Trong một tập tài liệu ấn hành vào năm 2000, mang tựa đề “The State of the World’s Refugees 2000, 50 years of Humanitarian Action,”
viết về tình trạng tị nạn thế giới, để đánh dấu 50 năm hoạt động nhân
đạo của Liên Hiệp Quốc, Bà Sadako Ogata, Cao Ủy Trưởng Tị Nạn Liên Hiệp
Quốc, đã nói về lòng can trường của hàng triệu người tị nạn và lánh nạn
trên thế giới đã mất tất cả, ngoại trừ niềm hy vọng, và đã vượt qua biết
bao thử thách và chông gai để đi tìm con đường sống. Bà Ogata đã tuyên
dương những người này là “Những người sống sót vĩ đại của Thế Kỷ 20”. Cuốn sách cho biết:
“Ngay
từ cuối năm 1975, những đợt người tị nạn Việt Nam đã bắt đầu đến lánh
nạn tại các nước lân bang. Vào những ngày đó, Thái Lan đã đón nhận 5.000
người tỵ nạn từ Việt Nam qua, tại Hồng Kông cũng đã có 4.000 tị nạn,
Tân Gia Ba 1.800 người, và có khoảng 1.250 người cũng đã đến Phi Luật
Tân. Vào tháng 7 năm 1976, khi chế độ Hà Nội loại trừ bộ máy quản chế
miền Nam của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam để thực hiện việc
thống nhất hai miền, cưỡng chế người dân đi vùng kinh tế mới, và tập
trung trên một triệu người miền Nam vào các trại tù cải tạo, những làn
sóng di tản bằng đường biển bắt đầu gia tăng. Và đến cuối năm 1977, đã
có trên 15.000 người Việt sang tị nạn tại các nước trong vùng Đông Nam
Á. Cho đến năm 1978, khi nhà cầm quyền Cộng Sản phát động chính sách cải
tạo tư sản, và tiếp theo đó là việc xua quân xâm chiếm Cam Bốt, và phải
đương đầu với cuộc chiến biên giới với Trung Quốc, làn sóng tị nạn bằng
đường biển đã tăng lên gấp bốn lần, với đa số người ra đi thuộc khối
người Việt gốc Hoa, để sau đó được đưa sang định cư tại các tỉnh phía
Nam Trung Quốc.
Vào
cuối năm 1978, đã có 62.000 thuyền nhân người Việt tị nạn tại các nước
Đông Nam Á. Riêng trong tháng 6 năm 1979, đã có trên 54.000 thuyền nhân
Việt Nam đến tị nạn tại các nước nói trên. Những làn sóng tị nạn này đã
khiến cho các nước trong khối Đông Nam Á, như Mã Lai Á, Thái Lan, Phi
Luật Tân, Tân Gia Ba và Nam Dương tuyên bố không nhận thêm người tị nạn
từ Việt Nam, khiến cho những đợt thuyền nhân đến sau đã bị xua đuổi cấm
không cho lên bờ. Cũng kể từ đó, con số thuyền nhân tử vong trên biển cả
cũng đã gia tăng.
Sau
những cuộc hành trình hãi hùng lênh đênh trên đại dương, một số thuyền
nhân cũng đã đến được bến bờ tạm dụng. Những lớp người này đã đem cho
thế giới bên ngoài những mẫu chuyện về người cha, người mẹ, đã phải chia
nhau những hạt cơm rơi từ miệng những đứa con; đến chuyện chia nhau
từng giọt nước quý hơn vàng được vắt ra từ miếng vải thấm mưa, để đánh
lừa những cơn đói khát triền miên. Hay là những chuyện thương tâm về
người chết đã cứu được người sống với thịt máu của chính mình. Hoặc nữa
là những chuyện nói nhỏ, kể về những trường hợp phải đương đầu với hải
tặc. Ngoài những mối đe dọa do sự đầy đọa của con người đối với con
người, những thuyền nhân này còn phải đương đầu với những cơn thịnh nộ
của thiên nhiên. Những cơn phong ba bão táp đã khiến cho không biết bao
nhiêu thuyền nhân làm mồi cho biển cả. Không ai dám phỏng đoán với mỗi
người có cơ may đặt chân lên bến bờ tự do, đã có bao nhiêu người hy sinh
trên đại dương.
Cuối
cùng, làn sóng người tị nạn Việt Nam bằng đường biển đã viết lên thiên
bi sử của thuyền nhân, và những câu chuyện hãi hùng của các cuộc vượt
biển của người tị nạn Việt Nam đã đánh động được lương tâm thế giới. Vào
tháng Ba 1979, chương trình Ra Đi Có Trật Tự ra đời để cố gắng ngăn
chặn những làn sóng vượt biển. Ngoài ra, cũng vào thời gian này, các
chương trình cứu người vượt biển đã được một số tổ chức thiện nguyện
quốc tế phát động hai chiếc tầu cứu vớt thuyền nhân ngoài biển là Anamur
do một tổ chức từ thiện Đức Quốc vận động vào năm 1979 L’Ile de Lumière
của tổ chức từ thiện Pháp Médecins du Monde điều hành vào năm 1980 đã
cứu mạng được nhiều thuyền nhân Việt Nam lênh đênh ngoài biển cả trong
khoảng thời gian từ 1979 cho đến 1990.”.
Vậy đâu là lý do đưa đến những thảm cảnh này ?
Ngoài
việc trả thù những người cán chính VNCH trong những trại tù cải tạo
khổng lồ hoặc giết hại vô tội vạ bằng những tòa án vô luân thì CSVN còn
trả thù người dân hay nói chính xác là cướp của dân. Cho nên mới có thảm
trạng mà tài liệu LHQ đã viết nêu trên. Có thể kể đến vài ví dụ tiêu
biểu về sự ác độc của đảng CSVN.
- Đỗ
Mười đọc Quyết định của Thủ tướng, đọc Chỉ thị 100 – CP, và triển khai
kế hoạch cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh tại thành phố Sài
Gòn (đã bị đổi tên thành Tp. HCM) và các tỉnh phía Nam. Đỗ Mười nói:
“Từ
sau giải phóng chúng ta đã thực hiện X-1, tập trung bọn ngụy quân, ngụy
quyền học tập cải tạo. Đã thực hiện X-2 đánh bọn tư sản mại bản. Bây
giờ chiến dịch X-3, quyết liệt nhất, nhằm tiêu diệt tận gốc rễ chủ nghĩa
tư bản, tay sai đế quốc Mỹ… Đánh rắn phải đánh dập đầu, ta đã đánh dập
đầu rồi, nhưng con rắn tư bản đánh dập đầu nó chưa chế, cái đuôi nó còn
nguy hiểm hơn cái đầu. Không giần cho nát cái đuôi của nó, thì nó vẫn
tác oai tác quái phá chúng ta… Cho nên chúng ta phải róc thịt chúng ra.
Bắt chúng lao động sản xuất, tự làm lấy mà ăn. Phải biết cày ruộng, cấy
lúa, trồng ngô. Đất hoang còn nhiều, bắt chúng đổ mồ hôi sôi nước mắt
kiếm miếng ăn …”
Đỗ Mười kết thúc buổi triển khai chiến dịch X-3, bằng một mấy cái chém tay như có ‘thượng phương bảo kiếm:
“Anh nào, chị nào nhụt ít chí thì lui ra một bên. Kẻ nào tỏ ra nhân
nhượng với bọn tư sản là phản bội giai cấp, không phải Bôn – sê- vích,
có tội với đảng với dân, sẽ bị trừng trị!”.
- Trong văn kiện đại hội đảng năm 1979 chính Thọ đã khẳng định: “Với
đường lối đúng đắn của bộ chính trị và toàn đảng, chúng ta đã quét sạch
được lũ tư bản mại bản và lấy lại những gì của chúng…”.
- Phạm Văn Đồng thì nói thẳng với báo chí phương Tây và nói rằng những người vượt biên là “Thành phần đĩ điếm, xì ke, trộm cướp chạy theo tàn dư Mỹ Nguỵ”.
Vậy
những ai còn nhớ ? Ai đã quên ? Ai đã chạy ra đi để rồi hôm nay hằng
năm về VN ăn chơi, hưởng lạc mà thật ra là góp sức cho CSVN tồn tại lâu
dài.
Buồn cho quê hương VN….
FB Đặng Chí Hùng
30/01/2017
30/01/2017
Là người tỵ nạn cộng sản, tôi không bao giờ quên được những ngày sống chật hẹp như cá mòi trên con tàu vượt biên, Tôi cũng không bao giờ quên ai đã gây ra tội ác này, chính bọn cộng sản VN khát máu đã hủy diệt dân tộc và làm tay sai cho tàu cộng. Tôi cũng không bao giờ tiếp tay cho bọn cộng sản VN chỉ vì lợi ích cá nhân nhỏ nhoi.
ReplyDeleteNhững biến cố xảy ra sau ngày miền Nam mất nước cũng như làn sóng tỵ nạn cộng sản là 1 chương lịch sử đau thương và u ám không bao giờ có thể xóa nhoà trong tâm khảm của người Việt tỵ nạn.
ReplyDeleteCó lẽ chỉ có những ai đã liều chết trên bước đường vượt biên tìm sự sống mới thấu hiểu cái giá trị của tự do.
Con cháu những người Việt tỵ nạn câǹ được giáo dục hướng dẫn để không bao giờ quên đi nguồn gốc tỵ nạn của mình.
Tôi tự hào là người Việt tỵ nạn và không đánh mất đi bản sắc của mình.