Năm
vừa ra trường, Hưng được đổi về dạy ở trường trung học Hoàng Diệu,
thuộc tỉnh Ba Xuyên. Cái vùng đất cuối cùng của đồng bằng miền Nam, lầy
lội ẩm ướt vào mùa mưa, bụi cát nóng bức vào mùa nắng. Miền Hậu Giang do
phù sa mới tạo thành, nền đất thịt không được vững chắc như các tỉnh
miền Đông. Đường sá rất mau hư, chỉ cần trải qua một mùa mưa là phải tu
bổ lại.
Trường
cách chợ vài con đường nhỏ. Phía bên kia là ruộng nước đầy cóc nhái,
ễnh ương, đêm đêm kêu vang đầy đồng, nghe buồn não nuột. Con đường Mạc
Đĩnh Chi chạy ngang trước cổng trường được tráng nhựa từ những năm
trước, bây giờ còn trơ lại mặt đường đá xanh lồi lõm với những ổ gà đầy
sình nước. Trong sân trường thì tệ hơn nữa vì đất thấp hơn mặt lộ. Tuy
nhà trường đã hết sức sửa sang, bồi đắp nhưng chỉ vài cơn mưa là bùn lầy
phủ ngập lối đi. Cỏ ống xung quanh sân, mọc cao tới ngực. Các đường
mương thoát nước ra ruộng sau hè, nhiều khi tụi học trò mò bắt được cá
rô, cá lóc, cá sặc. Các giàn bông giấy lá mọc xanh rì, nhánh đâm tua
tủa, chú lao công người Miên phải vất vả dùng rựa mé nhánh hoài nhưng
đâu cũng vào đó.
Ngày
mới đến trình diện ông Hiệu Trưởng để nhận việc, Hưng nhìn cái cái sân
đầy cỏ xanh với mười sáu gốc còng to cỡ hai người ôm, tàn lá rậm rạp âm u
mà buồn cho cái thân phận “Tầm Dương đất trích, gối sầu hôm mai.”
Năm đó Hưng mới có hai mươi ba, đen thui, ốm nhom nên cao nhòng. Ông
Hiệu Trưởng thấy vẻ thất vọng của người thấy giáo mới lớn nên vỗ về an
ủi:
-
Đất nầy coi vậy chớ đi dễ khó về. Ở lâu thấy nó dễ thương lắm. Nội con
đường Nhị Trưng có hai cái cầu Bon với cầu Quay là đi hoài cũng không
hết. Nói chi tới Phú Tâm, Bãi Xàu, Kế Sách…
Hưng
tức cười trong bụng. Ông già nầy tính dụ dỗ mình đây. Ở lâu thấy nó dễ
thương! Trời đất! Phải ở đây thiệt lâu thì mới thấy… Vậy thì mình phải
trụ trì ở cái trường Hoàng Diệu nầy bao nhiêu năm nữa mới được đổi về
quê nhà?
Thiệt
ra thì Sóc Trăng đâu có buồn như Hưng tưởng. Cái thị xã Khánh Hưng ồn
ào, náo nhiệt suốt ngày đêm. Người buôn kẻ bán tấp nập, xe cộ, ghe
thuyền rộn rịp lưu thông, tạo nên một sinh hoạt trù phú ở miền ruộng đất
cò bay thẳng cánh. Trên lề đường quanh chợ, người ta bày bán từng giỏ
cần xé to, nào nhãn, táo, ổi. Những trái nhãn hái từ vườn ở Vĩnh Châu,
hột đen nhánh, cơm dầy, mùi thơm nức mũi. Những trái táo lớn cỡ bằng
ngón tay màu xanh xanh vàng vàng, ăn cái vị chua chua, ngòn ngọt. Những
buổi trời mây âm u, đâm nhớ nhà, Hưng buồn buồn, ngồi ăn táo chấm với
muối ớt một hơi gần hết cả kí lô, vậy mà cũng chưa muốn thôi…
Rồi
đến những ngày tựu trường, nhìn những gương mặt sáng sủa, yêu đời của
đám học trò mà vui lây. Những giọng nói líu lo, những tiếng cười đùa
không dứt. Tuổi trẻ hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng quá. Hưng hoà mình
trong niềm vui đó, quên mất tháng năm. Thành phố Sài Gòn với những công
viên đầy lá me bay, lui dần vào quên lãng. Cho đến mùa mưa thứ ba Sóc
Trăng thì một tình cờ chợt đến. Cái tình cờ không đợi nhưng nó vẫn xảy
ra.
Buổi
sáng sớm đó đã gần bảy giờ, Hưng dùng xong điểm tâm, ăn mặc chỉnh tề,
sửa soạn đến lớp. Chàng ra đứng trước cửa nhà, ngó qua bên trường, để
đợi tiếng kẻng. Nhà trọ ở ngay trước cổng chánh của trường, bên nầy
đường. Trời đã dứt cơn mưa từ lâu, nhưng đường sá còn ướt sũng. Bất ngờ
có tiếng con gái, ồn ào bên tai:
- Thưa thầy cho tụi em xin vào trong rửa chưn. Đường trơn, đứa nào cũng bị lọt xuống sình!
Hưng
quay lại thì thấy không phải là học trò lớp mình. Cô nào cô nấy đều lạ,
những chiếc nón lá nghiêng vành, che khuất vài ba khuôn mặt, chàng nhìn
không rõ. Những tà áo dài trắng điểm lấm tấm vệt bùn xam xám. Chắc là
tụi A1 của thầy Định.
Hưng
để cặp sách trên ngạch cửa, dẫn cả đám vào sàn nước bên hông nhà. Sân
rộng, hồ nước thật lớn. Các cô vội vã đưa chưn vào vòi nước để rửa những
vết dơ lấm lem bùn đất. Cho tới cô cuối cùng, Hưng vô tình nhìn kỹ hơn.
Cô ta có bàn chưn nhỏ gọn xinh xắn, các ngón tròn trịa, đều đặn. Đặc
biệt là gót chưn đỏ hồng. Màu đỏ như son mịn. Trong đời Hưng đã thấy
nhiều người đẹp nhưng chưa bao giờ để ý tới bàn chưn một người con gái.
Lần đầu tiên chàng ngất ngây trước một bàn chưn đẹp. Chừng như cảm giác
có gì kỳ lạ, cô học trò quay lại nhìn thì bắt gặp ánh mắt đăm đăm của
ông thầy giáo trẻ. Cô gái cuống quít, bỏ vội lai quần xuống, xỏ đôi chưn
hồng vô đôi guốc sơn, kéo chiếc nón lá che nghiêng cặp mắt tròn vo, đen
bóng như sơn mài. Có tiếng thúc giục:
- Lẹ lên nhen, tới giờ rồi kìa!
Cả
đám quay lại, cúi đầu chào Hưng, rồi kéo nhau, tuôn ra cửa, tiếng líu
lo cười nói như chim. Đường sá còn đầy sình. Những bàn chưn vừa được rửa
sạch, rón rén bước những bước cẩn thận trên những cục đá nhô cao. Hưng
đi theo phía sau cô học trò có cái gót chưn đỏ hồng với làn da mịn mà
nghe lòng xao xuyến như lần đầu tiên được cầm bàn tay run rẩy của người
con gái lạ. Ôi! cái niềm vui mong manh, đơn giản nhưng trong sáng làm
sao!
Từ
đó, vào những buổi sáng, Hưng mong cho trời mưa để đường lầy lội. Dầu
Hưng mong hay không, trời vẫn cứ mưa. Có những buổi trời mưa thật lớn,
rồi cũng có những buổi trời mưa lất phất. Con đường Mạc Đĩnh Chi ngang
cổng trường, bùn sình ngập tới mắt cá. Hồ nước của nhà trọ đầy tràn. Vậy
mà không có người ghé xin nước, để rửa chưn!
Mãi
cho đến mấy tháng sau, thầy Định dược đổi về Sài Gòn. Hưng được giao
thêm Đệ Nhị A1. Ngày đầu tiên bước vào lớp, chàng bắt gặp ngay được cặp
mắt to, đen như hột nhãn của người rửa chưn ngày nào, ngó chàng đăm đăm.
Lật sổ ra điểm danh thì cô bé tên Trần Thị Hạnh. Hỏi thêm, thì biết nhà
ở đường Nhị Trưng. Ông Hiệu Trưởng quả là một nhà tiên tri đại tài. Ba
năm trước nói một câu bâng quơ - nội cái con đường Nhị Trưng, đi hoài
cũng không hết. Bây giờ lời đó ứng nghiệm rõ ràng.
Có
những đêm thức soạn bài tới khuya, Hưng không thấy mệt mỏi chút nào.
Những bài giảng phong phú và lưu loát, nói chung cho cả lớp nhưng mà như
cho riêng ai nghe. Có cái gì riêng tư không biết nữa, nó ràng buộc tâm
tình chàng với cái hồn nhiên ngây thơ của cô học trò mới lớn. Làm sao
Hưng quên được hình ảnh dễ thương của nàng mỗi lần đến thăm gia đình. Ba
Hạnh tánh hăng say hoạt động, tuổi già nhưng còn rất trẻ trung. Ông
giúp đỡ nhà trường rất nhiều và đã đảm nhiệm chức vụ Hội Trưởng Hội Phụ
Huynh Học Sinh liên tiếp trong nhiều niên khoá.
Có
lần đến nhà, Hạnh rót nước để mời chàng, giọng êm ái trong veo như gió
thoảng. Bộ ghế ở phòng khách thì thấp, nàng phải quì xuống để đặt khay
trà lên trên bàn, mái tóc ngắn ôm sát lấy khuôn mặt tròn xinh xinh. Cả
người đầy nét thùy mị, dịu dàng, y như những cô gái Nhựt Bổn trong
tranh.
- Ngày Chúa Nhựt mà thầy không đi chơi đâu sao?
- Thì tôi lại thăm ông bà Hội Trưởng nè, được em cho uống nước trà ngon, cần gì phải đi đâu xa xôi chi cho mất công.
Ba Hạnh nói tiếp:
- Ông giáo sư còn trẻ mà lại học giỏi, chịu khó. Con Hạnh về thường cứ nhắc hoài những bài giảng trong lớp…
Hưng nghe khoan khoái trong bụng nhưng không biết nên trả lời ra sao:
- Dạ, tôi cũng dạy y như hồi học được ở Sư Phạm. Chắc là nhờ lớp Hạnh, học trò giỏi nhiều hơn lớp khác.
Má Hạnh xen vô:
- Ông giáo sư nói vậy chớ, chắc con Hạnh học không giỏi đâu. Tôi thấy nó về nhà đọc tiểu thuyết không hà!
Hạnh mỉm cười nhìn Hưng:
-
Tại thầy biểu đó, chớ con đâu có ham tiểu thuyết. Hồi trước con thích
đọc thơ… Thầy Hưng dạy văn chương mà viết văn làm thơ thì chắc hay lắm!
Hưng nghe xong, cười ngất, quơ tay:
-
Nghĩ như vậy là sai rồi, cô ơi! Thầy giáo dạy văn chương mà nói chuyện
về thơ văn thì cũng như các ông thợ mộc… thợ hồ… bàn về mỹ thuật…
Hạnh tròn mắt, nhìn thầy, ngạc nhiên.
-
Tôi nói thiệt mà, không phải giỡn đâu. Ở Sư Phạm hoặc Văn Khoa, tụi tôi
chỉ được học cách phân tách, phê bình để giảng dạy một bài thơ hoặc một
bài văn cho học trò lớp nhỏ, tàm tạm cho người chưa biết, hiểu được
chút ít thôi. Nếu có cái gọi là kỹ thuật viết văn hay làm thơ mà dạy và
học được, thì ai cũng thành văn sĩ hay thi sĩ hết rồi. Mà Hạnh thấy đó,
người viết văn làm thơ thì nhiều mà thành danh đâu có được bao nhiêu.
Đâu phải hễ in được một hay hai cuốn thơ là được người đời kêu bằng thi
sĩ. Cũng vậy, đối với các giới khác, đâu phải bác sĩ là đều phát minh ra
được thuốc trị bịnh, kỹ sư là chế ra được xe hơi, máy bay. Cái tài năng
nghệ thuật đó, không phải do sự học… mà do thiên phú. Phải trời cho mới
được!
Hạnh le lưỡi, làm ra vẻ sợ hãi.
Hưng tiếp:
- Hạnh có nghe tôi kể lần nào, câu chuyện người thợ làm bánh xe của Trang Tử trong Nam Hoa Kinh chưa?
- chưa, thầy kể cho em nghe đi!
-
Lâu quá rồi, tôi quên mất tên ông vua nhưng đại khái câu chuyện như
vầy.
Đời xưa, có ông vua nhân lúc thanh nhàn, ngồi đọc sách, dáng điệu
nghiêm trang, kính cẩn. Ở dưới thềm có người thợ làm bánh xe đương đục
đẽo cồm cộp. Người thợ vừa làm việc vừa ngó ông vua. Thấy ông nầy đọc
sách say mê, bèn bỏ bào, bỏ đục, bước lên thềm, vòng tay hỏi:
- Muôn tâu bệ hạ, xin cho thần được hỏi, bệ hạ đọc những gì trong đó?
Nhà vua trả lời:
- Ta đọc những lời vàng ngọc của thánh hiền.
Ông thợ nhếch mép:
- Muôn tâu, xin bệ hạ thứ lỗi cho hạ thần. Hạ thần nghĩ là bệ hạ đọc những căn bã của thánh hiền mà thôi.
Nhà vua trợn mắt, nhìn sững ông già.
-
Muôn tâu bệ hạ, thần dám liều gan nói như vậy vì có chút ít kinh nghiệm
về việc nầy. Thần không dám nói đến việc kinh sách, thơ văn cao xa. Hạ
thần chỉ dám nói về việc đóng bánh xe gia truyền của dòng họ nhà hạ thần
thôi. Như muốn gắn cái niền sắt vô bánh xe bằng cây, thì phải cầm cây
búa mà gõ từ từ. Nếu gõ nhẹ tay thì làm sao cái niền nó ôm sát được vô
cái bánh. Nếu gõ mạnh tay thì bánh xe bằng cây bị nứt bể. Phải làm sao
đập từng nhát búa đều đặn, nhịp nhàng khi mạnh khi yếu, khi mau khi
chậm, để cái vòng sắt ôm chặt lấy cái khung bánh. Khi đã đâu vào đó rồi
thì bánh xe dùng cả chục năm cũng không hư…
Đó
chỉ là cái nghề nhỏ mọn, mà từ đời ông nội hạ thần muốn truyền lại cho
cha hạ thần, rồi cha hạ thần muốn truyền lại cho hạ thần, cũng không thể
viết ra sách được, cũng không thể nói bằng lời được. Lúc nhỏ thần muốn
học, phải ngồi mà coi cái ý, theo dõi cái tình, rồi lấy cái tâm mà lãnh
hội. Phải mất một thời gian lâu dài mới được như ngày nay. Nghề đóng
bánh xe còn vậy, nói chi đến kinh sách, thơ văn. Làm sao mà nói được
bằng lời, ghi lại bằng chữ những ý đẹp, tình cao. Cho nên hạ thần dám
nói, cái mà bệ hạ đọc trong kinh sách, những cái đó chỉ là cặn bã mà
thôi.
Hưng uống một hớp nước, rồi nói tiếp:
-
Câu chuyện được đặt ra để chứng minh rằng, lời không nói hết được ý, ý
không nói hết được tình. Mà chuyện viết văn, làm thơ là chuyện của ý với
tình, làm sao cái ngôn ngữ, văn tự, của một ông thầy giáo, dầu là thầy
dạy văn chương đạt tới được!
Hạnh nghe xong cười cười, nhìn chàng thật lâu, rồi nói chậm rãi:
- Thầy nói vậy thì em nghe vậy! Để rồi em bắt chước Xuân Diệu, Huy Cận làm thơ cho thầy coi.
Hưng nhìn lại Hạnh, thương thương cái tánh bướng bỉnh:
-
Cô học trò thi sĩ của tôi ơi! Nghệ thuật là sự sáng tạo, chớ không phải
bắt chước. Nếu bắt chước thì không còn là nghệ thuật nữa. Thí dụ như
một ngày nào đó, có một cô bé đi học, gặp bữa trời mưa ướt át, chưn dính
đầy sình bùn, đứng nghiêng mình bên hồ nước, kéo cái lai quần lên để
rửa chưn. Gót chưn đỏ như son mịn, dáng vẻ thật là duyên dáng, dễ
thương, ai nhìn thấy cũng yêu cũng mến. Có cô nàng nào đó, ô dề kịch
cợm, thấy vậy bắt chước cũng uốn éo làm duyên, làm dáng, giậm chưn cho
dính đầy bùn đất rồi dội hết cả hồ nước. Tôi nghĩ anh chàng nào mà thấy,
chắc phải bỏ chạy cho thiệt xa…
Cô bé chớp mắt:
- Thầy nói thiệt hả! Em không tin có người nào mới nhìn một cái gót chưn người lạ, mà thương liền!
- Thầy nói thiệt hả! Em không tin có người nào mới nhìn một cái gót chưn người lạ, mà thương liền!
Ba Hạnh ngồi im lặng nãi giờ, không hiểu nội dung câu chuyện bóng gió xa xôi của Hưng, xen vô góp lời:
-
Con còn nhỏ, chưa biết hết đâu. Đời thiếu gì những điều kỳ lạ mà mình
chưa biết. Như nàng Mỵ Nương, chỉ nghe tiếng sáo của Trương Chi, mà bịnh
tương tư liệt giường liệt chiếu. Cái ông hoàng tử trong chuyện Tấm Cám,
chỉ mới nhìn thấy có một chiếc giày mà đã chết mê chết mệt. Nói gì nhìn
cả một gót chưn. Thầy Hưng nói phải đó!
Má Hạnh nhìn con gái trìu mến:
- Hồi nãy giờ cha con, thầy trò đối đáp, tôi không hiểu gì hết trơn!
Cả bốn cùng cười vang. Hạnh ôm lấy vai mẹ, nũng nịu:
- Con định làm thi sĩ mà thầy Hưng chưa gì hết, đã chê!
Khi từ giã ra về, Hưng đi sát bên Hạnh, vẻ nghiêm trang:
- Nói chơi cho vui chớ tôi vẫn mong được những bài thơ của Hạnh.
Hạnh nhìn qua chàng:
- Thầy không sợ những bài thơ của em làm dở tệ sao!
Hưng nhìn thật sâu trong mắt nàng:
- Thơ của em bài nào cũng hay hết.
Rồi nhìn ông bà Hội Trưởng còn ở phía sau, lấy hết can đảm, Hưng nói trong hơi thở:
- Riêng em, đã là một bài thơ…
Nói
xong, Hưng thấy tự nhiên tay chưn luống cuống, mặt đỏ bùng bừng, tim
đập thình thịch. Chàng đi một mạch ra cửa, không dám ngó ngoái lại. Lúc
đó, Hạnh đứng tựa vào cánh cửa cây, đưa tay chận lấy ngực, mặt mày xám
xanh.
Buổi
đó cũng là lần cuối cùng Hưng đến nhà nàng. Vài tuần sau, vì một lý do
hành chánh đặc biệt, Hưng bị đổi về Bình Dương, một tỉnh nhỏ của miền
Đông nhiều đồi dốc. Tuy trường mới đẹp hơn, lớn hơn trường xưa, nhưng
làm sao nó có thể so sánh được với Hoàng Diệu bùn sình trơn trợt. Làm
sao có được những ngày mưa ướt át, để đón đưa người mình yêu đến cổng
trường có giàn bông giấy.
Một
hôm đang ở phòng họp giáo sư, Hưng nhận được một bức thư gởi từ Ba
Xuyên xa xôi, thơ của Hạnh. Mừng quá, chàng mở phong thơ màu xanh lợt mà
run tay. Những dòng chữ tròn trịa, đầy đặn được viết trên tờ giấy xanh
mỏng những lời thăm hỏi chân tình của người học trò cũ. Lật qua trang
sau, Hưng thấy nguyên một bài thơ trường thiên tám chữ. Hưng đọc từng
câu, cảm từng lời. Cho tới hai câu cuối, Hưng nghe choáng váng, tim như
muốn ngừng đập. Hai câu đó như vầy:
Thầy vẫn dạy bài Việt Văn năm cũ,
Như ngày xưa, riêng đôi mắt em nghe.
Như ngày xưa, riêng đôi mắt em nghe.
Trời
ơi! quả thật vậy sao? Hưng đứng lặng hàng giờ để nghe niềm cảm xúc lâng
lâng, thấm từng tế bào tim phổi. Ít ra, trong đời dạy học, có được một
người nghe chàng giảng dạy bằng cả một tấm lòng tin yêu, cũng là quá đủ!
Chiếc
xe buýt từ từ đậu sát bên lề đường rồi ngừng hẳn. Hưng vịn tay vào
thanh sắt lạnh ngắt, chưn dò dẫm từng bước để xuống. Từ nhà ra đến chợ,
phải mất hơn bốn mươi lăm phút để đi xe. Trời bây giờ đang vào mùa đông
nên lạnh giá. Tuyết rơi khắp nơi. Cả thành phố như bị bao phủ bằng một
lớp bột thạch cao dầy, trắng xoá. Hàng cây thẳng tắp ven đường bị đông
lạnh co ro, đưa lên trời những cành khô, khẳng kheo, trơ trụi. Từng cơn
gió lạnh thổi tạt ngang, đưa những hạt tuyết xôm xốp như bông gòn bay
rào rào, trên đầu trên mặt. Hưng nghe lạnh buốt như có con dao bén cứa
vào da thịt. Bộ áo khoác và đôi giày, xin được ở nhà thờ hơi mỏng và quá
cũ không đủ ấm. Tuần lương tới phải ráng tiện tặn để mua bộ khác dầy
hơn. Ở xứ nầy có lẽ nhịn ăn thì được nhưng nhịn mặc thì không xong rồi.
Đây
là mùa đông đầu tiên Hưng phải chịu đựng ở cái thành phố đầy tuyết
trắng. Gần hơn một năm trời chờ đợi mòn mỏi ở ngoài đảo, chàng được phái
đoàn Cao Ủy Liên Hiệp Quốc cho đi định cư đến đây. Một nơi lạ hoắc,
chưa bao giờ chàng nghĩ tới. Cái thân trôi nổi, ừ thì thôi, đâu cũng là
nhà. Chàng chấp nhận, không so bì, đắn đo. Đi đâu cũng được, miễn là
khỏi phải sống một cuộc đời cực nhục, khổ sở, dưới bàn tay sắt máu, của
bọn người vô tâm.
Đường
đến tiệm rất gần. Tới nơi, Hưng cởi chiếc bao tay bằng len đỏ, đã có
một lỗ lủng nhỏ ở đầu ngón, đẩy cửa kiếng để bước vào trong thương xá
Việt Nam. Mỗi tuần chàng đến đây để mua một số thực phẩm cần dùng. Hưng
đưa tay phủi bụi tuyềt bám trên tóc trên mặt, giũ sơ qua những hạt còn
bám trên áo khoác. Tóc tai rối bù, ướt đẫm. Nhìn xuống đôi giày cao cổ,
nó thê lương làm sao! Tuyết nhão quện với bùn đất biến thành bùn sình,
bám vào đế giày nhoè nhoẹt. Đôi giày quá cũ, nước thấm ướt hết cả vớ.
Các ngón chưn nghe lạnh ngắt.
Hưng
đi thẳng vào trong, mắt nhìn lên các kệ thực phẩm để chọn lựa các thứ
cần dùng. Rải rác đây đó, người mua chừng đã khá đông. Tiếng cười, tiếng
nói ồn ào, tạo thành một thứ sinh khí Việt Nam. Ở xứ lạ quê người, được
nghe và nói tiếng mẹ đẻ là một điều sung sướng. Cần gì câu chuyện hay
hay dở, người lạ hay quen…
- Chèng ơi, ở đây mà cũng có trầu cau nữa… Có luôn xác giấy nè.
Có giọng nói của người trẻ hơn:
- Hôm trước có bán măng cụt với chôm chôm. Để ở chỗ nầy! Mắc quá, thấy thèm, mà không đủ tiền mua.
-
Mầy lại hỏi bà chủ tiệm, coi bài tứ sắc để ở đâu, tao nghe nói tiệm nầy
có bán, liệu mua năm bảy bộ để dành. Tết nầy rủ mấy bà Gò Công qua đậu
chến cho vui.
Hưng
đi lần ra phía ngoài. Có mùi son phấn nực mũi. Một bà vừa trạc năm
mươi, đứng với một thanh niên mặt mày sáng sủa, cả hai ăn mặc sang
trọng. Bà ta đứng trả tiền ở quầy hàng nói với bà chủ tiệm, giọng oang
oang, từ xa, ai cũng nghe thấy:
- Ở đây, khoẻ quá hở bà chị! Có tiền là có đủ thứ. Chỉ cần nhắc cái điện thoại lên là có đồ ăn đem ngay tới miệng…
Giọng bà chủ tiệm, ôn tồn:
- Dạ, dạ, chỉ có điều trời lạnh quá. Tôi chịu hổng thấu. Phải chi kha khá một chút, dọn qua Mỹ ở ấm áp hơn…
- Ối! Hơi đâu mà bà chị lo. Trời nóng thì có máy lạnh, mùa đông thì có lò sưởi. Ra đường mình có áo lông.
Rồi giọng bà kéo dài ra:
-
Mấy thứ đó… đâu có bao nhiêu tiền! Tôi suy nghĩ kỹ rồi, cũng nhờ có mấy
ông Việt Cộng nên mới được qua đây, sống sung sướng như vầy.
Có vài người khách đứng gần, ngước mắt lên nhìn. Người thanh niên có vẻ học thức, nắm lấy tay bà:
- Sao mẹ nói vậy, mình bỏ nước ra đi là tại mấy thằng Việt cộng. Làm sao sung sướng bằng ở bên Sài Gòn, quê hương làng nước…
Rồi như để che bớt cái sơ hở của mẹ, anh ta nói tiếp:
- Xứ Canada nầy, việc ít người nhiều. Kiếm được đồng lương cũng đổ mồ hôi…
Bà chủ tiệm ngó người thanh niên cười cười. Bà khách kia quay qua con, mắng yêu:
-
Ối dào, kiếm việc vất vả là mấy người thợ thuyền làm ở hãng xưởng, chứ
học cao tới kỹ sư như con thì thiếu gì mấy cái công ty lớn mời, tha hồ
mà chọn.
Hưng
nghe hai mẹ con đối đáp, khoái chí, bèn làm bộ lựa những món hàng gần
đó, để nghe thêm cho dễ. Nào ngờ, hai người đã trả tiền xong, đi mất.
Chàng đâm buồn buồn, tính trong bụng định ra về. Ngước mắt lên kệ cao,
Hưng vói tay lấy một thùng mì gói. Với thùng mì nầy Hưng có thể để dành,
ăn được cả tháng, khỏi mất công mua lặt vặt, vừa tiện việc khỏi phải
nấu nướng lôi thôi, vừa rẻ, vừa đỡ tốn tiền. Phía sau lưng có tiếng nói
ấm áp của một thanh niên cất lên:
-
Hay là em mua cho ba trà Ô Long uống thử coi. Anh thấy bác Tư thích
loại nhãn xanh lợt nầy lắm nè. Trà Thiết Quan Âm kiếm không ra.
-
Thôi, anh chịu khó đưa em qua phố Tàu, ở bển thế nào cũng có. Tánh ba
thích uống trà ngon, ăn sao thì cũng được. Hồi còn ở Sóc Trăng có tiệm
Quảng Trân, bán trà nổi danh. Kế bên nhà…
Hưng
đương nắm lấy góc thùng mì, nghe giọng nói êm ái của người thiếu nữ,
thấy quen quen. Cái giọng nói nhẹ như gió thoảng nhưng âm thanh rõ ràng
đó đã nhiều lần nghe qua, làm sao lầm lẫn được. Chàng khựng lại cho đến
khi nghe được hai tiếng Sóc Trăng, thì buông hẳn thùng mì trở lại trên
kệ, quay lưng lại mà nhìn. Người con gái đứng trước mặt Hưng, quả thật
là Hạnh. Không thể là ai khác hơn. Hạnh ngày xưa, bằng xương bằng thịt
rõ ràng.
Hạnh mở to mắt:
- Thầy.. thầy qua được đây bao lâu? Sao em không hay biết gì hết?
Hưng
còn đang choáng váng vì cuộc hội ngộ bất ngờ, chưa kịp trả lời thì Hạnh
giới thiệu người thanh niên đứng kế bên, giọng hơi ngập ngừng, luống
cuống:
- Còn đây là anh Lâm… anh Lâm.
Hưng
bắt tay người thanh niên, miệng mỉm cười thay câu chào hỏi. Lâm có vầng
trán rộng, đôi mắt thật sáng, cái mũi đẹp, khá cao và thẳng tắp. Lâm
thăm hỏi chàng qua hàm răng trắng bóng, đều đặn:
-
Thầy đi chợ có thường không? Tôi với Hạnh tháng nào cũng đến đây một
vài lần, vậy mà không được gặp! Ngày xưa Hạnh có được học với thầy?
Hưng
nhớ tới hình dáng tiều tuỵ của mình. Khi nãy bắt tay, cái bàn tay của
Lâm mềm mại, ấm áp làm sao. Hưng cảm thấy làn da tay mình sần sùi, thô
kệch, bữa nay sao nó dầy hơn bình thường.
- Ờ, ờ, tôi mới qua tới, chưa được bao lâu.
Hưng
nhìn sang Hạnh. Nàng vẫn dịu dàng, xinh xắn. Trang điểm thêm một chút
phấn hồng trên má, một chút son đỏ lợt trên môi, chiếc khăn len quấn hờ
lên cổ, trông nàng đẹp đẽ hơn bội phần, quí phái hơn bội phần.
Bất
giác Hưng đưa tay sờ lên cằm. Sáng nay trời lạnh quá, lo sửa soạn đi
gấp nên quên mất việc cạo râu, râu cằm đâm tua tủa, rờ nham nháp. Tay
Hưng lần lên, đụng phải cái gò má. Cái gò má thiếu thịt, xương lưỡng
quyền nhô cao, kết quả của những ngày tháng lao động vinh quang. Năm năm
bị đày đọa ác nghiệt ở quê nhà. Một năm trời thiếu thốn chờ đợi héo mòn
ở đảo xa, tổng cộng tất cả là sáu năm. Sáu năm lầm than, khốn khó. Thời
gian quá dài đủ để choán đầy hết những mùa xuân cuộc đời. Như nụ bông
chỉ cần vài giờ có nắng ấm để phô sắc hương, thời gian đó đã bị một đám
mây xám, âm u giăng kín. Hưng tự hỏi không biết bây giờ mình còn chút
xíu phong độ nào của một ông giáo sư trẻ ngày xưa?
- Cuộc biến động lớn lao quá. Tôi không biết gì nhiều ở Sóc Trăng.
-
Dạ, ba má với em đi từ năm bảy mươi lăm. Đọc báo, nghe tin tức, thấy
đất nước tang thương, đổ nát. Ba má em cứ nhắc thầy hoài, hỏi thăm mà
không ai biết.
Hưng
nghe xót xa. Ông bà Hội Trưởng thường nhắc đến chàng. Hạnh ơi, có bao
giờ em nhắc tới tôi, một lần không? Hưng thấy tay chưn mình đâm thừa
thãi. Chàng nhìn Hạnh rồi nhìn Lâm. Cả hai đứng bên nhau, tươi mát, yêu
đời. Còn chàng, từ ngày đất nước đổi thay, như con cá dật dờ ngoài sông
lớn. Cá nước ngọt bị đem bỏ ra biển, gặp nước mặn đã ngất ngư, còn bị
sóng dập gió dồi, chịu sao cho thấu. Cái sức sống mới vừa vươn lên sắp
đâm chồi nẫy lộc, bất ngờ một cơn phong ba, bão táp đổ ập đến, khiến
Hưng như người đau mới mạnh. Tuy đã vượt thoát đến phần đất tự do, chắc
phải cần một thời gian khá dài để phục hồi sinh lực cũ.
Sáng
nay vô tình gặp Hạnh. Hình ảnh cô bé học trò dễ thương đã trên sáu bảy
năm nằm lắng im trong lớp kỷ niệm thật sâu, thật dầy, được khơi bùng
dậy. Hưng nhìn thật sâu trong mắt nàng để tưởng rằng mình vẫn còn được
trẻ trung như xưa. Cái thời mà mỗi buổi sáng đứng trước kiếng hàng giờ
để chải cái đầu, lựa từng cái áo, cái quần, đôi giày, đôi vớ… Những giờ
đến lớp với niềm tin trong mắt, với nụ cười trên môi. Những buổi trưa
hẹn hò, bước chưn xôn xao trên hè phố. Cái thời mà dòng máu yêu đời luân
lưu trong huyết quản, bàn tay tưởng có thể ôm gọn được tương lai.
Thấy
Hưng nhìn mình đăm đăm, Hạnh bối rối cúi đầu, mắt nhìn xuống mũi giày,
một tay ôm chặt lấy Lâm. Hồi lâu, nàng mới hỏi qua nụ cười gượng gạo:
-
Hồi nãy tới giờ gặp thầy mừng quá, quên mất hỏi thăm, chắc thầy qua đây
một lượt với cô? Chắc cô cũng người Bình Dương, vì ở trên đó người đẹp
nhiều lắm…
Hưng khựng lại một hồi lâu rồi nhìn bao quát cả tiệm, thủng thỉnh trả lời:
-
Ờ, ờ, tụi tôi quen nhau từ hồi còn nhỏ xíu, Quên mất hỏi coi người tỉnh
nào. Chắc Rạch Giá, Cần Thơ, Tây Ninh hay Biên Hoà gì đó. Đợi ngày làm
đám cưới thì Việt cộng vô. Hai đứa bị đày đọa khổ sở. Tôi rủ vượt biên,
bả không chịu, khăng khăng ở lại.
Hạnh chớp chớp mi mắt, vẻ xót xa, an ủi:
- Thôi, lần lần thầy ổn định đời sống rồi làm giấy bảo lãnh cho cô qua..
Hưng nhăn mặt lắc đầu:
-
Cô không chịu đi đâu. Tôi đã viết thơ nhiều lần thúc hối nhưng không
cách gì lay chuyển được. Loay hoay một mình buồn quá. Đôi lúc thấy đời
sống nhàm chán vô nghĩa. Không lý suốt đời chỉ còn biết có đi làm, đi
chơi, đi ăn, đi ngủ…
Rồi Hưng ngậm ngùi:
-
Ở đây một năm sáu tháng giá buốt… Nhiều khi nhìn tuyết rơi ngập trời mà
thèm một chút nắng ấm quê hương, nơi đó đã một thời, tôi tìm thấy được
mùa xuân.
Võ Kỳ Điền
Ông..Võ Kỳ Điền,
ReplyDelete..đọc..bài..tưởng..như..chuyện..của..mình..Của..mơ..mộng..thời..thờ..ấu..cùa..đường..Hòa..Hưng..+..Lê..Văn..Duyệt.
Cám..ơn..ông..chị..Diệp,..anh..Vinh,..và..các..em...
Kính..ông..Võ..Kỳ..Điền..Phải...nói..rằng..rất..vui..mừng..khi..gặp..ông..tại..đây...Mong..được..gời..lời..thăm..chị..hai..Ngọc..Diệp,..anh..ba..Vinh..và..quý..quyến.
ReplyDeleteCám..ơn..ông..nhiều..
Như-Ý