Tác giả Võ Quách Thị Tường Vi.
Tôi là người hành khách phút cuối của chuyến máy bay Singapore Airline
#1490 với hành trình qua ngả Moscow, Singapore, rồi Tân Sơn Nhất. Cửa
phi cơ đóng lại ngay sau khi tôi vào.
Đây là chuyến bay đưa phái
đoàn của trường đại học nơi tôi giảng dạy đi Sài Gòn. Đoàn gồm 33 giáo
sư và sinh viên do tôi hướng dẫn, có nhiệm vụ thực hiện một chương trình
y tế và văn hoá giữa trường chúng tôi và một số đại học bên Việt Nam.
Sau
cả tuần căng thẳng vì lo liệu đủ thứ, đã tưởng không thể bay, ngày chót
khi cố thu xếp mọi việc để tiếp tục chuyến đi, vào được ghế của mình,
tôi lả người mệt muốn ngất đi được. Thò tay vào giỏ xách tôi lấy ra chai
dầu gió xanh, nhón ngón tay trỏ vào đầu chai, chấm chút dầu xoa vào hai
bên thái dương.
Chỉ trong chốc lát, dường như cơn mệt mỏi dịu
dần. Thật cảm ơn chai dầu gió xanh này. Nó và tôi, như “đôi bạn” thân
thiết, bao năm qua luôn ở bên cạnh nhau. Lần này, chúng tôi cùng bay về
quê xưa, mùi dầu xanh quen thuộc nhắc nhớ bao chuyện cũ.
Mẹ tôi
mất khi tôi vừa 16 tuổi, tuổi đẹp nhất của thời con gái. Tôi nhớ rất rõ
nhà tôi lúc ấy ở gần phi trường quân sự Biên Hoà, đêm đêm tiếng bom đạn
pháo kích nghe rất gần. Ban đầu rất sợ, tôi đã tung mền và trốn
dưới...gầm giường, tự làm mồi cho muỗi đói mà không hiểu là mấy tấm vạt
giường mỏng manh đó làm sao mà đỡ nổi bom đạn. Riết rồi cũng quen, mỗi
lần nghe pháo kích, tôi không núp gầm giường nữa mà tỉnh bơ nằm ngủ. Con
người ai cũng có số, nếu tới số chết thì ở đâu cũng chết... Thời ấy,
tôi đã thầm biện hộ cho cái tính làm biếng của mình như thế.
Một
đêm kia, đang ngủ mê, tôi thình lình bật dậy vì một thứ âm thanh khủng
khiếp. Tai ù đặc không thể phân biệt được. Mắt vừa mở thì trời ơi, thấy
cả bầu trời xanh lè đang chụp xuống. Mái nhà, những bức tường đã bay đâu
cả rồi.
Dần dà, tôi nhận ra tiếng la khóc chung quanh. Nghe thì
mơ hồ như từ cõi nào, nhưng nhìn thì hiện ngay trước mắt: Ba tôi đang
ôm mẹ tôi, máu tuôn xối xả từ người mẹ. Tôi không biết mình đang ở đâu.
Mãi lát sau mới nhận ra cái tủ đựng đồ ăn gãy hết hai chân đứng chỏng
chơ. Thì ra chúng tôi đang trên nền cũ của nhà bếp, chính giữa là một
cái hố sâu, khói bụi đang bốc hơi. Bên miệng hố, con chó Tô Tô của tôi,
mình mẩy đẫm máu, đang rên rỉ. Con chó Ki Ki thì lẩn quẩn kế bên, miệng
gầm gừ thảm thiết. Đây là cặp chó mà ba tôi đã xin về nuôi được chừng 2
năm rồi.
Có cái gì ướt trên mặt tôi. Đưa tay lên vuốt mặt, thấy
bàn tay toàn là máu. Thì ra tôi cũng đã bị thương trên trán và cả ngôi
nhà gia đình đã trúng đạn pháo kích.
Sau đó, mẹ tôi được đưa khẩn
cấp vào nhà thương Biên Hoa. Hai tuần sau, vết thương biến chứng sao
đó, phải chuyển gấp lên nhà thương Cơ Đốc ở Phú Nhuận, Sài Gòn. Tôi ở
lại trong nhà thương Cơ Đốc với mẹ nhiều ngày. Tại đây, tôi có dịp tiếp
xúc với các y tá điều dưỡng và các vị bác sĩ hằng ngày đến chăm sóc cho
mẹ, và bắt đầu cảm tình với ngành y từ đó.
Nhờ sự chạy chữa tận
tậm của bệnh viện, thương thế mẹ tôi rồi cũng ổn định dần, nhưng từ khi
rời bệnh viên về nhà, bà không còn khoẻ mạnh như xưa. Bà hay đau lưng,
nhức mỏi, không còn sức làm việc như lúc chưa bị thương. Rõ ràng là mẹ
ngày một suy yếu hơn. Dù đầu óc còn non nớt, tự tôi cũng thấy được điều
này.
Thời ấy, trong túi áo bà ba của mẹ tôi lúc nào cũng có một
chai dầu gió xanh mà bà thường lấy ra để xoa hay ngửi. Tôi cũng đã nhiều
lần tự hỏi là dầu này có công hiệu hay không, vì chị em tôi ai nấy đều
“sợ” bị bôi thứ dầu này. Khi chúng tôi bị sổ mũi nhức đầu, mẹ đều bắt
chị em tôi phải bôi dầu hay cạo gió. Trời ơi, mỗi lần thấy mẹ tôi với
chai dầu “mắc dịch” này chị em tôi đều chạy trốn, mặc cho bà phải kêu
tên từng đứa dỗ dành.
Rồi đến một ngày không bao giờ tôi quên.
Hôm đó mẹ tôi rất mệt. Khuôn mặt xanh xao, giọng nói yếu ớt, mẹ sai tôi
đi chợ, mua thức ăn rau cải và dặn thêm: nhớ ghé qua hàng thuốc mua cho
mẹ chai dầu xanh, vì chai dầu mẹ đang dùng gần cạn.
Tôi tung
tăng đi chợ mua thức ăn như lời mẹ dặn. Trên đường về đầu óc tôi sao vẫn
băn khoăn giống như mình đã quên một chuyện gì quan trọng. Cá cơm kho
tiêu, canh cải bẹ xanh nấu tôm, rau muống xào, chuối tráng miệng... Đủ
hết. Đâu còn thiếu món gì. Mãi tới khi về đến gần nhà, băng qua cầu Đúc,
tôi mới đứng khựng lại vì chợt nhớ ra lời mẹ dặn thêm là mua chai dầu
xanh cho mẹ. Tôi lật đật vòng lại, đi lên chợ để mua chai dầu. Đường lên
chợ sao bây giờ thấy quá xa, tôi chạy hoài không tới...
Rồi sau
cùng tôi cũng về đến nhà, nhưng sao nhà tôi lại đông người như vậy? Các
cô bác láng giềng đang bu quanh ba tôi. Thấy tôi vào nhà, các em chạy
lại nắm tay tôi và khóc. Ba tôi ôm tôi, nói trong tiếng nấc: má con đã
chết rồi...Tôi sững sờ nhìn chai dầu xanh mà tôi đang nắm chặt trong
tay. Tôi đã về muộn rồi. Mẹ tôi năm ấy chỉ có 38 tuổi.
Ít ngày
sau khi mẹ qua đời, con chó Tô Tô vốn thường luẩn quẩn bên chân Mẹ, cùng
bị thương trong trận pháo kích, cũng chết theo. Em tôi tìm thấy nó bỏ
ăn, mãi nằm bên gốc cây măng cụt mà mẹ tôi đã trồng mấy năm về trước.
Từ
đó, ở cái tuổi “ăn chưa no lo chưa tới” của mình tôi đã phải đối đầu
với thật nhiều khó khăn trong cuộc sống. Ngoài việc nhà, nấu cơm giặt
giũ, chăm sóc các em, tôi còn phải ngược xuôi lo việc chi tiêu trong nhà
với đồng lương công chức giới hạn và bấp bênh của ba tôi, những việc mà
khi còn me, tôi không bao giờ phải bận tâm lo lắng.
Cũng từ đó,
tôi bắt đầu thân quen với chai dầu mua về cho mẹ. Dù qua nhiều dâu bể
của đời, chai dầu gió xanh vẫn là người bạn đồng hành với tôi từ mấy
chục năm qua.
Nghe có tiếng thầm thì chung quanh, tôi mở mắt ra.
Trước mặt tôi là mấy giáo sư đồng nghiệp cùng trường và cả đám sinh
viên của chúng tôi. Thấy tôi tỉnh dậy, cả đám cùng vỗ tay vui vẻ:
- Chào mừng giáo sư, chào mừng y sĩ. Chúng em vui lắm vì có cô đi cùng. Vậy là chuyến đi này là hoàn toàn mỹ mãn.
Donna, một cô sinh viên gốc người Mễ rất linh hoạt dễ thương của tôi hỏi.
- Cô ơi, mình sắp tới Việt Nam, cô hồi hợp không cô?
Nhiều em khác cùng hỏi rồi thay phiên ôm tôi để chia niềm thương cảm.
Số
là mới cách đây mấy ngày, tôi gặp một tai biến rất lớn trong đời, đã
tưởng không thể tiếp tục công việc với phái đoàn. Ngày cuối, khi quyết
định cùng bay thì tới vào phút chót, phi cơ không còn chỗ để ngồi chung
với phái đoàn của mình.
Chuyến đi đã chuẩn bị từ lâu. Các giáo sư
và sinh viên tham dự ai nấy đều nao nức đợi ngày đi. Riêng tôi thì mong
muốn đem lại một chương trình nào đó có lợi ích cho nền y tế của Việt
Nam, nhân tiện được thăm lại quê hương, bè bạn cũ. Mọi sự xếp đặt cũng
đã xong, nhưng nếu thiếu người hướng dẫn như dự tính từ bước đầu thì
cũng không trọn vẹn. Vì vậy khi thấy tôi trong chuyến bay, cả đám cùng
vui lăng xăng nói cười.
Nói “cả đám?” cho thân tình chứ thật ra
trong phái đoàn 33 người, lớp trẻ dưới tuổi ba mươi chỉ có 12 em sinh
viên, trong số này có 3 em gốc Việt, đang học chương trình cử nhân. Phần
còn lại, đều lớn tuổi và già giặn hơn nhiều. Trong nhóm này có 2 em
đang hành nghề y sĩ ở Houston và Dallas; một em sắp xong y sĩ ; 5 em sắp
ra tiến sĩ sau khi trình luận án vào mùa hè này, và 12 em khác đang học
chương trình tiến sĩ. Dù thầy bằng trò hay trò bằng thầy về tuổi đời
nhưng các em rất lễ phép và rất biết kính trên nhường dưới. Như vậy phái
đoàn chúng tôi 33 người cũng có vẻ thuận thảo, hùng hậu. Hy vọng chuyến
đi sẽ vui vẻ thành công.
Sau khi rời khỏi công việc bên bệnh
viện, đã hơn 5 năm rồi, tôi nhận làm giảng sư chính thức cho trường đại
học này. Tôi cũng đã dạy bán thời gian cho trường mấy năm trước nữa.
Thấy không khí dạy học vui vẻ, nhất là tiếp xúc được với nhiều em sinh
viên Việt Nam, gồm cả các em sinh tại Mỹ lẫn các du học sinh, nên tôi
cũng thích vì có dịp hướng dẫn và khích lệ các em.
Trong trường,
các em sinh viên người Việt hay gốc Á Châu thường tìm đến tôi để hỏi ý
kiến về việc học hành, hay chỉ để than thở những việc xảy ra trong đời
sống hằng ngày. Không biết từ bao giờ tôi đã trở thành một giáo sư hướng
dẫn cho các sinh viên gốc Á Châu ở trường đại học này. Tôi thật không
ngờ mình lại trở thành một bà “gõ đầu trẻ”, loại công việc mà khi còn
trẻ tôi không bao giờ mơ ước để trở thành. Năm ngoái tôi có khai giảng
một khoá học mà tôi phụ trách dạy về y học và văn hoá Việt Nam. Các sinh
viên ghi tên học rất đông, Mỹ có Việt có. Các em gốc Việt sau đó có đến
cảm ơn tôi vì khoá học đã cho các em có cơ hội tìm hiểu thêm về nguồn
gốc Việt Nam của mình.
Trạm đầu tiên xuống Moscow nghỉ ngơi chừng
nửa tiếng. Cả đám sinh viên đã hăng hái mua sắm. Khi trở lại máy bay,
cô cậu nào tay cũng mang theo những túi quà kỷ niệm.
Sau trạm
ghé này, biết mình đang từng phút gần hơn với Việt Nam, tôi như hình
dung thấy bạn bè, trường ốc và những chuyện phải làm. Một cảm giác vừa
vui mừng vừa hồi hộp làm tôi nao nao trong lòng. Phi cơ đang bay trong
đêm nhưng ngay sáng mai là tôi sẽ có mặt trên quê hương yêu dấu của
mình, sẽ có dịp thăm viếng, gặp gỡ những nơi mà tôi đã hoạch định chương
trình để bắt đầu một cuộc hành trình mới.
Vừa chập chờn muốn
ngủ thì bị đánh thức bởi giọng nói vang lớn từ cái loa trên trần phi cơ.
Tiếng cô chiêu đãi viên hàng không lậi đi lập lại bằng tiếng Anh giọng
Tàu lơ lớ:
- Trường hợp cấp cứu!! Trường hợp cấp cứu!! Chúng tôi
cần gấp một bác sĩ. Trên máy bay, nếu có ai là bác sĩ xin đứng lên giúp
chúng tôi một tay... Cấp cứu! Cấp cứu!
Tôi tỉnh ngủ hẳn, quơ vội cái túi nhỏ và đi lên cabin phía trên, hỏi cô chiêu đãi viên hàng không gần nhất:
- Trường hợp cấp cứu ở đâu vậy? Tôi là y sĩ V, tôi sẽ giúp cô.
- Dạ xin y sĩ theo tôi. Bệnh nhân đang ở trên cabin hạng nhất.
Tôi
đi theo cô này đến khu hạng nhất của phi cơ. Ghế ngồi ở khu này rộng
rãi hơn và phần lớn các hành khách đang ngủ với những chiếc khăn che mắt
phủ trên mặt cho dễ ngủ.
Bệnh nhân là một thanh niên trẻ, đang
nằm sóng sượt ngay trên sàn phi cơ. Cả người anh ta co quắp lại như hình
con tôm, hai mắt nhăm nghiền, mặt đẫm những giọt mồ hôi còn đọng lại.
- Hello. Tôi là Dr. V. Tôi sẽ giúp anh. Chuyện gì xảy ra vậy?
-
Dạ em đau bụng quá, không chịu nổi. Phải nằm xuống như vầy mới bớt một
chút. Em bị cách đây gần một tiếng đồng hồ, tưởng là chỉ sình hơi, ai dè
càng lúc càng nặng hơn.
- Em tên gì ? Tôi hỏi.
- Dạ em tên John. Em là chiêu đãi viên hàng không cho hãng máy bay, em làm ở khu hạng nhất này.
Lúc
này thì hai học trò y sĩ của tôi là Patti và Mai đã đến. Patti lo cặp
thuỷ đo nhiệt độ còn Mai thì giúp đo áp suất máu và hỏi về lượng đau của
John.
Tôi bảo mấy người bạn đồng nghiệp của John:
- Đồ
dự trữ cho trường hợp cấp cứu đâu? Làm ơn đem ra để tôi coi có gì dùng
được không. Nhớ đem thêm mấy cái mền nữa để đắp cho John.
Quay qua mấy em y sĩ tôi bảo:
- Hãy giữ cho John ấm và đừng cho ăn uống gì hết. Có thể cho một vài giọt nước vào môi để giữ môi không bị khô mà thôi.
- Dạ, nhiệt độ người của John là 99.8 F. Áp suất là 160 trên 100, nhịp tim 112 và độ đau là 9 trên 10. Mai thông báo.
- Cảm ơn em. Cứ giữ cho John ấm và lấy áp suất như vậy mỗi 10 phút. Nếu thấy thay đổi, cho tôi biết.
Tôi
và Patti kiểm soát cái túi cấp cứu lớn mà cô chiêu đãi viên hàng không
vừa đem đến. Ngoài giấy tờ lặt vặt, chỉ thấy mấy thứ thuốc cấp cứu về
tim như Digoxin, Lasix. Trong túi lớn còn một túi nhỏ chứa mấy bịch nước
biển se-rum và kim, dây dùng để chuyền dung dịch này vào cơ thể.
- Patti, em chuẩn bị đồ chuyền dịch nhé. Không làm ngay bây giờ nhưng nên chuẩn bị trước. Tôi nói.
Tôi
khám cho John. Mọi nơi bình thường. Chỗ đau duy nhất là vị trí dưới
bụng phía tay mặt. Chỉ nhấn hơi mạnh một chút là John đã nhăn mặt kêu
đau, cố đẩy tay tôi ra. Đây là trường hợp đau ruột dư mà phi cơ thì đang
bay 50,000 mét trên không gian, đâu thể làm gì. Tôi suy nghĩ thật nhanh
rồi bảo Tim, xếp của John, là tôi muốn nói chuyện với phi công trưởng
của phi hành đoàn. John bị đau ruột dư. Cần đưa vào nhà thương để mổ và
điều trị gấp để bảo vệ sinh mạng.
Tim đi một lát rồi trở lại.
-
Thưa y sỹ, phi đoàn trưởng của chúng tôi nói là bây giờ máy bay đang
bay qua lãnh thổ của nước Afghanistan không thể đáp xuống được, mong y
sỹ thông cảm.
- Như vậy nước tới là nước nào? Và mình có đáp xuống được không?
- Dạ, để tôi đi hỏi lại phi công trưởng.
Tim trở lại lần nữa và nói.
-
Nước tới là Ấn Độ và việc đáp xuống có thể được, nhưng xin y sĩ xác
định lại việc cần đáp xuống vào lúc ấy, vì hiện thời bây giờ chúng ta
còn phải bay 3 tiếng nữa mới qua khỏi biên giới của Afghanistan. Nếu đáp
xuống theo chuyện cấp cứu thì cũng rất phiền hà và không biết bao giờ
mình mới bay lên trở lại được.
Đúng lúc ấy, Patti gọi tôi lại:
-
Dr. V, áp suất của John là 92 trên 60, nhịp tim 125 và độ đau là 10
trên 10. Em nghĩ là bệnh tình của John đang bị trở chứng đó giáo sư.
Tôi
trở lại chỗ John nằm. Tay chân John lạnh toát, mà mặt mũi thì luôn toát
mồ hôi, dù Mai đang liên tục lau mặt cho anh ta. Đúng như Patti nói,
John đang trong tình trạng trở chứng, máu huyết tuần hoàn bị sụt xuống.
Nếu tình trạng này kéo dài thì nguy cho tính mạng.
Vây quanh
John là những đồng nghiệp của anh ta, ai nấy đều lo lắng. Có mấy hành
khách cũng tìm đến tò mò coi chuyện gì xảy ra. Tôi nói Tim là nên mời
hành khách về lại ghế ngồi để chúng tôi có chỗ xoay trở làm việc.
- Bắt đầu chuyền nước biển đi. Mở wide open rộng ra, và giữ cho John ấm. Tôi bảo Patti. Quay qua John, tôi bắt chuyện:
-
Hi John, em sao rồi, đau nhiều không? Bây giờ chúng tôi chuyền nước
biển cho em nhé. Mà trước giờ em có bị bệnh gì không? Có bị cao máu tiểu
đường không?
- Em đau quá Dr. V. ơi. Em trước giờ khoẻ lắm không có bệnh gì hết.
- John có gia đình vợ con gì chưa?
John gượng cười
- Dạ chưa, Dr. V. Nhưng em có bồ rồi. Cô ấy đang chờ em ở Singapore.
- A, vậy là em phải khoẻ lại cho mau để về gặp cô bạn.
Tôi
nói chuyện đùa với John để giúp em quên bớt cái đau. Phải cố giúp John
không bị nặng thêm, đủ sức chịu đựng trong khi chờ cấp cứu. Bỗng tôi
chợt nhớ một việc.
- John à, tôi có một loại thuốc riêng mà khi
nào cần thì tôi lấy ra dùng. Mà nó giúp tôi rất hiệu nghiệm. Nếu em muốn
thì tôi sẽ chia sẻ với em?
John gật đầu lia lịa.
- Dạ bây
giờ y sỹ có gì thì xin cho em dùng. Em đau quá. Em đi đường bay này
thường lắm nên biết là mình không thể đáp xuống đây đuợc đâu. Em lo quá,
không hiểu có qua nổi cơn bệnh này không.
Tôi mở cái xách tay nhỏ, lấy chai dầu gió xanh của mình ra mở nắp cho John nhìn.
-
Đây là chai dầu mà tôi hay dùng và nó rất hiệu nghiệm. Tôi đi dâu cũng
có nó. John dùng thử nhé, nếu chịu được cái mùi hơi mạnh một chút của
nó.
Tôi đưa chai dầu lên mũi John. Em hít một hơi nhẹ và nói.
- Mùi này cũng dễ chịu mà. Em thích lắm.
- OK, vậy thì tôi xức cho John nhé.
Tôi
xoa dầu vào chỗ đau của John ở bụng, vừa làm vừa nói chuyện. Tôi hỏi
chuyện làm, chuyện bạn bè, chuyện đời sống của John ở Singapore hay ở
Mỹ. Mai và Patti vẫn tiếp tục lấy áp suất và nhiệt độ trong khi John dần
dà có vẻ thích thú khi kể chuyện về đời mình cho chúng tôi nghe.
Khoảng
chừng một tiếng đồng hồ sau, Patti thông báo là tuy độ đau không thay
đổi, vẫn ở khoảng từ 8 cho tới 10, nhưng áp suất của John đã lên cao trở
lại, khoảng 140 trên 90 và nhịp tim hạ xuống còn 100 nhịp trong một
phút.
- Vậy là tốt. Em cho nước biển chảy chậm lại một chút đi. Tôi bảo Patti.
Dần
dà, John có vẻ tỉnh táo hơn một chút, sắc diện cũng khá hơn. Tôi khám
lại John thì thấy tình trạng ruột dư của em không thay đổi gì lắm.
Tim, xếp của John, trở lại.
-
Thưa y sỹ, chúng ta bắt đầu vào biên giới Ấn Độ. Phi đoàn trưởng của
chúng tôi xin ý kiến y sĩ. Nếu cần ngừng lại thì phải xin phép đáp
xuống, thủ tục sẽ lâu lắm mà rồi chưa biết chừng nào máy bay mới có thể
cất cánh trở lại.
- Sau Ấn Độ thì sẽ tới nước nào? Tôi hỏi.
- Dạ Miến Điện rồi Thái Lan trong vòng 3 tiếng đồng hồ nữa.
- Để tôi nói chuyện với John xong sẽ trả lời câu hỏi của anh.
Tôi trình bày rõ ràng với John về những chi tiết này. John trầm ngâm rồi hỏi lại tôi:
- Y sỹ nghĩ như thế nào, em có thể chịu nổi để về đến Singapore không?
-Thật
sự thì rất khó đoán trước cơ thể của John sẽ chuyển động như thế nào
nhưng tôi nghĩ là sẽ còn sức chịu được vài tiếng nữa, ít ra thì mình
cũng có thể đến Thái Lan. Việc chữa trị ở đó cũng tốt hơn nếu so với
những nơi khác. Tôi trả lời cho John.
- Xin y sỹ quyết định cho em vậy đi.
Tôi quay lại bảo Tim.
- Cứ tiếp tục bay đi. Khi nào gần đến Thái Lan thì cho tôi biết.
Trong
suốt mấy tiếng bay tiếp, John và tôi vẫn tiếp tục trò chuyện, dầu gió
xanh vẫn được thoa cho John đều đều. Nhiệt độ và áp suất máu của John
khá bình ổn. Bịch nuớc biển vẫn nhỏ giọt đều nhưng chậm hơn lúc trước vì
áp suất của John đã cao hơn. Chúng tôi đã đưa John lên nằm trên giường
trong phòng dành cho phi công. John cho biết em thấy có vẻ khá hơn lúc
ban đầu một chút.
Khi bay qua biên giới Thái Lan, tôi đã quyết
định không dừng lại nữa vì từ nước này về Singapore thì chỉ còn một
tiếng đồng hồ mà thôi và tình trạng của John thì thấy không thay đổi
mấy. Cả đêm ấy, ba thầy trò chúng tôi không chợp mắt chút nào nhưng vẫn
không thấy mệt.
Rốt cuộc thì phi cơ cũng đáp xuống phi trường
Singapore. Khi xe cứu thương đến phi cơ để đưa John vào bệnh viện cấp
cứu, cậu ấy đã nắm tay tôi và ngập ngừng hỏi:
- Em cảm ơn Doctor V
và phái đoàn của doctor đã giúp em rất nhiều. Em sẽ không bao giờ quên y
sỹ V đâu. Chúc y sỹ và phái đoàn thành công trong chuyến đi này. Nếu
được, xin y sỹ cho em xin luôn chai dầu gió xanh đó, có được không?
John muốn xin chai dầu gió xanh của tôi? Tôi cảm động đến sững sờ khi trao cho John chai dầu xanh trước khi từ biệt.
Phi
cơ tiếp tục bay. Sắp thấy lại Sài gòn. Trong túi xách không còn chai
dầu xanh. Vậy là chai dầu không cùng tôi trở lại quê mẹ. Nhưng hơn bao
giờ, tôi thấy chai dầu xanh đang ở trong tim mình.
Và thấy mình muốn khóc.
Tôi
biết các bạn trẻ ngày nay, như tôi thuở nào, có thể coi chai dầu xanh
là thứ “mắc dịch”. Vậy mà với người Việt mình, hình như ai ai trong đời
ít nhiều cũng đều biết đến nó.
Chai dầu gió xanh của mỗi người
có thể khác nhau. Có thể là những kỷ niệm thời ấu thơ với người thân
yêu, một lần gặp gỡ hay chia lìa, một mối tình, một ánh mắt, một nụ
cười, một dáng đi, một tà áo, một giọng nói, một câu dỗ dành, một bài
hát hay một lời thơ... Đôi khi bất chợt gặp lại, mùi hương nồng ấm của
thứ dầu gió này có thể giúp ta dăm ba giây phút sống lại những kỷ niệm
xa xưa, để tâm hồn dịu đi đôi chút giữa cuộc sống xô bồ.
Trong
hành trình dài của đời người, với những bể dâu gập ghềnh trong cuộc
sống, tôi thấy mình vẫn có chai dầu xanh làm bạn đồng hành và được nó
trợ giúp. Âu đó cũng là niềm vui và hạnh phúc. Tôi cảm ơn nó.
Lập đông 2012.
Võ Quách Thị Tường Vi
No comments:
Post a Comment