Mẹ tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có, ông bà ngoại là điền chủ ruộng cò bay thẳng cánh ở miệt Phú Xuân Nhà Bè. Mẹ được ăn học ở thành phố, sau thời trung học ở trường Gia Long rồi đến Đại học Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt.
Ba tôi lại sinh trưởng trong gia đình nông dân nghèo
khó, gia đình lại đông anh em, nhưng được cái Ba tôi học giỏi, hiền lành và rất
có hiếu. Cũng vì gia đình bên ngoại ngăn cản nên Ba tôi "thất tình",
đăng lính dù cổng trường Đại học Văn Khoa, Sư Phạm đang rộng mở. Bà Ngoại làm mối
cho Mẹ nhiều người nhưng Mẹ đều lắc đầu. Khi Ba tôi học xong khóa sĩ quan Thủ Đức
16 và được thăng cấp bậc Đại Úy, và Mẹ tôi thì cũng "chưa có ai" khi tuổi
gần ba mươi. Có thể vì vậy mà bà ngoại tôi xiêu lòng và đồng ý cho Ba Mẹ tôi lấy
nhau vào những ngày cuối năm 1969.
Dù bị ngăn cản từ đầu và phải qua nhiều khó khăn, thử
thách, Ba Mẹ tôi mới đến được với nhau, nhưng sau đó, Ba tôi lại là người con rể
được bà Ngoại yêu quý nhất.
Cưới xong là Ba tôi ra mặt trận, đi khắp các chiến trường
miền Nam từ Quảng Trị, Khe Sanh đến Long Giao, Long Khánh, Bình Long, Phước
Long. Ngày tôi chào đời, Ba tôi còn chiến đấu tận bên Lào, bên Cam Bốt. Ôi! Những
người vợ lính thời chiến!
Ngày mất miền Nam, Ba tôi đi tù. Mẹ bụng mang dạ chửa,
một mình sinh nở. Thằng em tôi ra đời vào tháng Sáu năm đó, đúng lúc gia đình
đau thương và túng quẫn nhất. Mẹ một thân một mình, mấy đứa con còn nhỏ xíu,
không tiền bạc. Với cái lý lịch "ngụy quyền" và có chồng đi "học
tập cải tạo" không còn nơi nào dám nhận Mẹ vào làm. Mẹ xoay sở mọi cách để
chúng tôi có cái ăn hàng ngày, đồ đạc trong nhà lần lượt ra đi đến khi không
còn gì có thể bán được, Mẹ phải đi bán hàng rong cực nhọc đủ điều, nhưng Mẹ
không có nửa lời than van.
Tôi còn nhớ, mỗi lần tết đến, vì không có tiền mua quần
áo mới cho chúng tôi, Mẹ ngồi cắt từng chiếc áo dài của Mẹ khi xưa để may cho
chúng tôi những bộ đồ mới đi chúc Tết họ hàng. Mẹ không muốn chúng tôi buồn và
tủi thân, một mình Mẹ cam chịu.
Sau vài năm bặt tin của Ba, gia đình nhận được tin về
người ở tận trại tù vùng Hoàng Liên Sơn Yên Bái, mẹ tôi lại lo khăn gói lên đường
thăm Ba. Thời đó, từ Nam ra Bắc quả là "gian khổ chập chùng", phải đổi
bao nhiêu chuyến tàu, chuyến xe, băng rừng lội suối mới tới chỗ Ba tôi bị giam
giữ. Thân trong lao tù, nhưng Ba luôn an ủi khích lệ gia đình, cứ mỗi độ xuân về
Ba lại gởi cho chúng tôi những bài thơ Ba làm, khuyên nhủ dạy bảo chúng tôi.
Suốt tám năm ròng, Mẹ tôi tảo tần nuôi con, nuôi chồng
không quản thân mình. Có thời ngăn sông cấm chợ, Mẹ phải gởi chúng tôi cho bà Nội,
đi buôn chuyến Sài Gòn Phan Thiết. Sau mấy lần bị tịch thu hàng, Mẹ tôi không
còn vốn liếng đi buôn nữa nên tiếp tục việc chạy hàng rong ngoài chợ. Tôi cũng
ôm thùng cà-rem ngồi bán ở góc đường đầu ngõ cùng mấy thứ bánh kẹo lặt vặt bán
cho mấy đứa con nít trong xóm để kiếm thêm ít tiền phụ mẹ phần nào.
Khi tới mùa lúa, Mẹ tôi về Nhà Bè làm
ruộng với gia đình cô tôi để được chia chút gạo trắng cho chúng tôi có những bữa
cơm không độn khoai mì, bo bo. Từng là tiểu thư thành phố, có ăn có học, nhưng
công việc nặng nhọc đã cướp đi vẻ quý phái của Mẹ tự khi nào. Nhìn mái tóc điểm sương, đôi tay
thô ráp, gương mặt hằn nỗi nhọc nhằn sớm tối của Mẹ, chúng tôi thấy thương Mẹ
vô cùng.
Hàng đêm trước khi ngủ, mấy mẹ con
trên một chiếc giường chật như nêm nhưng chúng tôi rất thích, không ai chịu đi
ra chỗ khác ngủ. Chúng tôi lớn dần theo những câu chuyện cổ tích của Mẹ kể. Mẹ
tôi đã bươn trong rác rưởi đọa đày mà đi, nhưng Mẹ vẫn dành cho chúng tôi những
niềm vui trẻ thơ, con cái vẫn là tài sản quý giá và quan trọng nhất đối với Người.
Mẹ muốn chị em chúng tôi biết yêu thương nhau, biết hy sinh chia xẻ cho nhau;
có ký ức tốt đẹp về tuổi thơ của mình; có kỷ niệm về gia đình êm ấm. Mẹ nói
"Con người ta nghèo nàn về vật chất không sao, nhưng ai nghèo nàn về tâm hồn
và tâm linh thì đáng tiếc lắm các con ạ. Mẹ muốn các con dù trong hoàn cảnh hiện
tại khó khăn đói nghèo, nhưng tâm hồn mình không nghèo nàn". Mẹ là người đi góp nhặt từng niềm
vui, tiếng cười cho chúng tôi trong những hoàn cảnh bi thương nhất của cuộc đời.
Cuối cùng, sau bao nhiêu năm mỏi mòn
trông ngóng, Ba tôi trở về từ trại tù. Nhưng gia đình chúng tôi đoàn tụ chẳng
bao lâu thì Ba tôi từ trần, khi Mẹ mới vào cái tuổi bốn mươi hai. Nhiều tai nạn dồn dập đổ xuống gia
đình tôi, nhưng một lần nữa, vì chúng tôi, Mẹ không ngã gục.
Sau khi chúng tôi tới được đất Mỹ, một lần nữa, vì con
cháu, Mẹ đành bỏ lại quê hương, nơi Mẹ đã sống gần bảy mươi năm; sang một đất
nước xa xôi, lạ lẫm, bất đồng ngôn ngữ, văn hóa. Lòng Mẹ đau đáu nhìn về nơi
chôn nhau cắt rốn, đau xót; nơi ấy Ba tôi đã nằm xuống, mồ im mả lạnh.
Cuộc đời của Mẹ tôi, cũng như của tất
cả những bà Mẹ Việt Nam cùng thời, buồn nhiều hơn vui. Thời chiến thì mất chồng,
mất con, sống trong cảnh đạn bom khói lửa và những cuộc di cư lánh nạn triền
miên; đến “thời bình” thì bị giam cầm, nghèo khổ trong trại tù lớn là cả quê
hương Việt Nam. Sang đến Mỹ, một đất nước giàu có, tự do thì lại làm những công
việc chân tay cực khổ, nuôi con ăn học. Nhưng khi con khôn lớn, lập gia đình, thì cũng
chỉ một mình mẹ trong căn nhà trống vắng.
Trong mùa lễ Vu Lan, tôi tự hứa với
lòng mình là sẽ làm mọi thứ để giữ nụ cười và chút niềm vui còn sót lại trên
gương mặt đã già nua và hằn những vết đau khổ của Mẹ.
Cầu mong cho những tháng ngày còn lại
của các bà mẹ được yên bình, vui vẻ bên cháu con.
Trang Diệp
Share Lại Quê Mẹ
No comments:
Post a Comment