Chúng tôi may mắn có ba Linh Mục , Cha
Nguyễn Hùng đến từ Đài Loan, cha Phạm Hồng từ Úc và Phạm Tâm (cũng còn là Bác
Sĩ Y Khoa) đến từ Houston, Hòa Thượng Thích Huyền Việt đến từ Houston, Thầy Tây
Tạng Geshe Gawa đến từ Úc.
Trong nhóm còn một Bác Sĩ trẻ nữa là
Kenneth Nguyễn đến từ California.
Trại Tỵ Nạn Songkla
Chuyến hành hương đầu tiên của chúng tôi,
bắt đầu trở lại thăm nền trại tỵ nạn Songkla. Từ thành phố ra tới địa điểm đó
khoảng một tiếng lái xe.
Xe đi ra ngoại ô qua những vùng trồng mía,
xoài và rất nhiều cánh rừng trồng cây cọ (Palm) dùng cho việc thủ công nghệ.
Nhà cửa giống hệt những vùng quê Việt Nam thời chưa đổi mới. Cũng nhà tôn, nhà
lá, thỉnh thoảng chen vào một ngôi nhà ngói, bên cạnh bụi chuối, cây hoa sứ.
Cũng những con chó trước cửa sủa bâng quơ, những con gà trống nghiêng đầu ngơ
ngác, thằng bé ở trần vừa chạy vừa ngã. Chiếc xe như mang chúng tôi trở về quê
xưa ngày cũ.
Chiếc xe ca chở hơn 50 người đậu lại, biển
xanh trước mặt, nắng gắt trên đầu. Mắt mở to, mọi người xôn xao chỉ tay về phía
bên phải.
- Cứ đi
vào đây, hướng này đúng rồi. Sẽ thấy cái giếng.
- Cái
giếng mấy năm trước tôi trở lại còn thấy, bây giờ đã bị biển xâm thực rồi.
Biển đã mang thêm cát vào, đã chôn mất miệng giếng, nhưng còn cây đa.
Chính nơi này là trại tạm cư cho thuyền nhân chờ được định cư ở đệ tam
quốc gia. (mặc dù cây đó trông giống một cây thùy dương hơn là cây đa. Có
thể họ muốn gọi như thế để có một chút hơi hướm quê nhà) .
Vùng bờ biển, nền lều trại dựng ngày trước
đã được dọn sạch không còn vết tích, một con đường trải nhựa, chạy song song với
biển đã như có sẵn tự bao giờ. Chúng tôi tới gốc cây đa đó, vẫn thấy dấu thờ
cúng chưa cũ lắm, có bát cơm đổ nghiêng ngả, hạt cơm vừa khô, có nhang đèn vứt
lăn lóc, những bức tượng đổ vỡ, những đồ thờ cúng kiểu Thái cái gẫy, cái bể.
Tác giả và Miếu Thờ
ở Songkhla
Nhang được thắp lên, nước mắt thi nhau ràn
rụa. Tên Chúa, tên Phật được thốt trên môi mọi người, để cầu cho người chết, kẻ
lưu vong. Sau phần tụng niệm, cha Hồng bắt đầu giọng cho mọi người hát theo.
Giữa buổi trưa nắng chang chang, không một ngọn gió, tiếng hát của hơn năm mươi người hát vang vang như muốn át tiếng sóng biển đang đập vào bờ:
Tự Do ơi Tự Do, tôi trả bằng nước mắt
Tự Do hỡi Tự Do, anh trao bằng máu xương
Tự Do ơi Tự Do, em trả bằng thân xác
Vì hai chữ Tự Do, ta mang đời lưu vong
(Nam Lộc)
Mọi người xúm lại chụp hình. Các anh, chị
làm phát thanh, truyền hình bắt đầu công việc của mình. Có người đi tách ra
riêng một chỗ thì thầm với biển, với dĩ vãng, với kỷ niệm.
Bao nhiêu người đã được định cư ở nơi êm ấm? Bao nhiêu xác đã trôi giạt vào bãi bờ này?
Nước mắt, nước biển, trôi đi hai hàng oan nghiệt
Tóc bạc, tóc xanh, chìm sâu một khối tủi hờn.
Tôi cúi xuống vốc lên một nắm cát, nhặt một
chiếc vỏ ốc đã vỡ, quay lưng lại với biển, chân thấp chân cao, vừa đi vừa lau
nước mắt.
Nơi đây cũng đã dánh dấu bao cuộc tình tỵ
nạn. Gặp nhau như rong rêu giạt vào bờ, bám lấy nhau rồi lại phải buông nhau ra
vì mỗi người phải đi định cư ở hai nơi khác nhau, hay người đi người vẫn ở lại
ngóng trông. Tương lai là một trang giấy trắng chờ tay ai vẽ xuống.
Chúng tôi rời bãi này để tới một bờ khác.
Tha
Sala và 11 Cô Gái Việt
Trưởng nhóm, anh Hùng Lê cất tiếng:
- Bây giờ
Hùng đưa các cô chú đến thăm đền thờ Mười Một Cô.
Đó là chuyện 11 cô gái Việt, không một mảnh áo quần, bị trói cổ vào nhau, thả nổi trên biển. Xác các cô trôi tới bãi Tha Sala này, được người địa phương thương tình vớt vào chôn cất. Ai nghe cũng phải xót thương, rùng mình, uất hận.
Những
nàng thiếu nữ như hoa đỏ
Một sớm theo nhau bước xuống thuyền
Hoa bỗng rơi ra từng cánh mỏng
Thả vào lòng biển máu oan khiên
Tha Sala không chỉ vớt Mười Một Cô, Tha Sala còn vớt thêm bao nhiêu cái xác trôi đơn lẻ, trôi hai ba, trôi năm bẩy, giạt vào bờ.
Người đàn bà Thái khoảng 60 tuổi, gia đình
hiện sống trên bãi đã lập một miếu thờ cho những vong linh này. Mỗi ngày bà
mang ra miếu một bát cơm trắng, một chén nước lạnh và mấy cây nhang.
Đây là câu chuyện của bà: Khi gia đình bà
tới ở trên bãi này thì vẫn còn rất hoang vu. Họ đào đất dựng nhà, chạm phải
nguyên một chiếc thuyền chôn sâu trong cát. Họ tin là thuyền của người vượt biển
bị đắm, sóng đánh vào và cát phủ lên. Bà cũng theo người lớn tuổi hơn ra biển mỗi
lần có xác giạt vào. Khi đó tuổi của bà, khoảng tuổi các cô con gái Việt này.
Gia đình bà dựng một ngôi đền nhỏ thờ vong linh của thuyền nhân và 11 cô gái.
Chiếc thuyền cứ thế để nguyên trước cửa đền. Theo năm tháng, biển xâm thực và
bão tố, ngôi đền chỉ còn lại cái nền vỡ và cái thuyền chỉ còn lại một mảnh ván
dài, nhưng bà vẫn cơm trắng, nước lạnh và thắp nhang mỗi ngày.
Người Việt bị người Thái giết, thì cũng
chính người Thái thờ cúng những oan hồn người Việt. Có phải đó là sự đền bù của
đất trời không?
Sau Tha Sala, chúng tôi được đưa tới một địa
điểm gần bờ biển phía lên đảo Koh Kra.
Nơi dừng chân là chùa Wat Samphreak, trong
chùa còn có một ngôi trường Tiểu Học. Tối hôm đó chúng tôi được ngủ lại trong
chùa. Chúng tôi trải chiếu của nhà chùa, nằm bình an trong chánh điện, dưới
chân những tượng Phật. Tôi trăn trở vì nóng, vì muỗi hay vì câu chuyện thương
tâm của mười một cô gái bất hạnh. Nghe nói tuổi của các cô khoảng từ 19 tới 23.
Ôi cái tuổi tinh khôi, mơ mộng và tràn đầy ước vọng!
Biển gọi em hay em gọi biển
Sóng đang reo sao bỗng khóc gọi hồn.
Nước mắt tôi ứa ra, trái tim tôi thổn thức. Tôi thương các em, thương cha mẹ các em, thương cho dân tộc tôi quá đỗi! Chúa ở đâu? Phật ở đâu?
Lên
thuyền ra đảo Koh Kra
Bốn giờ sáng ngày mồng 1 tháng 4, từ bãi của làng chài lưới Hua Sai, thuộc Nakhar Si Thammarat, cách đảo Koh Kra 80 cây số, chúng tôi lên thuyền ra biển đi tới đó.
- Sao đi
sớm thế?
- Giờ này
biển êm, không có sóng
- Chạy
bao lâu thì tới?
- Khoảng hơn 3 tiếng
Ngồi sát vào nhau, tám người một thuyền. Bắt đầu tách bờ tiến về đảo Koh Kra.
Có tiếng nói khẽ cất lên:
- Hồi đi
vượt biên, chúng em đi bằng thuyền nhỏ như thế này, gọi là taxi, đưa ra
ngoài có thuyền lớn hơn đón.
- Nhưng
hồi đó phải ngậm miệng, không được nói, và rất sợ bị bắt lại, cộng thêm
nỗi sợ bão biển, sợ hải tặc và chúng em chẳng ai có áo phao mặc như thế
này.
Tôi ngồi co rúm người lại, thuyền đang chạy,
nước biển bắn tung tóe lên mặt, những hạt muối mặn trên môi. Trời vẫn tối chưa
nhìn tỏ mặt nhau. Biển mênh mông, biển tối om, tôi bắt đầu hiểu mang máng thế
nào là nỗi sợ của người vượt biển. Nếu thuyền lật bây giờ, cũng khó lòng mà tìm
cứu được nhau trong bóng tối. Đây thực ra mới là vịnh chưa ra tới biển.
Trời dần sáng. Lên tới bãi san hô của đảo
Koh Kra thì sáng hẳn. Bờ biển này không có cát, chỉ toàn những mảnh san hô, nên
không thể đi chân trần được. Năm 1979 đã có tới hơn 2000 thuyền nhân bị hải tặc
nhốt giam ở đây. Vợ chồng chị Vũ Thanh Thủy và anh Dương Phục cùng nhóm gần 200
người đã trốn hải tặc 21 ngày đêm ở đây. Những con thú mang hình người đã hành
hạ thuyền nhân Việt ở mức độ dã man ngoài sự tưởng tượng của một đầu óc bình
thường.
Hàng ngàn người đã bị hải tặc giam cầm
trên đảo này, con số người chết ở đây không ai biết rõ là bao nhiêu? Bao nhiêu
phụ nữ đã bị hãm hiếp, bao nhiêu người chồng, người yêu, cha mẹ, anh trai, bất
lực và bất hạnh trước thảm nạn dưới tay hải tặc. Chỉ có Trời mới biết con số
chính xác này.
Những cô gái nạn nhân này chịu nhiều khổ hạnh
khác nhau. Có người bị bắt đi luôn không biết còn sống hay đã chết. Nếu sống, họ
có còn muốn tìm về gặp lại những người thân yêu nữa hay không? Hay họ tự coi
như cuộc đời cũ đã chấm hết, đã xóa tên họ. Họ đã chấp nhận sống hai đời trong
một kiếp.
Có người khi được cứu đã mang thai nhưng họ
can đảm không bỏ đi giọt máu oan khiên đó, nó là một phần xương thịt họ. Họ
mang con đến một nơi khuất lấp, xa lánh cộng đồng Việt, không gặp những người
thân và tự nuôi con. Họ là những người mẹ vượt lên trên tất cả mọi thử thách mà
định mệnh đã đặt vào họ.
Có cô gái chọn nhảy xuống biển chết thay
vì bị hải tặc hiếp, nhưng số phận không cho cô chết, cô sống kẹt trong một khe
đá, cô đói, khát, lạnh và bị cá tôm rúc rỉa hai chân cô trong 21 ngày. Khi cứu
được cô ra, người ta nhìn thấy hai ống xương chân không da thịt.
Tôi đau đớn tự hỏi: Nước mắt nào khóc rửa được những vết thương này.
Nghe bước chân mình trên đá nhọn
nghe trăm gai sắc nhói trong tim
nghe sóng biển đập vào lồng ngực
nghe em gào khóc nỗi oan khiên.
Còn bao nhiêu câu chuyện nữa chưa được kể
ra. Những người sống sót không ai muốn nhắc lại ký ức đau thương ấy. Họ im lặng,
lãng quên đi hay thậm chí đã mất trí nhớ sau những tai nạn khốc liệt cho cả tâm
hồn và thể xác ấy.
Tác giả Dương Phục và Vũ Thanh Thủy đã ghi
lại trong hồi ký cả ngàn trang “Tình Yêu, Ngục Tù và Vượt Biển” của anh chị một
phần nào những thảm cảnh trên đảo Koh Kra, những thảm cảnh mà Việt Nam và Thái
Lan ngày nay đều cố tình phủ nhận và lẩn tránh. Tinh thần trách nhiệm và liêm sỉ
của một quốc gia là chiếc hộp đen cả hai nước đều né tránh không muốn mở ra,
nhìn lại.
Mỗi người bắt tay vào mỗi việc. Căng lều tập
thể, căng lều cá nhân. Người lo dựng tượng Phật, tượng Đức Mẹ, Thánh Giá . Chúa
thì phải lắp từng mảnh vào với nhau. (Những tượng này và vật liệu cần thiết đã
được anh trưởng nhóm và một vài anh mang tới trước mấy hôm). Người lo mắc võng
cá nhân, người lo treo những chiếc đèn lồng từ thân cây này sang thân cây kia.
Sửa soạn sẵn cho một đêm hoa đăng trên đảo.
Chúng tôi xếp ra từ trong hộp những tấm mộ
bia có khắc ghi tên tuổi thuyền nhân và những tấm khắc lời tưởng niệm (Được anh
trưởng nhóm đặt mang từ Việt Nam sang), sửa soạn gắn những bia này chung quanh
một bức tường tượng trưng cho khu nghĩa trang.
Buổi trưa nắng qua nhanh. Mỗi người được
ăn trưa một tô mì gói, trước khi gạch, xi măng được chuyền tay nhau vác lên đồi
tôn giáo. Một số người xuống tắm biển, có người leo lên thuyền trở về đất liền
mua thêm vật dụng.
Công việc dựng tượng mới làm được một phần.
Buổi chiều, mọi người còn đang tất bật thì
có hai chiếc thuyền tuần duyên từ đâu rẽ sóng tới, bốn năm người lính Thái có
vũ trang nhảy vào bờ. Cô bé Nhung thông ngôn thiện nguyện (sống ở Thái) được gọi
ra để trả lời những câu hỏi. Lính Thái bắt chúng tôi chia ra làm hai hàng, bên
nam, bên nữ. Chúng tôi vội cho người đi mời mấy vị sư Thái (hiện tu hành trên đảo)
xuống, cắt nghĩa rõ ràng là chúng tôi đến dựng tượng và thăm mộ thân nhân. Đất
Thái là đất Phật, đi đến mỗi góc đường đều có am, miếu, thờ cúng, nên người dân
Thái rất nể trọng các vị sư. Họ bắt chúng tôi cầm thông hành của mỗi người lên
ngang mặt để họ chụp hình trước khi họ xuống thuyền. Sau khi nói chuyện với các
nhà sư xong họ mới chịu xuống thuyền, rời bãi.
Khi họ đi rồi, một nỗi hoang mang dậy lên
trong lòng những cựu thuyền nhân: Họ nói, không ai có thể biết được hải tặc có
thông đồng với lính tuần duyên hay không? Nhưng chúng ta nhờ có các sư và hiện
mang thông hành ngoại quốc nên tương đối an toàn.
Buổi tối vẫn còn mưa. Trong tình cảnh, dưới
lưng là những mảnh san hô lớn, nhỏ, mấp mô, rồi nước chảy vào thành từng vũng,
quần áo, dày dép ướt sũng. Nhưng các anh em cũng kéo nhau ra lều tập thể hát dưới
những giọt mưa.
Tiếng hát hòa đồng với tiếng mưa. Trong
ánh lửa nến nhỏ nhoi xoi không tỏ mặt người, họ hát cho nhau nghe, cho hồn ma
bóng quế cùng nghe.
Có hay không! Những hồn ma bóng quế đang rủ
nhau cùng về ngồi trong lều với những người đồng hương của mình?
Đêm vẫn rào rào đổ mưa xuống, nhóm 8 người
chúng tôi, nằm giữa một tấm bạt to, gấp đôi lại, nửa trải dưới đất, nửa căng
trên đầu, buộc hai góc bạt vào hai thân cây. Frank nằm sát ngoài cùng phía bên
phải lều, rồi Tú, Trâm, Nguyệt, Trùng Dương, Thủy, Phục và ngoài cùng là Cha
Tâm bìa bên trái. Tội nghiệp Cha Tâm và Frank là hai người nằm ngoài bìa lều, ướt
như chuột từ đầu tóc, quần áo, đến giày dép.
Chắc chắn những nhóm khác, trong những chiếc lều nhỏ kiểu cắm trại, cũng ướt không kém gì chúng tôi. Nhưng may, sáng ra trời tạnh, phải dậy thu dọn và ra lều tập thể ngay để làm lễ liên tôn cho các vong linh trên đảo.
Lễ Cầu Siêu Trên Đảo
Koh Kra
Chương trình hành lễ được Cha Tâm đề nghị,
bắt đầu làm lễ với các Sư Thái đang ở đảo được mời tới cử hành đầu tiên bằng tiếng
Phạn, sau đó đến Hòa Thượng Thích Huyền Việt và phần cuối là Cha Hùng, Cha Tâm
Cha Hương chia nhau dâng lời nguyện.
Vừa xong hai phần về Phật Giáo, tiếng các
Cha bên Công Giáo chưa cất lên thì có tiếng hốt hoảng gọi vào lều.
- Xin
chấm dứt và sửa soạn ra về ngay, vì có tin báo bão sẽ tới lúc 3 giờ.
Mọi người hấp tấp đứng dậy chạy ra khỏi lều
để thu dọn hành lý, riêng các Cha, Hòa Thượng và những người Công Giáo vẫn ở lại.
Cha Hùng vừa cất tiếng lên đã nghẹn ngào:
Giữa biển khơi lồng lộng gió bốn
phương
Chúng tôi những người sống sót trong
cuộc chiến tranh huynh đệ đau thương, cùng nhau về đây chiêu hồn lưu
xứ.
Xin những đấng tối cao mở lòng đón
nhận, vớt lên giữa bọt sóng lênh đênh những oan hồn, uổng tử.
Xin hãy mang hồn vào giấc ngủ ấm yên
Vòng tay Đức Mẹ, vòng tay Phật Bà
xin hãy là những tấm khăn mềm thấm khô ngàn máu lệ.
Chúng tôi cúi đầu gửi lời kinh tiếng
kệ
Tiếng chuông tiếng mõ gọi hồn về.
Giọng Cha trầm trầm, bi thương, nghẹn
ngào, Cha đọc hết bốn trang bài “Văn Tế Muộn Màng.”
Rồi các Cha thay nhau đọc tên từng người
trên những mộ bia mới làm. Sóng cứ nhô cao, bão cứ tới, mọi người vẫn bình tâm
với những dòng kinh nguyện.
Chính lúc thứ tha là khi được tha thứ
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời
(Kinh Hòa Bình-Thánh Francis)
Chiếc lều cuối cùng được kéo xuống, gấp lại,
gấp cả những giọt nước mưa còn đọng đêm qua. Tôi lấy tay quẹt trên giọt nước, nếm
thấy mặn như những giọt lệ.
Những chiếc thuyền tam bản, không mui, rẽ
sóng trở lại đất liền. Trời không nắng, âm u, nước biển bắn tung từng đợt lên mặt
mũi, quần áo. Trưởng nhóm Hùng khóc rưng rức nhìn hòn đảo Koh Kra chìm dần vào
những đám mây đen đang từ từ kéo tới. Anh khóc vì nhiệm vụ chưa hoàn tất. Chúng
tôi phải mỗi người nói một câu an ủi anh, nhưng thật sự trong lòng chúng tôi
cũng đang thổn thức. Mây đen kéo mỗi lúc một dầy sau lưng chúng tôi, hòn đảo
như chìm từ từ xuống biển, tiếng kêu của những vong linh không vọng được lên
trên tiếng sóng. Hòn đảo như biến mất, giữa kẻ chết và người sống một đường vạch
dài và đen chia đôi.
Bidong và Những Ngôi Mộ Tập Thể Ở Mã Lai
Xe ca đi từ Thái Lan sang Mã Lai, mất 8 tiếng,
qua những chặng đường biên giới, phải làm thủ tục nhập cảnh. Chúng tôi tới Mã
Lai thì đã trời chiều.
Phụ nữ ở đây đa số mặc quốc phục nhiều màu
sắc, khăn chùm đầu của họ rất đẹp, đủ màu, đủ kiểu quấn khác nhau chung quanh
khuôn mặt. Bạn tha hồ ngắm mắt môi và nguyên khuôn mặt thân thiện, hay cười của
họ. Hiếm hoi lắm mới thấy một vài bà đứng tuổi quấn mình kín mít trong tấm vải
đen chỉ để lộ hai con mắt đủ nhìn bước chân mình. Đàn ông cũng thân thiện không
kém, ông tài xế taxi hay nói về đời sống gia đình cho bạn nghe, về việc họ vẫn
cầu nguyện năm lần một ngày, mỗi lần bảy phút.
Mã Lai là nước đã nhận gần 300 ngàn người
tỵ nạn Việt Nam trong hai thập niên 1975-1995. Những thuyền nhân đi trong nhóm
kể lại: nạn hải tặc Mã ít hơn hải tặc Thái rất nhiều. Lính Mã ban đêm có vào trại
kiếm những cô vừa mắt mang về làm vợ, không ai can thiệp được. Nhưng lính Mã
không hiếp phụ nữ và giết người ngay trước mặt mình.
Mã Lai cũng là nơi có nhiều xác thuyền nhân tạt vào bờ nhất nên cũng là nơi duy nhất có nhiều mộ tập thể. Những người bạn thuyền nhân trong nhóm nói có khi thuyền gần vào tới bờ vẫn bị lật như thường, người đến trước trên bờ có thể nhìn thấy người chết chìm trước mặt mà không làm gì cứu được. Về sau được người địa phương cho biết là khúc biển gần vào đến bãi, dọc biển đó có nhiều vũng xoáy, có khi thuyền vào trúng chỗ xoáy mà không biết, gặp biển êm thì thoát, khi biển lúc đó động thì chỗ xoáy hút thuyền vào, thuyền lật, không cách nào cứu được. Đó là trường hợp của rất nhiều chiếc thuyền đã nhìn thấy bờ mà không vào được bến.
Viếng Ngôi Mộ Tập
Thể Đầu Tiên Ở Kelanta.
Ngôi mộ tập thể số 1 chúng tôi tới ở Balai
Bachock thuộc tỉnh Terengganu, mộ đó có 46 người, trong đó có 3 em nhỏ.
Lần đầu tiên trong đời người, đứng trước một
ngôi mộ tập thể. Ngôi mộ chơ vơ trên đồng đất nước người với những cái tên Việt
Nam, tôi không cầm nổi lòng mình, nghe nôn nao, quặn đau trong ruột, nước mắt
ràn rụa. Từ bao lâu nay chỉ nghe tiếng “Thuyền Nhân” chỉ nhìn “HìnhThuyền
Nhân”, cái thương cảm đó có đấy, nhưng chỉ thoáng ngậm ngùi như vết xước ngoài
da. Phải tới đó, trên một đất nước xa lạ nhìn thấy nấm mộ đó mới hiểu được tình
người trong một nước nó sâu đậm đến đâu, mới hiểu rõ hai chữ “Đồng Bào” cùng một
cội nguồn dân tộc với nhau. Mình bỗng chốc thấy thương dân, thương nước mình
quá đỗi! Vì đâu, vì ai , vì nghiệp lực nào mà chết thảm, chết khổ, đến thế này!
Cá nhân mình có lãnh một phần trách nhiệm nào trong đó không?
Nhang, nến, thắp lên, lời kinh hòa đồng,
Phật, Chúa có nhìn xuống chúng sinh không?
Tôi nghĩ tới lời Sư Huyền Việt nói với
tôi: Nghiệp lực làm khổ nhau. Cái khổ phải xảy ra một lần trong cuộc đời và cái
khổ vẫn tiếp tục xảy ra.
Ngôi mộ thứ hai tại Cherang Ruku, cách nơi
này không xa còn to hơn nữa, còn nhiều người hơn nữa, nó cho ta cái cảm tưởng
đây là một cái nghĩa trang nhỏ chứ không phải là một nấm mồ. Mộ chôn 123 người,
sau nhận thêm 5 người nữa chôn ở nơi khác được đưa về. Tổng cộng là 128 người.
Những ngôi mộ tập thể đã được chôn chung như thế nào? Đây là lời kể của bà vợ
ông Alcoh Wong Yahao (Sẽ nói đến vị ân nhân này sau)
“Chúng tôi xếp xác từng lớp, không phân biệt
nam nữ, tuổi tác. Cứ một lớp xác người xếp lên một lớp khăn liệm, rồi lại tiếp
một lớp xác người khác, trên cùng chúng tôi đặt một lớp ván ép, rồi xúc đất đổ
lên. Thế là thành một ngôi mộ lớn.
Ngôi mộ thứ hai này và ngôi mộ thứ nhất với
46 người, cộng thêm 5 người mang tới sau, họ cùng đi với nhau trên chiếc tàu khởi
hành từ Mỹ Tho, tên tàu là MT- 065, khỏi hành ngày 1 tháng 12, tới gần biển Mã
Lai ngày 4 tháng 12 thì bị lật chìm. Tổng số người đi trên thuyền là 300 người.
Mộ Tổng Cộng 128
Người
Sau đó cha Tâm đề nghị mỗi người cầm nhang
đi chung quanh ngôi mộ cắm xuống. Mỗi nén nhang có mang theo những giọt nước mắt.
Hỡi hồn bập bềnh trên biển
Về đây nghe lời kinh an
Trăm ngàn mảnh hồn ướt sũng
Muối nào trong lệ không tan.
Mắt Nào Không Lệ
Chảy
Trong mấy ngày hôm sau khi chúng tôi đi
thăm những nghĩa trang có chôn rải rác thuyền nhân, tôi thấy xuất hiện trong
đoàn một thanh niên rất trẻ, tôi hỏi chuyện làm quen, khi em giúp nắm tay tôi dắt
bước qua những mô đất. Em tên là Alex Trần, 28 tuổi, em đi thăm mộ ông bà ngoại
và các chú, bác, của mẹ em. Vì thời khóa biểu không trùng hợp với nhóm nên em đến
chậm một đôi ngày, em phải đi thăm ông bà ngoại một mình.
- Tại sao
mẹ không đi với con?
- Mẹ sợ ,
mẹ không dám nhìn lại.
Em nói tiếng Việt rất giỏi, rất lễ phép,
chứng tỏ em được lớn lên trong một gia đình tốt. Em kể:
Gia đình của mẹ con, tất cả 18 người đi
trên chiếc tàu MT-065 này. Lúc đó mẹ con là một cô bé 12 tuổi, dì của con lên
10. Khi tàu lật, họ kẹt trong khoang, dì con 10 tuổi dùng đầu đập vào cửa kính
thuyền, hai chị em chui được ra bên ngoài. Cả hai chị em cùng không biết bơi,
ngất xỉu. Sóng đánh họ giạt vào bờ, được cứu sống. Cả gia đình chết 13 người,
còn lại 5 người trong đó có mẹ con, dì con và ba người họ hàng.
Em thơ dại sao mà em may mắn
Cả một thuyền chết hết chỉ còn em
Sau đó hai chị em được một gia đình Mỹ bảo
trợ, nuôi ăn học, cho tới lúc lập gia đình. May mắn gia đình đó ở Orange
County, California ngay trung tâm của người Việt nên hai cô bé đó đã vẫn giữ và
nói tiếng Việt. (Khi làm mẹ, cô cũng cho con đi học tiếng Việt).
Hai chị em cô bé này quả thật trong bất hạnh
có lồng may mắn. Hai cô được cha mẹ Mỹ cho đi học tiếng Việt và lớn lên với cộng
đồng Việt.
Nhìn cậu thanh niên khôi ngô, đĩnh ngộ, lớn
lên ở Mỹ, nói tiếng Việt rõ ràng, lễ phép trong một gia đình có hoàn cảnh như
thế, tôi thấy mình không khóc được nữa. Tôi đứng sững nhìn cậu, nghe cậu kể lại
câu chuyện nhiều lần (vì nhiều người hỏi). Tôi hình dung ra mẹ và dì của cậu
như những viên ngọc lăn rơi xuống từ những mỏn đá cao và sắc mà không hề xây
xát. Không có viên ngọc nào có thể đẹp hơn nữa.
Tôi nghĩ đến đôi ngày vừa qua, khi cậu một mình đứng trước ngôi mộ tập thể, cậu chạm tay mình lên trên tên ông bà ngoại, tôi biết chắc cậu đã khóc bằng đôi mắt của mẹ mình.
Một Mộ Bia Tập Thể
Của Người Việt Trên Đất Mã Lai
Hỏi anh Lưu Dân, một thuyền nhân ở Úc đã tổ
chức tới đây nhiều lần, có gia đình nào về lại Mã Lai cải táng thân nhân đem đi
không? Anh nói, có một người đã làm được. Nhưng người Mã ở thành phố này, không
muốn cho người Việt đến cải táng mang đi. Họ nêu ra ba lý do:
Thứ nhất, đã chết ở Mã là người Mã.
Thứ hai, mộ ở đây lâu năm đã thành mộ bạn.
Thứ ba, nếu người Việt ai cũng cải táng
thì đâu còn ai tới thành phố này (Terengganu là một thành phố cần du khách)
Cha Tâm mặc áo lễ, dâng bánh Thánh ngay trong nghĩa trang này. Tôi và Vũ Thanh Thủy, Ngọc Hân cùng cất tiếng hát: Chúa nhân từ xin lắng nghe linh hồn con tha thiết. Ăn năn kêu van, lạy Chúa xin dủ thương, ban xuống niềm tin ấp ủ cho tâm hồn.
Hình Cha Tâm Dâng
Lễ
Hòa Thượng Huyền Việt đã rời Thái lan sau
khi ở Koh Kra về, nên anh Ngô Đức Hữu từ Úc đại diện Phật Giáo mỗi lần tới các
phần mộ, anh phụ trách khấn nguyện. Tiếng Việt miền Nam của anh nhẹ nhàng, ấm
áp, bài kinh anh rút ra từ đạo Ông Bà, nghe thật cảm động, xin trích một đoạn:
"Cầu Thượng đế từ bi hỉ xả. Cho linh hồn ổn
thỏa nghe kinh. Cầu xin giảm bớt tội tình. Cho vong nhàn hạ nhẹ mình thảnh
thơi. Cảnh ly biệt hỡi ôi thê thảm. Đức Thần Minh phất phưởng tràng phan. Cho hồn
noi đó nhẹ nhàng. Trở về cứu vị an nhàn hưởng vui"…..
Sau lễ chúng tôi đi thắp nhang trên các
ngôi mộ, không phân biệt Hoa, Việt, người địa phương hay thuyền nhân. Nghi thức
hóa vàng mã tiếp theo rất phong phú, các anh chị trong nhóm mua ngay tại địa
phương nên mua được rất nhiều (Theo thống kê năm 2010 Mã Lai có 19.8 % theo đạo
Phật).
Chúng tôi hóa vàng xong thì xuất hiện một người đàn bà Hoa, được những người trong nhóm giới thiệu đó là bà Alice Wong, vợ của ông Alcoh Wong một vị ân nhân chôn cất gần như là hầu hết những xác thuyền nhân trôi vào bờ bãi Mã Lai.
Chân Dung Ông Wong
Ông chính là người đã chôn cất những ngôi mộ Tập Thể, hơn thế nữa bao giờ có xác táp vào bờ là người ta đi gọi ông. Ông in ra cuốn sách The Vietnamese Boat People (VBP) along The East Coast Of Malaysia Peninsula để hướng dẫn những người đi tìm mộ thân nhân dọc theo bờ biển phía đông vùng biển Mã Lai. Vùng biển phía đông Mã Lai đối diện với mũi Cà Mau là nơi thuyền nhân tới đông nhất và cũng chết đắm nhiều nhất.
Chân Dung Ông Wong và Bia Công Đức.
Ông và những người bạn của ông ngoài việc
chôn cất, còn đi tìm những phần mộ của thuyền nhân rải rác trên đất Mã đem về gần
nhau.
Những nấm mộ thuyền nhân tập thể được nhìn
như “Mồ vô chủ” thì trên một ý nghĩa nào đó, ông Wong chính là “Chủ” những nấm
mồ này.
Cho tới khi ông mất, năm 2006 trước đó một
tuần ông vào nghĩa trang thăm mộ thuyền nhân ông đã hát bài “I will follow you
forever.”
Nói theo nhà Phật, kiếp trước ông có nợ
người Việt Nam hay chính ông là một người Việt Nam trong tiền kiếp?
Tấm lòng của ông Wong đối với thuyền nhân từ năm đầu tiên 1978, khi ông nhìn thấy chiếc thuyền tị nạn 137 người kéo vào vùng vịnh Kuala Terengganu, tới năm ông qua đời 2006 là 28 năm dài.
Đảo Bidong và Những khu mộ
Chúng tôi cũng tới đảo Bidong bằng thuyền.
Thuyền này chạy bằng máy cao tốc và từ đất liền ra tới đảo khoảng 20 phút. Đi
giữa trưa nắng gắt.
Từ năm 1975- 1991 đã có 250,000 thuyền
nhân sống sót tạt thuyền vào sinh sống ở đây. Nhiều người chờ bảo lãnh có thể ở
trên đảo từ hai tới bốn năm, nhiều người bị trả lại. Có người bệnh chết, có người
tự tử. Họ được mang lên đỉnh đảo chôn cất.
Mộ chia ra từng khu A, B, C… Khu cho trẻ
em riêng. Khu F được coi là đông nhất tới hơn 200 ngôi mộ. Chúng tôi kéo nhau
lên đó. Bước thấp, bước cao, chống gậy, cầm dao, vừa leo vừa phạt cây rẽ lối.
Cuối cùng cũng lên tới tấm bia có ghi 151 người (có bia mộ) Thật ra số mộ ở đây
trên con số 200.
Đồi Tôn Giáo nơi trước đây có nhà thờ Công
Giáo, Tin Lành, Cao Đài và Chùa thì nay đã vừa bị phá, vừa xụp đổ theo thời
gian, trông vô cùng hoang phế. Đau lòng hơn nữa những tượng Phật, tượng Đức Mẹ
đều bị chém cụt đầu (vì một số người cuồng tín tin là mất đầu thì không còn
linh thiêng nữa) Thánh giá Chúa thì chỉ còn dấu vết trên tường mà thôi.
Tôi và Thái hai chị em đi lang thang chung
quanh đồi, Thái lo chụp hình, tôi lo… buồn. Tôi đứng trên cao nhìn mông lung
bao quát bãi cát dưới chân đồi.
Nơi đây bao nhiêu người dân Việt của tôi
giạt vào, giạt vào bằng thân xác còn thở được, còn hy vọng sẽ được chuyển tới một
quốc gia nào đó để gây dựng lại cuộc đời cho con,cháu hay chính bản thân mình?
Bao nhiêu người chỉ còn là những cái xác bập bềnh giạt vào bờ? Bao nhiêu cảnh
chia ly của những mối tình vừa nhận được sau những đau thương mất mát? Bao cảnh
đời uất hận bị gửi trả về nơi mình đã không sống được phải bỏ đi? Bao nhiêu người
đã phải ở đây cả ba, bốn năm trong hy vọng, trong tuyệt vọng trước khi được rời
nơi này?
Biển dưới kia đang ập vào từng đợc sóng,
nước mắt của mấy mươi năm về trước còn giọt nào pha trong muối đại dương?
Biển phải làm gì để giữ mãi được những giọt
lệ, những tiếng khóc, tiếng cười, hy vọng và tuyệt vọng của một dân tộc luôn
luôn “Đi không yên ổn, ngồi không vững vàng” ngay trên chính đất nước mình.
Chúng tôi xuống đồi để sửa soạn quay về đất
liền. Xuống đến chân đồi ngoái đầu nhìn lại, một cánh bướm đen thật lớn từ trên
đồi bay xuống lượn vòng ngay sau lưng tôi. Một thoáng rùng mình, một thoáng
rưng rưng, tôi dừng lại, nói thầm trong cuống họng mình. “Thôi nhé, tôi về, nhớ
mãi hôm nay.” Giơ tay áo lên, quẹt ngang dòng nước mắt. Cánh bướm bay mất hút
lên đồi.
Sau một đêm mắc võng, chùm chăn (cho khỏi
muỗi) ngủ lăn lóc trên cầu tàu, chúng tôi trở về đất liền, tiếp tục cuộc hành
trình tìm mộ thuyền nhân.
Rải
Rác Mộ Thuyền Nhân Dọc Đường
Trên đường sang Kuala Lumpur, trong tỉnh
Dungun có hai nghĩa trang. Hai nghĩa trang này có biển trước mặt nên khi xác
thuyền nhân giạt vào được vớt lên chôn ngay tại đây. Khi họ vớt được 1 xác, khi
được 2,3, khi được 5,7. Có khi cả trên 10 xác vào một lúc.
Nghĩa trang thứ nhất lối vào có đền thờ với
hàng chữ Tao Yan Dian Temple, có 80 ngôi mộ thuyền nhân, trong đó 38 mộ có tên.
Một ngôi mộ tập thể nằm dưới gốc một cây bàng lớn, chôn trên 100 người, được khắc
chung một tấm bia. Bia được Văn Khố Thuyền Nhân xây ngày 23 tháng 3 năm 2007.
Những ngôi mộ trong khu thứ hai được đặt
trong một nghĩa trang đặc biệt do nhà thờ Công Giáo St.Thomas trông coi. Những
thân xác thuyền nhân được bao quanh bởi ba ngôi thánh đường của: Thiên Chúa
Giáo, Phật Giáo và Hồi Giáo. Còn được gọi là Migrants Cemetery.
Những linh hồn này thật được chúc phúc an ủi
biết bao!
Nhang được thắp lên, lời kinh được cất
lên, nước mắt lại chảy xuống, Chúa, Phật trên cao được mời xuống dự tiệc bi ai
của nhân loại.
Viết tới đây. Tôi tưởng tượng ra, tôi là
người dân Mã Lai sống dọc theo miền đông biển Mã Lai, mỗi sáng trở dậy nghe tiếng
gọi nhau ơi ới bên ngoài cánh cửa: Ra vớt xác thuyền nhân Việt đang giạt vào bờ.
Không phải một xác, hai xác, mà vô số xác. Rồi cùng nhau tẩm liệm, chôn cất, có
khi lập miếu thờ.
Tôi tưởng tượng ra trong những cái xác bất
hạnh đó, một cái xác của chính mình.
Những cái xác của đồng bào mình (hay của
chính mình) đã được những người không cùng chủng tộc xót thương, được ghi lại
in thành sách (như sách của ông Wong) để sau chính những người Việt về tìm lại.
Chôn cất cả trăm, ngàn, nấm mộ không phải
là chuyện giản dị. Việc xây cất làm sao chu đáo được. Theo thời gian, mưa nắng
những ngôi mộ không tồn tại được.
May mắn thay Văn Khố Thuyền Nhân của
người Việt (Do ông Trần Đông, từ Úc-Sáng lập 2004), đã tới Mã Lai, Thái Lan,
Nam Dương trùng tu lại hầu hết những nấm mộ này. (Theo VKTN-Trong vùng Đông Nam
Á có hơn 2000 nấm mộ vừa tập thể vừa cá nhân).
Tôi Đọc Tên Tôi
Hội Hồng Nguyệt (Malaysian Red Cresent Societ - Hồng Thập Tự Mã Lai) đã lưu trữ hai trăm ngàn (200,000) hồ sơ của những người sống sót. Để hôm nay những thuyền nhân trong nhóm chúng tôi đến tìm lại. Mỗi khi tìm được tên của mình hay thân nhân mình, họ òa vỡ ra cùng một lúc tiếng cười và giọt lệ:
Tôi vừa đọc tên tôi trên tấm thẻ
Có phải tôi không trên lý lịch này
Ngày tháng đó tưởng vùi chôn đáy biển
Bỗng sóng đánh vào bờ sáng hôm nay
Khi chúng tôi tới viếng Hội, câu chào hỏi đầu tiên của ông Dato’ Sayed A. Rahman,Tổng Thư Ký hội Hồng Nguyệt là: “Chúng tôi không cần biết anh là người nước nào, chúng tôi chỉ biết giúp đỡ một con người.” Nghe mà ứa nước mắt.
Ông Misnan, nhân viên điều hành của Hội,
nói được vài câu bằng tiếng Việt rất thân tình. Đặc biệt là ông hát cho chúng
tôi nghe bằng tiếng Việt, bài hát “Bài Tình Ca Cho Em” của Vũ Thành An thật
hay. Hay một cách bất ngờ!
Thế gian đầy quỷ dữ, nhưng Trời cũng ban
phát xuống những thiên thần cứu trợ.
Sau 42 năm nhìn lại, chúng ta có rất nhiều
những trang Sử mới. Trên hết, mỗi một cái chết của thuyền nhân, của tù cải tạo,
của người Quốc Gia chết cho Tự Do là một trang Sử mới được cộng vào.
Tất cả con dân Việt đều phải học Sử Việt.
Ngày 20 tháng 4 năm 2017
Viết trong cuộc hành trình về Trại Tỵ Nạn Songkhla, đảo Koh
Kra và Trại Tỵ Nạn Bidong từ 30 tháng 3 tới 16 tháng 4-2017
(*) Những câu Thơ trong bài của tác giả Trần Mộng Tú
Cũng là cựu thuyền nhân, tôi cứ rớt nước mắt trong lúc đọc bài của tác giã. Mặc dầu chuyến đi của con tàu bé teo chở chúng tôi được gặp nhiều may mắn trên biển và được Hải Quân Thái đưa vào bờ, trong 9 tháng ở trại tỵ nạn tôi đã nghe kể lại biết bao nhiêu cảnh vượt biên thương tâm. Tội nghiệp đồng bào tôi, tội nghiệp quê hương tôi !
ReplyDelete