Người dân miền Nam trốn chạy CS tháng 4/1975. Ảnh: internet
Từ những cửa biển Đà Nẵng, Sài Gòn, Vũng Tàu, Cam
Ranh, Nha Trang sau những ngày tháng Tư, mùa bão lửa, năm 1975. Mẹ lạc cha. Vợ
xa chồng. Anh mất em. Những đứa bé bị bỏ quên đứng khóc trên đường phố. Những
chuyến hải hành vô định trên biển Đông trùng trùng gió bão. Đói khát. Lo âu. Bà
mẹ quỳ lạy những tên hải tặc để xin tha cho đứa con gái chỉ mười lăm tuổi ốm o
bịnh hoạn của bà. Nước mắt và những lời van xin của mẹ không lay động tâm hồn
của những con người không còn một chút lương tri. Tiếng niệm Phật. Lời cầu
kinh. Không ai nghe. Không có Chúa và không có Phật. Ở đó, trên bãi san hô của
đảo Koh Kra, phía nam vịnh Thái Lan, chỉ có những thân thể trần truồng, máu me
nhầy nhụa, chỉ có tiếng rên của những con chim nhỏ Việt Nam bất hạnh và giọng
cười man rợ của bầy ác điểu Thái Lan.
Bắt đầu từ đó.
Từ trại tỵ nạn Camp Pendleton, , Palawan, Laem Sing,
Pulau Bidong, Sungai Besi, Bataan, Whitehead, Phanat Nikhom, Galang. Những địa
danh xa lạ đã trở nên thân thiết. Ngửa tay cầm chén gạo tình người. Thank you,
merci, danke, gracias. Tuổi hai mươi, ba mươi, và ngay cả năm mươi, bảy mươi
mới bắt đầu tập nói. Những câu tiếng Anh bập bẹ, những dòng chữ Pháp, Đức, Tây
Ban Nha ngập ngừng.
Bắt đầu từ đó.
Từ những buổi chiều âm thầm nhìn qua bên kia biển, anh
tự hỏi, phải chăng chấm đen cuối chân trời đó là quê hương. Cành hoa hồng được
thả trôi trên biển để nhớ nhau trong ngày cưới. Con búp-bê được nhẹ nhàng đặt
trên mặt nước xanh trong ngày sinh nhật của con. Vợ đã chết và con đã chết
trong một lần vượt biển sau anh.
Bắt đầu từ đó.
Từ đêm giao thừa đầu tiên. Không bánh chưng xanh.
Không rượu nồng pháo nổ. Không một lời chúc tụng của bà con. Chỉ có tiếng hú
của cơn bão tuyết dội vào khung cửa kính. Hai ngọn nến nhỏ, một bó hương thơm
và những giọt nước mắt nhỏ xuống trong đêm giao thừa cô độc. Em bé mười ba tuổi
lần đầu tiên tập cúng mẹ mình. Cúng về đâu và lạy về đâu. Trong lòng Biển Đông
sâu thẳm, mẹ có còn nghe được tiếng khóc của đứa con đang lạc loài trên đất lạ.
Bắt đầu từ đó.
Từ hành lang phi trường Tân Sơn Nhất, người lính già
HO gạt nước mắt chào tạm biệt thân nhân, tạm biệt quê hương, nơi một lần máu
mình đã đổ. Ra đi, mang theo những tên tuổi, những địa danh đã hằn sâu trong ký
ức. Ra đi, để lại sau lưng tuổi thanh niên trong ngục tù xiềng xích. Ra đi, để
lại bao đồng đội, chiến hữu, anh em đang tiếp tục đếm những ngày dài bất hạnh
trên quê hương.
Bắt đầu từ đó.
Tiếng guốc không còn khua trên đường phố. Hàng cây sao
đã héo. Hàng me xanh đã tàn. Hàng phượng vĩ không còn đỏ thắm. Những trụ đèn
khuya trước cổng trường không còn ai đứng đợi. Những ô cửa của lớp học và của
đời người đã đóng. Và cả một quê hương thân yêu cũng chừng như đã chết.
Ra đi.
Ra đi.
Và từ đó chúng ta đi. Cảnh đời tuy có khác nhau. Tuổi
tác tuy có khác nhau. Thời điểm tuy có khác nhau. Nhưng chúng ta, những người
Việt Nam may mắn còn sống sót, cùng mang một nỗi đau chung: nỗi đau Việt Nam.
Nỗi đau lớn dần theo mỗi ngày biệt xứ. Nước mắt của
những bà mẹ Việt Nam khắp ba miền góp lại chắc đã nhiều hơn nước sông Hồng.
Xương trắng của cha anh nếu chất lại chắc đã dài và cao hơn cả dãy Trường Sơn.
Hôm nay, cơn bão lửa dù chưa qua hết nhưng với ý chí
vươn lên, những người Việt Nam may mắn còn sống sót, thay vì ngồi thở ngắn than
dài cho số phận, đã dìu nhau đứng dậy, dìu nhau đi lên, sống một cuộc sống tích
cực, làm những công việc tích cực cho bản thân, cho gia đình, cho đất nước. Nhờ
thế, sau đêm tối trời của vận nước và đời mình, đa số chúng ta đã tìm được một
cành mai hy vọng ở xứ người. Để từ đó làm điểm khởi hành lên đường đi dựng lại
Mùa Xuân Dân Tộc.
Hôm nay, đau buồn vẫn chưa nguôi nhưng sức sống không
phải vì thế mà ngừng lại. Những thuyền nhân tí hon trên những chiếc ghe bằng gỗ
mong manh ngày xưa bây giờ đã lớn. Các em đã thành những kỹ sư, bác sĩ tài ba,
những khoa học gia lỗi lạc trong nhiều ngành. Ai đã dạy em nên người? Cha mẹ.
Vâng. Thầy cô. Vâng. Nhưng còn hơn thế nữa, còn từ trong dòng máu Việt Nam.
Hôm nay, những con nước nhỏ dưới chân cầu đã trôi ra
biển rộng. Nhưng không phải vì thế mà tan loãng trong đại dương bát ngát như
hàng triệu con nước khác. Trái lại, những giọt nước từ sông Hồng, sông Hương,
sông Ba, Thu Bồn, Trà Khúc, Cửu Long, Vàm Cỏ, vẫn hẹn một ngày bốc thành hơi,
bay về tưới mát ruộng đồng xứ Việt thân yêu đã nhiều năm đại hạn.
Tất cả, một ngày không xa sẽ rơi vào quên lãng, sẽ tan
biến đi theo chu kỳ sinh, trụ, dị, diệt của nhân sinh. Không quan trọng. Điều
quan trọng, trong giờ phút còn có mặt, còn được góp phần, xin làm một que củi
nhỏ để ngọn lửa hy vọng, tình người, tình đất nước, trong lòng mỗi chúng ta,
đừng tắt.
Cám ơn.
Trần Trung Đạo
No comments:
Post a Comment