1-
Mallorca, một hòn đảo du lịch nổi tiếng của Tây Ban Nha, nằm trong quần đảo Balearic. Trước khi đến đây, vì nghĩ là đảo, nên tôi tưởng chỉ có rừng núi và biển cùng một vài làng mạc hay khu phố nhỏ. Nhưng tôi rất ngạc nhiên khi phi cơ đáp xuống phi trườngPalma
rộng lớn, kiến trúc tân kỳ, sang trọng còn
hơn nhiều phi trường quốc tế khác mà tôi
đã từng đi qua. Palma là thủ phủ tráng lệ của Mallorca ,
nằm trên một dãy đồi cao nhìn xuống biển
xanh. Đặc biệt khu nhà thờ Cathedral nằm
bên cạnh giáo đường Mussulman, gồm những kiến
trúc độc đáo, nổi tiếng theo
kiểu Mediterranean Gothic từ thế kỷ thứ 13.
Mallorca, một hòn đảo du lịch nổi tiếng của Tây Ban Nha, nằm trong quần đảo Balearic. Trước khi đến đây, vì nghĩ là đảo, nên tôi tưởng chỉ có rừng núi và biển cùng một vài làng mạc hay khu phố nhỏ. Nhưng tôi rất ngạc nhiên khi phi cơ đáp xuống phi trường
Chiếc xe bus của công ty du lịch
đưa chúng tôi đi qua vài thành phố cảng, sang trọng
và sầm uất, nằm dọc theo bờ biển, để
đến Alcudia, khu nghỉ mát nằm phía đông bắc Palma chừng ba giờ
xe. Chúng tôi chọn nơi này, vì bờ biển đẹp, một
cái vịnh nhỏ, nằm khuất sau dãy núi Victoria , nên không có sóng và khá an toàn cho trẻ em. Những em bé năm, sáu tuổi
có thể lội ra cách bờ 50-60 mét.
Thực ra kỳ nghỉ hè này chỉ là món nợ mà vợ
chồng tôi phải trả cho con bé cháu nội. Trước
đây hai năm tôi hứa với cô bé là sẽ thưởng
một kỳ nghỉ hè hai tuần lễ ở Mallorca nếu nó đọc và viết
được tiếng Việt. Chúng tôi ở
trong một khách sạn, đi bộ ra biển chừng vài
phút. (Đa số khách sạn ở vùng
này giống như những khu apartment, mỗi phòng trọ,
ngoài các phòng ngủ, còn có phòng khách và bếp với đầy
đủ dụng cụ nấu ăn). Ở Bắc
Âu thời tiết lạnh đến bảy, tám tháng, không
có nhiều dịp được ra biển tắm, nên con
bé cháu nội rất mê biển. Sáng nào, mới vừa thức
dậy, con bé cũng giục ông bà nội ra biển, mãi
đến chiều, khi trời sắp tắt nắng mới
chịu trở về. Đã vậy khi về đến
khách sạn, cô bé còn xin được tiếp tục
bơi lội trong hồ tắm của khách sạn đến
tối mịt mới chịu vào phòng. Trong khi bà xã làm thức
ăn, tôi có nhiệm vụ ngồi trên bờ hồ trông chừng
con bé.
Ở đây, hầu hết khách du lịch đến từ
Âu Châu, đa số là người Bắc Âu và Đức.
Suốt tuần lễ đầu tiên, tôi không gặp
người Á châu nào, ngoại trừ gia đình người
Tàu làm chủ một nhà hàng buffet, sinh sống ở đây
đã lâu năm. Một hôm, khi nằm trên chiếc ghế dựa
bên hồ tắm nhìn trời, bất ngờ nghe cô bé cháu nội
nói chuyện bằng tiếng Việt với một người
nào đó. Nhìn xuống hồ tôi nhận ra một cô gái tóc
đen đang tắm và đùa giỡn với con bé. Thấy
tôi nhìn, cô gái lạ đưa tay vẫy,
và nở một nụ cười chào tôi. Giữa
một nơi xa lạ, người đồng
hương dễ quen nhau.
Trưa hôm sau, trong lúc vợ chồng tôi nằm trốn nắng
dưới cây dù lớn ngoài bãi tắm, con bé cháu nội dắt
tay cô gái đến chào chúng tôi. Cô gái tự giới thiệu tên mình là Lam Khê, khoảng
chừng 19, 20 tuổi, khuôn mặt khá xinh và đôi mắt
thật to, tự nhiên dễ mến. Nhưng điều
làm tôi chú ý chính là cái tên Lam Khê, trùng hợp với một
địa danh vẫn còn đậm trong ký ức, cho dù cuộc
đời thăng trầm đây đó của tôi còn có biết
bao nhiêu cái tên để nhớ.
Buổi chiều, khi vợ chồng tôi và cô bé cháu nội
đang ăn tối trong nhà hàng buffet của một người
chủ gốc Tàu, thì bất ngờ thấy Lam Khê đi vào
cùng với một người đàn bà Việt Nam và một
người đàn ông ngoại quốc. Có lẽ Lam Khê
đã kể về chúng tôi, nên cả hai người đến
chào và bắt tay chúng tôi. Khi đứng
lên bắt tay bà mẹ, tôi bất ngờ
đến giật mình khi nhận ra người đàn bà
này chính là người mà tôi vừa nghĩ tới sáng nay khi
gặp Lam Khê. Trong khi tôi đang ngạc nhiên về những
cuộc hạnh ngộ bất ngờ trong đời mình,
thì bà nở nụ cười giới thiệu người
đàn ông ngoại quốc đi bên cạnh:
-Đây là ông xã em. Anh người Đức. Chúng em sống ở thành phố
Tôi đưa tay bắt tay và gật
đầu chào người đàn ông, nhưng lại hỏi
bà:
-Xin lỗi, tên bà có phải là Hà Giang?
-Sao ông bà biết tên tôi? Người đàn bà
trố mắt nhìn chúng tôi ngạc nhiên.
-Không ngờ tôi lại gặp bà ở đây - Tôi vừa
nói vừa kéo ghế mời cả ba người- Hóa ra
chúng ta đã từng gặp nhau. Chúng tôi xin
được mời ông bà và cháu Lam Khê.
Bà ngồi xuống bên cạnh vợ tôi, nét ngạc
nhiên vẫn còn nguyên trên mặt. Để đánh tan
không khí căng thẳng, tôi giải thích:
- Tôi biết bà khi tôi đang ở tù ngoài miền Bắc.
Sáng nay khi gặp và biết tên cháu Lam Khê, tôi đã nghĩ
ngay đến bà. Bởi cái tên Lam Khê, tôi và đám
bạn tù không thể nào quên. Không ngờ
bây giờ lại gặp bà ở đây. Xin cám ơn
tình cảm và lòng tốt của bà đã dành cho chúng tôi trong
những ngày sa cơ khốn khó.
Bà nhìn tôi dò xét. Suốt bữa ăn, chúng tôi
nhắc lại những ngày vui buồn ở vùng núi xa
xăm ấy. Trong khung cảnh vui vẻ,
nhưng nhìn khuôn mặt và nụ cười không trọn,
tôi có cảm giác bà ta đang ưu tư một điều
gì đó.
Lam Khê, cái tên khá đẹp đó lại là một khu núi rừng
Thanh Hóa, tiêu điều hoang vắng, nằm sát biên giới
Lào-Việt, mà bọn tù “cải tạo” chúng tôi bị
đưa đến đây để phát rừng trồng
cây, xây dựng một lâm trường, trong một mùa hè nắng
và gió Lào muốn cháy cả thịt da.
Ngày đầu mới đến, giữa một khu núi rừng xa xôi hẻo lánh, chúng tôi chỉ thấy có hai căn nhà lá cọ vừa mới dựng lên, trong đó chỉ có vài người ở. Họ được giới thiệu là “những bảo vệ và cán bộ lâm trường”. Điều làm chúng tôi vừa ngạc nhiên vừa thích thú là sự có mặt của một cô con gái trẻ, trông dáng dấp e ấp thư sinh, mà lại là “thủ trưởng” toàn bộ lâm trường này. Tôi nhớ một câu ví von của người nào đó: “Hoa lạc giữa rừng gươm”!
Cả đội tù chúng tôi trên sáu mươi người được lệnh ngồi trên một bãi cỏ bên bìa rừng, để “nghe nữ đồng chí giám đốc lâm trường lên lớp”. Mặc một bộ đồ công nhân màu xanh, rộng thùng thình, khuôn mặt không một chút phấn son, nhưng trông khá xinh với đôi mắt thật to và buồn. Cô chào chúng tôi bằng một nụ cười, nói năng từ tốn, tự giới thiệu tên là Hà Giang, trước khi nói về địa thế, đặc tính khu rừng, cách thức phát hoang và phương pháp an toàn. Cô gọi chúng tôi là các chú và xưng mình là em. Sự kiện chưa từng thấy trong những năm tù. Cuối cùng cô nhờ anh đội trưởng cắt cử cho cô năm người để cô hướng dẫn việc đo đạc, cấm cọc, căng giây. Tôi được may mắn nằm trong năm thằng được chọn.
Dường như từ ngày có chúng tôi,
đôi mắt của cô trông bớt buồn hơn. Nhiều lúc cô đùa giỡn rất thân tình.
Mỗi ngày năm đứa chúng tôi theo
cô vào rừng để đo đạc. Những
lúc ấy cô thường ngồi tâm tình. Cô kể về đời mình và thường hỏi
mỗi người chúng tôi về hoàn cảnh cha mẹ, vợ
con ở quê nhà. Nghe chúng tôi kể sự
gian truân của gia đình cùng nỗi nhớ thương vô
vọng, nhiều lần cô đã lau nước mắt.
Thấy một anh đeo trên cổ tấm ảnh của vợ
lồng trong mảnh gỗ mun nhỏ, cô xin được
xem rồi bảo nhỏ “các chú thật chung
tình”.
Hà Giang là một sinh viên giỏi, được gửi sang
Đông Đức học về Lâm Nghiệp. Sau khi tốt
nghiệp trở về đúng vào lúc đảng Cộng Sản
phát động phong trào “trí thức đi thực tế”,
cô được đưa lên Lào Cai, hướng dẫn
những người dân tộc trồng và bảo vệ rừng.
Mới đến Lào Cai vài tháng, chưa
quen với khí hậu khắc nghiệt và tập quán địa
phương, thì giặc “bành trướng” Trung Quốc tràn
qua biên giới. Rất may mắn, lúc ấy cô đang về
học một lớp chính trị ở Hà Nội, nên thoát nạn
và được Bộ điều vào Thanh Hóa để thành
lập lâm trường mới. Đó chính là
lâm trường mà chúng tôi đang có mặt. Thực ra
đây chỉ là một vùng núi rừng hoang vắng, với
ban điều hành gồm năm người, do cô làm giám
đốc, cơ sở chỉ là hai căn nhà lá, công nhân là
60 thằng tù khổ sai bọn tôi, và dụng cụ chỉ
có toàn dao phát rừng và vài cái cuốc chim!
Một hôm, thấy thấp thoáng một
người đàn ông lạ, chúng tôi hỏi cô. Ngập ngừng một lúc thì cô mới buồn bã
tâm sự. Người đàn ông ấy là một công
nhân máy kéo tiên tiến, đang phục vụ ở một lâm
trường khác, cách nơi này hơn hai mươi cây số,
có nhiều tuổi đảng, được đảng
bộ sắp xếp để lâp gia đình với cô, làm
gương cho kế hoạch “trí thức cùng chung sống
với công nhân” của đảng mới đề ra. Mục đích làm cho đám công nhân ít học, phấn
khởi trước sự ưu ái của đảng,
đem hết sức lực ra phục vụ và trung thành với
đảng. Đây cũng là “phần thưởng”
để cô được bổ nhậm về lâm trường
mới này với chức danh giám đốc!
Chúng tôi ngạc nhiên, vì gã công nhân tiên tiến
này trông lớn hơn cô nhiều tuổi, rổ mặt,
đen đủi, cục mịch. Không có điều
nào hợp với cô con gái có học và dễ thương
này. Cô còn bảo là trong trái tim cô, không hề
có một ngăn nhỏ nào dành cho anh ta, nhưng không dám làm
trái ý đảng, sẽ bị kỷ luật nặng, vì vậy
cô phải gật đầu, nhưng tìm cách trì hoãn đám
cưới được ngày nào hay ngày ấy. Cô nói là cô
đang trong thời kỳ “nín thở qua sông”!
Mặc dù có cảm tình và tội nghiệp cô,
nhưng chúng tôi luôn “đề cao cảnh giác” không dám nói
điều gì. Vì kinh nghiệm cho chúng tôi
biết, Cộng Sản luôn gài nhiều cái bẫy chung
quanh, và chuyện “mỹ nhân kế” không phải bây giờ
mới có. Một hôm, trong lúc ngồi nghỉ trưa,
cô lấy ra từ chiếc bao nhỏ, mời chúng tôi mỗi
người một củ khoai lang luôc, rồi
buột miệng hỏi:
-Nghe nói các anh ở trong trại bị bọn công an hành hạ
dữ lắm phải không?
- Bọn tôi là những người thua trận, thì chuyện
bị tù đày, hành hạ cũng là lẽ thường
tình - Một anh bạn tù trong bọn tôi trả lời.
Cô trầm ngâm giây lát rồi lên tiếng:
- Theo em thì trong cuộc chiến ấy, tất cả chúng
ta, miền Bắc và miền Nam , chẳng có ai chiến
thắng. Chỉ có những kẻ ngu muội,
luôn cúi đầu làm tay sai ngoại bang, mà cứ tưởng
là mình đại thắng, để cầm tù và hành hạ
lẫn nhau thôi. Chỉ trong các nước Cộng Sản mới
có chuyện lạ đời: một lũ
ngu dốt lại được giao trách nhiệm “giáo dục,
cải tạo” những người trí thức, mà đòi hỏi
người ta phải tiến bộ tốt! Khôi hài thật!
Bọn tôi chỉ im lặng. Những lần
nói chuyện sau đó cô thường bảo là cô rất ghê
tởm cái đảng Cộng sản, nhưng muốn chống
lại hay thoát ra, phải trả bằng mạng sống,
có khi làm khốn khổ cho cả gia đình. Điều làm
chúng tôi vui là được lao động
thoải mái, không cần phải đạt một chỉ
tiêu nào, và thường được cô cho bồi dưỡng
bằng khoai, có khi mì sợi. Anh em nào có áo quần dân sự
hay khăn tắm mang theo, Cô nhận mang
đi đổi lấy gạo, đường hay vài loại
thực phẩm khác.
Lâm trường mới khởi công vừa
được hơn ba tuần thì trại tù có lệnh
biên chế. Tôi bị chuyển sang một trại mới,
tiếc nuối những ngày lao động
tương đối thoải mái, hiếm hoi trong gần
bảy năm tù.
2-
Chiều hôm sau, khi dắt con bé cháu nội ra hồ tắm trong khách sạn, tôi bất ngờ gặp Hà Giang và cô con gái Lam Khê. Hai mẹ con đang nằm trên ghế đọc sách. Thấy tôi, Hà Giang ngồi dậy, mời tôi ngồi vào ghế bên cạnh và vui vẻ bảo Lam Khê xuống hồ bơi và chơi đùa với con bé cháu nội của tôi, dặn dò trông chừng con bé, và có nhã ý muốn đến phòng trọ thăm bà xã của tôi.
Chúng tôi mời cơm, nhưng bà từ chối,
chỉ xin uống trà. Khi tách trà vừa cạn, bà
đề nghị chúng tôi cứ gọi bà bằng cô và
đột ngột hỏi tôi:
- Anh còn nhớ anh Đôn không ?
Thấy tôi chau mày, bà nói thêm như để xác định:
- Trần Chánh Đôn!
Tôi hỏi lại:
- Đôn pilot, cùng toán đo đạc với tôi lúc làm việc
với cô ở lâm trường?
Hà Giang gật đầu, không nói. Một
lúc, tôi thấy bà đưa khăn tay lau
nước mắt. Và sau đó, vợ chồng tôi ngồi
nghe tâm sự của bà:
- Anh Đôn đã chết rồi! Tất cả là do lỗi
của em. Chính em đã cung cấp cho anh Đôn thực phẩm,
thuốc men, tấm bản đồ và một chiếc la
bàn, em lấy của lâm trường khi ấy, và chỉ vẽ
cho anh cách thức trốn khỏi lâm trường cùng với
ba người bạn tù khác. Với tấm bản đồ,
cái la bàn và sự hướng dẫn
tường tận của em, em tin chắc là các anh ấy
đã dễ dàng trốn được qua khỏi biên giới.
Không ngờ sau hơn ba tuần, khi em đang
khấp khởi mừng thầm thì được tin tất
cả đều bị bắt tại Lào. Em như muốn
quỵ xuống, mất ăn mất ngủ, nhưng
cũng cố giữ bình tĩnh tìm cách hỏi một số
cán bộ công an trại giam. Họ cho biết
là tất cả bốn anh đều bị công an bắn chết trên đường dẫn
độ từ Lào về trại, bởi các anh đã chống
cự để tìm cách thoát thân. Mặc dù tin tưởng
vào thái độ kiên cường và tư cách của các anh,
dù có tra tấn thế nào các anh cũng sẽ không khai ra sự
tiếp tay trợ giúp của em, nhưng em vẫn lo sợ
bị liên lụy, nếu họ phát hiện tấm bản
đồ và cái la bàn của lâm trường thì hậu quả
khôn lường, nên em đã khẩn trương chạy về
Bộ, năn nỉ và hối lộ tất cả số
tiền dành dụm để ông Thứ Trưởng cho em
được trở lại Đông Đức hai tuần,
đệ trình cho trường đại học cũ một
số nghiên cứu mà em vừa viết xong, sau hơn một
năm tốt nghiệp và ra thực tế ngoài lâm trường.
May mắn em được ông ta gật đầu,
và liên lạc can thiệp bên tòa đại sứ Đức
cấp visa sớm. Chỉ hơn mười
ngày là em rời khỏi nước. Tất
nhiên đó chỉ là cái cớ. Sau khi sang Đức,
em trốn lại ở nhà vợ chồng người bạn
Đức mà em quen thân lúc còn học ở đây. Ông chồng em mà anh chị gặp tối hôm qua
trong quán ăn, là anh ruột của cô bạn thân này. Anh ấy đã hết lòng lo lắng và chở che
em.
Rời khỏi Việt Nam ,
ngoài quê hương và gia đình, em còn mang theo
hình ảnh của anh Đôn. Xin anh chị đừng ngạc
nhiên, em yêu anh ấy! Ngoài sự hiểu biết, đẹp
trai với nụ cười độ lượng, em còn
nhìn thấy bên trong của anh Đôn là sự thủy chung
và lòng tự trong, có cả một chút nghệ sĩ lãng mạn
nữa. Thời gian làm việc bên nhau, trong khu núi rừng Lam
Khê ấy, em đã học được ở anh rất
nhiều điều hay, nghe anh hát những bản tình ca,
đọc những bài thơ lãng mạn, tuyệt vời.
Trái tim em lần đầu tiên biết
rung động. Tội nghiệp, em yêu anh
Đôn trong một hoàn cảnh quá nghiệt ngã. Điều duy nhất mà em có thể làm được
cho người yêu của mình là giúp anh trốn trại, vượt
ra khỏi khung cảnh đày ải man rợ, để
anh ấy luôn được xứng đáng với những
điều anh đang có. Vì chính những điều ấy
đã làm cho trái tim em rung động,
để em biết thế nào là một tình yêu, mà nếu
không gặp anh ấy, có lẽ suốt cả đời em
không có được. Quan trọng hơn, đó lại là
thứ vũ khí tốt nhất, hiệu quả nhất
giúp em đủ can đảm và nghị lực để
chống lại số phận, mà trước đó em
nghĩ là sẽ tới một ngày em sẽ phải
đầu hàng, buông xuôi, bất lực.
Hà Giang ngưng lại, lau tiếp những giọt
nước mắt chảy dài trên gò má. Tôi
rót thêm trà mời cô.
Bà xã tôi hỏi:
- Cô có giữ tấm ảnh nào của anh Đôn?
- Tiếc là khi ấy anh Đôn không có tấm ảnh nào hết.
Anh có cho em địa chỉ của bố mẹ anh ở
thành phố Nha Trang, nhưng em gởi mấy cái thư về địa chỉ ấy đều
bị trả lại, với lý do: người nhận
không còn ở tại địa chỉ này. Nghe
nói bố mẹ anh đều là thầy giáo, không biết
có bị đi vùng kinh tế mới hay không?
Tôi đưa tay ngăn lời cô:
- Cô còn nhớ địa chỉ ấy không? Chúng
tôi cũng đều là người gốc Nha Trang. Tôi có thể hỏi thăm tin tức cho cô. Nhân tiện chúng tôi cũng muốn biếu cha mẹ
anh ít tiền, vì Đôn cũng là bạn tù của tôi.
Hà Giang chau mày:
- Lâu quá, nên em quên, nhưng có thể em còn giữ ở
nhà. Em xin địa chỉ e-mail để gởi đến
anh chị, nếu em tìm lại được. Em thiết tha muốn gặp bố mẹ anh
Đôn, nếu các người còn sống.
Thực ra chuyện Hà Giang yêu Đôn, cũng
chẳng làm tôi ngạc nhiên nhiều lắm. Đúng
như Hà Giang nói: Đôn là một phi công trẻ. Bao nhiêu năm trong cảnh khốn cùng, đã không
làm mất đi nét đẹp trai, tính nghệ sĩ và
tư cách của Đôn. Bạn tù ai
cũng quí mến. Chuyện Đôn cùng ba người
bạn tù khác trốn trại, khi tôi đã bị chuyển
đi trại khác hơn tám tháng, sau này ra hải ngoại,
tôi có nghe đám bạn bè kể lại, nhưng mỗi
người mỗi cách.
Chỉ hơn một tuần về lại nhà, sau kỳ
nghỉ hè khá thú vị, nhất là bất ngờ gặp lại
Hà Giang, hồi tưởng lại một thời tù
đày, tôi nhận được e-mail của Hà Giang gởi
thăm, có ghi địa chỉ của ông bà Trần Chánh
Nghị, cha mẹ Đôn, ở Nha Trang.
Tôi viết thư nhờ người bạn
thân còn ở lại Nha Trang, tìm đến địa chỉ
nhà Đôn mà Hà Giang vừa mới cho. Tôi
cũng cho anh bạn biết là gia đình Đôn đã dọn
đi nơi khác, nhưng từ đó hỏi thăm biết
đâu có thể tìm ra manh mối.
Sau gần hai tháng, tôi nhận được thư
hồi âm của người bạn cũ. Một đoạn
trong thư làm tôi bất ngờ, nhưng sáng lên hy vọng:
“Đúng như mày viết, gia đình người này đã
dọn đi khá lâu rồi. Nhưng có người
láng giềng cho biết là ông bà chủ nhà đã qua đời
hơn hai mươi năm nay. Ông bà chỉ có người
con trai duy nhất bị tàn tật,
hình như là đang đi tu ở một ngôi chùa nào đó.
Tao dò tìm khắp nơi theo lời kể
khá mơ hồ của những người hàng xóm, đến
nay vẫn chưa gặp được...“
Tôi đọc đi đọc lại dòng chữ “Ông bà chỉ
có người con trai duy nhất“, rồi chạy ra ngân hàng
gởi một ít tiền cho người bạn, kèm theo lời nhắn: Mày cố gắng mọi
cách tìm gặp người con trai này, và hỏi có phải
tên là Trần Chánh Đôn. Có gì ra bưu điện
gọi điện thoại cho tao biết.
Tôi nôn nao chờ đợi, bỗng một
hôm, lúc nửa đêm, điện thoại reo. Bốc ống
nghe lên, tôi vui mừng và hồi họp khi nghe tiếng của
người bạn từ Việt Nam :
“Tao đã tìm được anh ta. Đúng là Trần
Chánh Đôn. Bây giờ là đại đức
Thích Thiện Hòa. Anh đang tu ở một ngôi chùa nhỏ,
nằm dưới triền núi, phía trên đèo Ngoạn Mục,
đèo Bellevue đó, thuộc quận Đơn
Dương, cách Đà Lạt gần bốn mươi cây
số. Chùa do người bác ruột xây dựng và làm trụ
trì. Tội nghiệp, ông Thiện Hòa bị mù
một con mắt và què cả hai chân, nhưng khuôn mặt trông
đẹp và phúc hậu lắm. Tao nghĩ là ông không
bao giờ rời khỏi chùa, vì từ dưới chân núi
đi lên, tao đếm hơn năm mươi bậc tam
cấp.“
Tôi viết e-mail cho Hà Giang, báo cho cô cái tin bất ngờ này.
Đắn đo mãi, cuối cùng mới quyết định
nói thật mọi điều. Nhớ lại
nhiều lần cô lau nước mắt khi kể về
Đôn với vợ chồng tôi ở Mallorca ,
tôi nghĩ là cô sẽ đau lòng lắm khi nhận
được tin này.
Sáng hôm sau tôi nhận e-mail hồi âm của Hà Giang:
“Anh Chị
ơi.
Em đã khóc hết nước mắt khi nhận
được tin anh Đôn. Suốt cả
đêm hôm qua em không thể nào chợp mắt. Em phải xin nghỉ làm hôm nay, và bây giờ lòng dạ
cứ thẫn thờ. Không thể ngờ
là anh Đôn vẫn còn sống. Em vừa
mừng nhưng cũng vừa đau lòng lắm, khi biết
anh đã bị mù một mắt và tàn phế cả đôi
chân.
Suy nghĩ mãi, em mới dám nói ra điều
này với anh chị, vì anh cũng là bạn của anh
Đôn và với em như là một người anh, người
chú.
- Cháu Lam Khê, đứa con gái mà anh chị đã gặp ở
Mallorca , chính là giọt máu của
anh Đôn. Trước ngày chia tay, để anh ra đi,
chúng em có đôi ngày hạnh phúc ngắn ngủi trong rừng,
em tự nguyện dâng hiến cho anh, thay cho lời hẹn
ước, là dù góc biển chân trời nào, dù có phải trải
qua bao nhiêu giông bão, chúng em cũng sẽ tìm gặp để
đoàn viên. Nhưng rồi ông trời đã hại
em, vì em cứ đinh ninh là anh ấy đã chết.
Để tang cho anh đến sáu năm, em mới lấy
ông chồng này, đền đáp lòng yêu thương và
cưu mang đùm bọc của ông khi em thân cô trôi dạt xứ
người. Bây giờ biết được
anh Đôn còn sống, nhưng đã trở thành một vị
đại đức, em vừa hối hận vừa băn
khoăn, không biết phải làm sao. Em
tha thiết xin anh chị cho em một lời khuyên, để
em biết mình sẽ phải làm gì. Bây giờ
chắc anh ấy chẳng cần một sự giúp đỡ
vật chất nào, nhưng còn Lam Khê, dù sao nó cũng l giọt
máu của anh. Làm thế nào để cha con nhận ra
nhau? Lam Khê cũng nghĩ là ba nó đã chết. Thỉnh thoảng cháu hỏi em về ba nó.
Cháu thương và hãnh diện về ba cháu lắm.“
3-
Cuối cùng, vợ chồng tôi bàn tính mãi nhưng cũng không tìm ra một lời khuyên nào để giúp Hà Giang, ngoài việc hỏi cô nếu muốn gặp Đôn, vợ tôi có thể giúp cô, cùng về Việt Nam, vì vợ tôi sống ở Nha Trang khá lâu, lại có thằng bạn thân ở đó, biết rõ đường đi đến vùng núi Đơn Dương, Đà Lạt, nơi có ngôi chùa.
Không ngờ Hà Giang mừng rỡ đón nhận
đề nghị này, và xin vợ tôi về Việt Nam ngay trong tuần để đón
giùm mẹ con cô tại phi trường Tân Sơn Nhất.
Đây là lần đầu tiên cô bước chân đến
miền Nam Việt Nam .
Số chuyến bay và giờ đến phi trường, cô
sẽ cho biết sớm.
Và dưới đây là lời kể của vợ tôi, về
cuộc trùng phùng:
...Họ gặp nhau và nhận ra nhau. Mới
đầu, Hà Giang ôm chầm lấy Đôn mà khóc nức nở.
Cô quên mất anh đang là một vị thầy tu. Xúc động nhất là khi Hà Giang cho anh
biết Lam Khê chính là con của anh. Hai cha con họ ôm lấy
nhau thật lâu và cả hai đầm đìa nước mắt.
Thầy đem cả triết lý đời và đạo
để an ủi, khuyến khích và hướng dẫn Lam
Khê bước đi trong cuộc sống có quá nhiều muộn
phiền và bất trắc. Thầy nói thật hay và cảm
động.
Thầy kể lại chuyện trốn tù, lý do vì sao bị bắt, chuyện thầy bị đánh vỡ một con mắt và bị bắn nát hai bàn chân chỉ vì thầy nhất định không khai người nào đã giúp thầy cùng ba người bạn tù trốn trại một cách tài tình mà chúng nghi ngờ, mặc dù thầy đã kịp giấu tấm bản đồ và cái la bàn dưới một tảng đá trước khi bị bắt. Họ không đưa về trại cũ mà giao cho một trại tù khác. Bị biệt giam ở đây đến mấy năm mà thầy chẳng biết vì sao không chết. Hà Giang ngồi khóc nức nở.
Sau khi mọi người tìm lại được sự
bình tĩnh, Hà Giang xin cúng dường cho chùa một số
hiện kim, nhưng thầy Thiện Hòa
từ chối, bảo là nhà chùa không cần một số
tiền lớn như vậy. Hà Giang tha thiết xin
được đưa thầy đi sang Đức làm
đôi chân giả và thay con mắt mù lòa, thầy cũng chối
từ, bảo thầy đã quen rồi với những mất
mát ấy, hơn nữa bây giờ thầy đã tu hành,
năm tháng chỉ quanh quẩn trong chùa, không cần thiết
phải đi đó đi đây. Thầy có mở
một lớp học dạy các em học sinh nghèo hiếu
học trong vùng, nhưng phòng học là gian nhà trống vách
ngay phía sau chùa.
Đêm cuối cùng ở Nha Trang, Hà Giang quyết
định đổi vé máy bay, ở lại một thời
gian nữa. Cô cho biết là mẹ con cô sẽ cố gắng
thuyết phục Đôn, để mua cho anh cái xe lăn,
xin được xây lại ngôi chùa mới, thay những bậc
tam cấp bằng con đường lát đá, đặc
biệt phía sau chùa, từ gian phòng Thầy dạy học
nhìn ra, đã có sẵn khu rừng với ít hoa dã quỳ, cô
sẽ cho sửa sang lại thành một khu vườn
đẹp đẽ, trồng thêm hoa, làm suối nước,
và xin đặt tên là Lam Khê Viên, vì chữ Lam nghe cũng hợp
với khung cảnh chùa chiền...
Khi ngồi viết những dòng này, tôi không biết là những
điều mong ước của Hà Giang có được
thầy Thích Thiện Hòa chấp nhận hay không, và cuộc
tình đẹp và bi tráng này có còn sống mãi trong lòng mỗi
người cho đến thiên thu.
Phạm Tín An Ninh
A-Kim ơi!... Phạm Tín An-Ninh cũng là AET, lớp đàn anh của Hia.
ReplyDeleteCám ơn em đã post.
Hồ Hương Soái.
Vậy hả Tùa Hia? Cám ơn Hồ Hương soái đã ghé thăm tệ xá và để lại vài chữ.
ReplyDeleteTiếc rằng muội muội đi vắng nên lỡ cơ hội mời bia. Hì hì :)
A-Kim muội muội.
Cảm động quá. Mối tình thủy chung
ReplyDelete