ở, Đại Học Khoa
Học Ban Toán,, nào ngờ Ân Vào trường Võ bị Đà Lạt . Trước ngày Ân đi
nhập học , Ân rủ tôi vào Chùa Kim Sơn lễ Phật
, Thật sự Ân đến để giả từ Diệu Hạnh, ở sân
chùa tôi đứng cách xa bên hồ cá. Tôi thấy Diệu Hạnh khóc nhiều lắm!
Rồi
hai chúng tôi xa nhau, xa ngôi chùa nhiều kỷ niệm, Ân xa một ni sư nhưng hình
bóng Diệu Hạnh mãi trong lòng chàng! Lúc ra trường chiến tranh càng lúc càng ác
liệt, Ân ở miền Cao nguyên còn tôi ở một quận gần biên giới Viêt Miên.Thật xa
cách có nhớ về nhau đôi lúc, nhưng nhiệm vụ tất bật của đời trai thời chinh
chiến nên mọi sự đều gác lại!
Có
một lần cha tôi chết tôi được về phép để lo tang , gặp Kim Anh , em gái Ân ,
đến chia buồn. Kim Anh hỏi tôi có biết chuyện tình của Ân và ni sư Diêu Hạnh
không . Tôi đáp : có biết nhưng chắc không rõ như cô trong gia đình đâu!
Tiếp
đó Kim Anh nói :-“lúc anh Ân mới đậu Tú Tài 2, cả nhà vui lắm, trong bữa cơm
chiều Ân nói với má tôi rằng anh nhờ má tôi nói với dì Hai
Ni sư trụ trì
chùa Kim Sơn cho Diệu Hạnh hoàn tục để anh cưới Diệu Hạnh làm
vợ! Má tôi nghe như vậy bà kêu trời và phản đối, Bà nói :” Ân ơi đời
là bể khổ trầm luân, Diệu Hạnh thoát tục , thoát cõi mê lầm về bến giác cớ chi
con kéo người ta về tục lụy khổ đau. Má thương con chìu con mọi thứ nhưng việc
nầy má không bao giờ chấp nhận. Ân ơi “tu là cõi phúa tình là dây oan “ mà con
! Con đậu tú tài mai mốt lên đại hôc thiếu gì nữ sinh đẹp để con thương, cớ chi
làm bận rộn cảnh chùa xáo trôn đời một ni cô” . Anh Ân nghe vậy không cải lại
má, thật bản tánh anh hiền lắm, cả ngày sau anh chỉ ngủ trong buồng và im lặng.
Sau đó anh bỏ trường Đại học Khoa học vào trường võ bị Đà
Lạt. Nay thì anh sống cuộc đời sương gió khói lửa, canh cánh trong lòng một mối
tình. Ôi như cảnh Hồn Bướm Mơ Tiên!.” Kim Anh lúc đó là một góa phụ chồng
cô sĩ quan sư đoàn 5 bị Việt cộng phục kích chết ở Lộc Ninh!
Đến
sau ngày 30 thán tư 1975 tôi và Ân bị lưu đày nơi đất Bắc miền
thượng du , đến năm 1979, bị trung Cộng đánh họ đưa các trại trên đó
về miền trung du nhất là trại Tân Lập Vĩnh Phú, ở đây mấy năm sau, hai phân
trại K2 và K3 phải ra Bến Ngọc gánh lá cọ về sửa nhà tình cờ gặp Ân
chúng tôi mừng lắm, tôi hỏi Ân có biết tin về Diệu Hạnh không, Ân
đáp :- có lần nào Kim Anh gửi quà Cô cũng cho tôi vài món chay như
tương hột đậu phộng rang và một lá thơ ngắn mấy dòng, nguyện Đức Phật Gia hộ
cho tôi và dặn rằng khi được về nhớ thăm chùa Kim Sơn!
Tôi
đáp : tức là vào thăm cô phải không?
Ân
nhìn tôi im lặng chỉ nở một nụ cười thật héo hắt!
Đến
năm 1984 trại Vĩnh Phú thả nhiều đợt, tôi và Ân được thả vào tháng
bảy âm lịch , về đến nhà vào sáng rằm tháng bảy, mới 11giờ trưa Ân sang nhà tôi
rủ vào thăm chùa Kim Sơn, tôi bàn với Ân :- hôm nay là lễ Vu Lan
Phật tử đông lắm cô Diệu Hạnh bận, sao tiếp chuyện với mình được, rồi chúng tôi
hẹn nhau 7 giờ chiều sẽ đến.
Chiều
hôm đó mưa lâm râm , đến chỗ nghĩa trang thì mit mù, hai Chúng tôi lần qua
nghĩa trang xa xa bên trong có bóng một ni sư , chợt nghe có tiếng nói : “hai
huynh về rồi hả? Ân nói nhỏ với tôi: như tiếng của Diêu Hạnh. Hai chúng tôi
không trả lời. Ở phía trong nghĩa trang nói tiếp : Hai Huynh vào lễ
Phật đi.
Chúng
tôi đi mau đến sân chùa và vào ngay chánh điện, lúc đó chi có khoảng 15 người
kể cả các ni sư. Chúng tôi ngồi sau cùng. Chừng 15 phút hết lễ, Ân
và tôi liền gặp ni cô ngưng hầu chuông Ân hỏi: -sao không không thấy cô Diệu
Hạnh? Ni cô trả lời vội : Diêu Hạnh viên tịch gần một năm rồi!
Nghe
như vậy xương sống tôi ớn lạnh, còn gương mặt Ân tái ngắt. Chúng tôi đi lần ra
sau chánh điện thấy ảnh của cô Diêu Hạnh trên bàn vong nghi ngút khói hương. Lần đâu tiên tôi thấy Ân khóc thiệt! Ni cô trẻ vẫn đi sau lưng chúng tôi và nói
: Diệu Hạnh được chôn cất trong nghĩa trang chùa mà hai huynh mới đi ngang
qua….,
Ngày 20 tháng 11năm 2022
Hàn Thiên Lương
Chuyên Đạo Đời Hai Ngõ nầy là chuyện thật đời người
ReplyDeleteÂn, nhân vật trong truyện vừa chết hôm tháng rôi ở Boston 0 có vợ con chỉ giữ chặt mối tình với Sư nữ.
Thân Quý
HTL
Câu chuyện tình ngang trái đạo đời đôi ngã được anh Hàn Thiên Lương ghi lại thật hay và xúc động.
DeleteCám ơn anh Hàn Thiên Lương.
TK
Chuyện hay và buồn quá.
DeletePL
"Có những mối tình suốt đời nhớ mãi" là thế! Một chuyện tình thật nên thơ, lãng mạn được ghi lại bởi nhà thơ Hàn Thiên Lương cũng lãng mạn không kém với cuộc tình của chàng "hàn sĩ thương Liên".
ReplyDeleteSương Lam
Mình cũng đồng ý với các bạn đọc khác. Truyện hay và buồn quá, thấm thía tận tâm hồn. Thương cho hai nhân vật chính trong truyện. Cám ơn tác giả rất nhiều.
ReplyDelete