(Biển
Đông, đứa bé, những bà mẹ, người cha, những ông linh mục, Cao ủy tỵ nạn cùng làm nên phép lạ..Giới
thiệu của Giao Chỉ San Jose dành cho tân niên 2015.)
Đây là câu chuyện có thật được cha
Nguyễn Tầm Thường, Dòng Tên, thuật lại nhân kỷ niệm 5 năm ngày Mẹ Têrêsa
Calcutta qua đời năm 2002
Giao
Chỉ, San Jose đặt lại tựa đề và chuyển tiếp từ internet. Bài này phổ biến
cách đây hơn 10 năm. Lịch sử Thuyền Nhân Việt Nam trên biển Đông suốt 20
năm từ 1975 đến 1995 với 1 triệu người đến bến tự do và một
phần tư là thảm kịch. Sóng gió tầu chìm chết ngay lại là những cái chết
hạnh phúc. Năm mười lần hải tặc là bi kịch hãi hùng. Bị bắt giữ trên
hoang đảo là những ngày dài thảm khốc. Đau thương hơn cả là những em bé
gái bất hạnh bị bắt có thể vẫn còn sống trong các nhà chứa bên Thái Lan.
Nhưng câu chuyện này là một phép lạ viết về đứa con của biển Đông 3 tuổi.
Câu chuyện liên quan đến 3 bà mẹ. Bà mẹ Việt Nam, bà mẹ Tàu và đức mẹ
Teresa. Cha của đứa bé là ông Việt Nam ngồi lặng thinh tráng bánh trong
trại chuyển tiếp trên đất Phi, ba tháng góp được 20 Mỹ kim gửi cho vợ con
bên trại Hồng Kông. Giấc mơ vô vọng của ông là tìm lại đứa con trai 3
tuổi bị bắt đi đang lưu lạc trong số hàng tỷ dân Tàu. Chúng ta có 40 năm trôi
nổi trên thế giới và hiện đã an cư lạc nghiệp. Xin ngồi xuống đây nghe
cha Tầm Thường kể chuyện về đứa con của biển Đông. Xin linh mục tác giả
vui lòng liên lạc với chúng tôi, Viện bảo tàng Thuyền Nhân tại San Jose.
Ai biết gia đình này hiện ở đâu, xin cho chúng tôi biết. (giaochi12@gmail.com)
Sau đây là nguyên văn câu chuyện.
(Linh
mục Nguyễn Tầm Thường) Năm 2000, tôi tới giúp tĩnh tâm cho cộng đoàn
Công Giáo Việt Nam ở Oakland, miền bắc California. Hôm ấy, cuối nhà thờ
có người gọi. Quay lại nhìn, ngờ ngợ, ai ngờ đâu gặp lại người đàn ông
tôi đang muốn tìm từ lâu...
Sáu năm làm việc tại trại tỵ nạn Palawan,
Philippines 1989 – 1995, tôi gặp ông ta ở đấy. Một người đàn ông im lặng,
ít nói. Ông lúc nào cũng như có chuyện khổ tâm. Ngày ngày ngồi tráng bánh
ở một góc đường trong trại tỵ nạn. Ngâm gạo đêm trước, dậy tráng bánh từ
hai giờ sáng bên đường. Mỗi ngày vài chục pesos. Ngày ấy,1 US dollar được
25 pesos tiền Philippines.
Hoàn cảnh tỵ nạn bấy
giờ nhiều người túng cực. Ông này lại phải đùm bọc hai người gốc Chàm
không người quen với bốn em bé không thân nhân. Mấy người sống chung với
nhau trong căn nhà tỵ nạn. Kẻ xách nước, người kiếm củi, phần ông lo
tráng bánh. Khoảng ba tháng ông góp được hai chục đô la, lại nhờ cha
Crawford gởi qua trại tỵ nạn Hongkong cho vợ. Cha già Crawford người Mỹ
trước ở Việt Nam, sau qua trại tỵ nạn giúp đồng bào,. Phần ông Việt Nam
rời cửa biển Cam Ranh ngày 2/9/1988 vào đất Philippines. Một năm sau,
tháng 9 năm 1989 ghe của vợ ông rời Vạn Ninh, Nha Trang được hai ngày bị
bể máy. Ghe lênh đênh trên biển đông, rồi lâm nạn. Vợ ông đem theo ba con
nhỏ. Hết lương thực, nhờ mưa gió có nước uống mới sống sót.
Sau nhiều ngày bão táp, một chủ ghe đánh
cá người Tầu ở đảo Hải Nam bắt gặp chiếc ghe lâm nạn này. Ông ta chỉ đồng
ý tiếp tế gạo, cho nước và kéo ghe ra khỏi vùng lâm nạn san hô với điều
kiện cho ông ta bé cháu trai trên ghe. Cháu bé chính là con của người đàn
ông này. Kể từ ngày rời bờ biển Vạn Ninh đến khi gặp chiếc ghe người Tầu
rồi cập được vào đất liền là 25 ngày. Nước Tầu hạn chế sinh sản. Ông chủ
ghe người Tầu mong một cháu trai mà không được. Cuộc mặc cả là xé ruột
gan người mẹ. Trước biên giới sống và chết, họ phải chọn đường sống. Vấn
đề ở đây là sự sống của toàn thể 44 người trên chiếc ghe. Nếu không hy
sinh đứa bé, toàn ghe có thể chết.
Chiếc ghe đánh cá người
Tầu mang theo cháu bé rồ máy chạy vội vã biến mất hút về phía Trung Quốc.
Rồi tin ấy đưa đến cho người đàn ông này ở Palawan. Mỗi ngày ông cứ lặng lẽ tráng
bánh, kiếm ăn gởi qua cho vợ ở trại tỵ nạn Hongkong. Ðau thương vì mất
con.
Con tôi trôi giạt nơi đâu ?
Vợ chồng mỗi người một ngả. Ðứa con mất
tích sẽ ra sao? Dáng ông buồn lắm. Cháu bé lúc đó mới hơn ba tuổi. Cha
Crawford kể cho tôi câu chuyện này. Không biết người đàn ông đã nhờ cha Mỹ gởi tiền cho vợ như thế bao lâu rồi. Theo ông kể lại, vì
không là người Công Giáo, ông đâu có tới nhà thờ. Một hôm có mấy người
vào tìm cha xin tiền mua tem gởi thư. Ông cũng đi theo. Rồi một linh cảm
nào đó xui khiến ông gặp cha. Ông kể cho cha già Mỹ nghe chuyện mất
con. Phần tôi, tác giả bài này kể tiếp....Một trong những ý định qua trại
tỵ nạn làm việc là thu lượm những mẩu đời thương đau của người tỵ nạn.
Tôi tìm gặp ông ta để hỏi chuyện.
Câu chuyện bắt đầu về
chuyến đi sau của vợ con
Sau khi chiếc ghe được kéo vào đảo Trung
Quốc, một nửa số người quá sợ hãi, đi đường bộ trở về Việt Nam. Số còn
lại kết hợp với ít người đã trôi dạt vào đảo trước đó, sửa ghe tìm đường
qua Hongkong. Người đàn ông tưởng chừng vợ đã chết trên biển nhưng hơn ba
tháng sau nhận được mấy lời nhắn tin viết vội bằng bút chì từ trại tỵ nạn
Hongkong. Ông đưa miếng giấy nhàu với nét bút chì mờ cho tôi. Sau khi ông
rời trại tỵ nạn, mất liên lạc, tôi chỉ còn giữ tấm giấy như một kỷ niệm
quý hơn chục năm nay.
Ðó là lá thư thứ nhất
ông nhận được. Tiếp theo là câu chuyện mất đứa con trai. Những lần giảng
trong Thánh Lễ về tình nghĩa vợ chồng, tôi lại nghĩ đến ông.. Một người
đàn ông cặm cụi tráng bánh để rồi ba tháng trời dành được 20 đô la gởi
tiếp tế cho vợ. Không nghe ông oán trách sao vợ lại bỏ con của ông. Ông
tâm sự với tôi là ông dự tính một ngày nào đó được đi định cư, dành dụm
tiền rồi đi Trung Quốc dò hỏi tin con. Nghe ông nói vậy, tôi thấy ngao
ngán. Bao giờ ông mới được định cư ? Rồi định cư xong, biết bao giờ ông
mới thực hiện được mơ ước ? Tình trạng tỵ nạn lúc này quá bi đát. Mười
người vào phỏng vấn may ra đậu được ba. Ðất Trung Quốc rộng mênh mông như
thế biết đâu tìm ? Bao nhiêu khó khăn tuyệt vọng hiện ra trước mặt. Tôi
thấy ý nghĩ mơ ước đi tìm con của ông như cây kim lặng lờ chìm xuống lòng
đại dương.
- Tại sao không nhờ Cao
Ủy Tỵ Nạn, nhờ Hội Chữ Thập Ðỏ Hongkong ?
Người đàn ông này sợ lên tiếng như thế gia
đình Tầu kia biết tin sẽ trốn mất. Chi bằng cứ âm thầm tìm kiếm. Tôi thấy
dự tính của ông khó khăn quá. Những năm làm việc bên cha Mỹ già, tôi biết
một đặc tính của ngài là thương kẻ nghèo. Ngài thương họ vô cùng, ngài sẽ
làm bất cứ gì có thể. Tôi đề nghị cha già cứ viết thư khắp nơi, kêu cầu
bốn phương...
Những lá thư được viết đi. Ngài cầu cứu
Cao Ủy Tỵ Nạn, Hội Hồng Thập Tự, cơ quan từ thiện dịch vụ tỵ nạn Công
Giáo, từ Manila đến Bangkok, Thailand.
Ðợi chờ mãi mà năm tháng cứ bặt tin. Tôi
vẫn thấy người đàn ông dáng điệu buồn bã ngồi bên đường tráng bánh. Trời
nhiệt đới nắng và nóng, mỗi khi xe chạy qua, bụi đường bay mờ người. Hàng
ngày lên Nhà Thờ, tôi lại hình dung bóng hình ông. Chỗ ông ngồi không xa
tháp chuông Nhà Thờ bạc vôi sơn và vẳng nghe có tiếng chuông mỗi chiều.
Mỗi chiều dâng lễ, tôi
lại nhìn thấy cây Thánh Giá trên nóc Nhà Thờ đã nghiêng vì gỗ bị mục. Cây
thánh giá trải qua nhiều mùa mưa nắng quá rồi. Bức hình Mẹ Maria bế Chúa
Hài Nhi trên tấm ván ép dưới cây Thánh Giá cũng bạc nước sơn. Những người
tỵ nạn đã bỏ đi từ một vùng đất rất xa. Quê hương của họ bên kia bờ biển
mặn. Nhiều người cứ chiều chiều ra biển ngồi. Ðêm về sóng vỗ ì ầm. Biết
bao người đã không tới bến.. Họ đến đây tìm an ủi trong câu kinh.
Giữa tháng ngày cằn cỗi ấy, rồi một chiều
bất ngờ tin vui đến.. Hội Hồng Thập Tự Hongkong báo tin về Manila. Manila
điện xuống báo cho cha Crawford biết người ta đã tìm được cháu bé. Lúc
bắt cháu bé, người Tầu trên ghe đánh cá kia đã lanh trí che tất cả số ghe. Không ngờ trời xui khiến, trong
lúc thương lượng bắt cháu, trên chuyến ghe tỵ nạn Việt Nam có kẻ lại ghi
được mấy chữ Tầu ở đầu ghe bên kia vào một chiếc áo. Không ngờ chiếc áo
này lại là chính chiếc áo của cháu bé bỏ lại. Quả thật là chiếc áo định
mệnh. Nguồn gốc nhờ mấy số đó mà sau này người ta mới phanh phui ra được
gốc tích chiếc ghe. Ðó là một thuyền đánh cá ở đảo Hải Nam.
Tìm được cháu rồi, bây giờ lại đến phần
gia đình người Tầu đau khổ. Cháu không còn nói được tiếng Việt, vì hơn
một năm liền sinh hoạt trong gia đình Tàu Hải Nam. Hồi bị bắt cháu
còn bé quá, mới hơn ba tuổi. Bà mẹ người Tầu cũng khóc, biết mình sẽ mất
đứa con mà họ đã nuôi. Họ nhất định không trả. Cao Ủy phải can thiệp
nhiều lắm. Gia đình ở đảo Hải Nam kia dựa lý do là cháu đang được nuôi
nấng tử tế, còn ở trại tỵ nạn cháu thiếu thốn đủ thứ, họ không chịu mất
con. Nhưng Cao Ủy bắt phải trả cháu về cho bố mẹ ruột.
Ðể thỏa mãn điều kiện,
Sở Di Trú Mỹ liền cho bà mẹ bị bắt con quyền định cư tại Mỹ, dù đã đến
trại sau ngày thanh lọc. Trong lúc đó người đàn ông này đã bị Mỹ từ chối
tại Philippines. Ông buồn lắm. Cha Crawford bảo tôi rằng vợ người đàn ông đã được vào
Mỹ, nên cơ quan Cao Ủy Tỵ Nạn tại Philippines yêu cầu cho ông cũng được
vào Mỹ theo. Vì nhân đạo, sở di trú Hoa Kỳ đồng ý. Tin vui đến như vậy mà
ông cứ đứng như trời trồng, không tin chuyện có thể xảy ra như thế. Ngày
trao trả cháu bé, báo chí Hongkong đăng hình cháu khóc thảm thiết. Cháu
đẩy mẹ ruột ra, đòi về với mẹ nuôi. Người mẹ nuôi khóc vì thương nhớ
cháu. Mẹ ruột cũng khóc vì thấy lại con mà con không nhận mình. Tất cả ai
cũng khóc. Cao Ủy Tỵ Nạn bồi thường lại phí tổn nuôi nấng cháu bé cho gia
đình người Tầu kia. Chuyến bay rời Hongkong mang theo bao tình cảm của
con người với con người.
Thời điểm bấy giờ không
biết bao chuyện thương tâm xảy ra. Hàng trăm ngàn người chết trên biển,
ăn thịt nhau vì đói. Hải tặc Thái Lan tung hoành bắt người nhốt ngoài
đảo, hãm hiếp, chặt răng vàng, giết hết để bịt miệng. Ðối với thế giới
chuyện cháu bị bắt cóc chỉ là chuyện nhỏ. Vậy vì đâu họ ra sức đi tìm ?
Ðây là lý do:
Câu chuyện thương tâm của người mẹ mất con
đến tai Mẹ Têrêsa Calcutta. Ấn Ðộ là thuộc địa cũ của người Anh. Mẹ
Têrêsa viết cho chính phủ Anh xin can thiệp chuyện này. Từ London, chính
phủ Anh xin Bộ Ngoại giao Bắc Kinh điều tra tìm chiếc ghe mang số như
thế..
Bên ngôi mộ Mẹ Têrêsa ở
Calcutta, ngày 14.5.2001 tôi kể chuyện này cho Sơ Bề Trên. Sơ yêu cầu tôi
viết lại cho sơ làm tài liệu. Trong những ngày này, nhân viên Tòa Thánh
đang ở Calcutta điều tra để xúc tiến hồ sơ phong thánh cho Mẹ Têrêsa. Một Linh
Mục ngồi nghe chuyện tôi kể, ngài nói:
- Tâm hồn Mẹ Têrêsa rất bao dung. Mẹ
thương người nghèo. Mẹ là người của biên giới giữa sống và chết.
Nghe câu nói đó của
cha. Tôi hiểu ý là Mẹ luôn đứng bên lề sự sống kéo kẻ chết về phía mình. ....
Nghe tiếng người đàn ông gọi. Quay lại
nhìn, không ngờ chính người đàn ông mất con, ngồi tráng bánh ở trại
Palawan ngày xưa, tôi mừng lắm. Sau lễ chiều, tôi tới nhà ông dùng cơm.
Ông rời trại tỵ nạn Palawan tháng 6, lên Bataan rồi vào Mỹ tháng 12 năm
1990. Không ngờ mười năm sau tôi gặp lại.
Cháu bé bây giờ lớn
rồi. Chuyện đã hơn cả chục năm qua. Cháu chẳng nhớ gì. Riêng cha mẹ thì
nhớ lắm, nhất là những gì đau thương vì con cái thì trong trái tim cha mẹ
không bao giờ quên. Còn tôi, đấy là một kỷ niệm đẹp trong những ngày làm
việc bên trại tỵ nạn.
Không ngờ có ngày tôi gặp lại người đàn
ông này. Không ngờ có ngày tôi ngồi bên mộ Mẹ Têrêsa trên đất Ấn. Một
vùng đất rất xa với chỗ ngồi tráng bánh của người đàn ông mất con. Không
ngờ tôi lại là kẻ chứng kiến những chuyện này, để rồi nối kết khung trời
này với khung trời kia.
Không ngờ vào ngày Lễ Phục Sinh năm 1999
ông đã nhận lãnh Bí Tích Rửa Tội, nếu ông không đi lễ ở Nhà Thờ Oakland
hôm đó, làm sao tôi gặp lại.
Tại vùng đất Vạn Ninh, chỉ có một ngôi Nhà
Thờ nhỏ miền quê độc nhất.
Ðêm Noel năm 1985 sau khi đến Nhà Thờ về,
em bé chào đời đúng ngày 25 tháng 12 năm 1985. Người đàn ông kể cho tôi
ngày sinh nhật của em thật đặc biệt. Còn tôi, tôi thấy ngày em mới hơn ba
tuổi phải hy sinh để cứu chuyến ghe là hình ảnh thế mạng sống chuộc thay
cho người khác. Trong câu chuyện này cả ba người đàn bà đều có những tấm
lòng rất đỗi đáng yêu. Người mẹ sinh cháu bé, bao yêu thương và xót xa.
Mẹ Têrêsa với tấm lòng hiểu nỗi thương đau của những người mẹ. Bà mẹ nuôi
người Tầu đã săn sóc em khi ông chồng đánh cá đem cháu về. Tất cả là tấm
lòng bao dung của những bà mẹ.
Khi tôi viết dòng này, cha già Crawford đã
chết rồi. Mẹ Têrêsa cũng chết rồi.
Ngày mai, giữa biên giới của sự sống và
chết, còn những chuyện không ngờ nào sẽ xảy đến nhỉ ?
Tôi vừa giới thiệu với
quý độc giả câu chuyện của cha "Tầm Thường". Quý vị nghĩ sao.
Chuyện này nên quay thành phim. Chuyện vượt biên thời kỳ cuối 80 đầu 90.
Gia đình Việt Nam miền duyên hải. Chồng đi trước thoát hiểm qua Phi. Vợ
và 3 con đi chuyến sau trôi giạt lên phía Bắc. Gặp ông dân chài Hải
Nam vì luật lệ Trung quốc hạn chế sinh sản nên đã đưa điều kiện bất nhân
khi cứu giúp thuyền nhân đòi bắt thằng nhỏ. Người mẹ VN hẳn không chịu
nhưng cả tầu vì muốn bảo về mạng sống nên đã ép buộc. Thể hiện đoạn phim
này sẽ khó khăn nhưng rất đặc biệt. Thằng bé bị lấy ra khỏi tay người mẹ.
Những đứa bé anh chị của nó cũng khóc với mẹ. Ghe chài Hải Nam chạy vội,
tiếng khóc đứa nhỏ xa dần. Ở bên đất Phi người cha chưa biết tin con tàu
của vợ con ra sao. Sau mới có tin gia đình được vào Hồng Kông nhưng mất
đứa con trai. Tiếp theo là giấc mơ của người chồng vẫn lo tráng bánh lúc
3 giờ sáng để 3 tháng gửi cho vợ được 20 đô la. Trên đảo Hải Nam có người
chồng đánh cá chợt đem về cho vợ đứa con trai 3 tuổi. Bên đất Phi cuộc
hành trình đi tìm con của người cha Việt Nam bắt đầu. Ông cha già người
Mỹ là động lực chính. Nhưng tất cả đều vô ích nếu không có Mẹ Teresa can
thiệp. Bậc nữ thánh từ Ấn Độ đã tạo ảnh hưởng lớn trong công việc tìm lại
đứa bé trả cho bà mẹ Việt Nam. Đoạn kết của cuốn phim có hậu biết chừng
nào. Nếu chúng ta có phương tiện, nên dựng lại cuốn phim. Hình ảnh hai
con tàu trao đổi đứa bé trên biển cả. Cảnh người chồng tráng bánh mỗi
buổi sáng tại Phi. Rồi cuộc vận động gửi thư đi các nơi. Sự can thiệp của
Mẹ Teresa từ Ấn Độ. đại diện Cao Ủy Ty Nạn Liên Hiệp Quốc đến Hải Nam để
xác định đứa bé. Cảnh trao lại đứa bé cho bà mẹ trong trại Hồng Kông. Rồi
gia đình được ra đi dù đã quá thời hạn ấn định. Mẹ con đi từ Hồng Kông
qua Mỹ. Chồng được cho đi đặc cách từ Phi qua Mỹ. Gia đình đoàn tụ tại
CA. Ghi dấu 40 năm, cả gia đình được ABC hay CNN bảo trợ chuyến đi qua
Hải Nam để thăm gia đình dân chài đã nuôi đứa nhỏ 1 năm. Ước mơ như thế
đâu có gì là quá đáng so với giấc mơ đoàn tụ của người cha cách đây hơn
30 năm. Các bạn nghĩ sao.???
|
Năm 89 em có gặp người đàn ông tráng bánh này ở trại tỵ nạn PFAC,Philippines, nhưng không hề biết chuyện này. Em đi nhà thờ ở trại gặp cha Crawford mỗi ngày, sau này cha N Tầm Thường đến giúp để cha Crawford về lại Mỹ vì già yếu. Câu chuyện xúc động mà có hậu.
ReplyDelete