Đám cưới dì chú Thanh năm 1955, bố tôi cao nhất, tôi bé nhất.
Giấc ngủ mơ màng vì thói quen dậy trễ vào mỗi sáng Chúa nhật, nhưng tiếng hát vang vọng từ CD mở quá lớn ngoài phòng khách, làm tôi bừng tỉnh: “Mẹ tôi tóc xanh nhuộm bạc tháng ngày. Mẹ tôi đau buồn nặng trĩu đôi vai. Bao năm nuôi đàn trẻ thơ nhỏ dại, cầu mong con mình có một ngày mai.”
Nghe bài hát chợt
nhớ tới người mẹ đang sống chung, tôi xin kể cho các bạn nghe
về một người đã chạy lánh Cộng sản suốt một đời, đó là
mẹ tôi năm nay ngoài tám mươi tuổi, tóc mẹ bạc phơ, nhưng dáng người
còn nhanh nhẹn, nhất là tiếng nói còn sang sảng. “Nếu không
bị bệnh suyễn kinh niên thì còn khỏe hơn”. Cụ vẫn nói vậy.
Cậu em tôi làm giấy
tờ bảo lãnh mẹ và cô em gái. Đến cuối năm 1990
sở di trú kêu bổ túc hồ sơ phỏng vấn. Nhưng
mẹ tôi chần chừ chưa muốn đi, vì mẹ bảo: “Con
giàu thì mừng, con khó thì thương”, phần bị luật
lệ sang tên nhà cho các con khó khăn, rườm rà, vì “thủ tục đầu
tiên”. Mãi đến năm 1992 mẹ tôi quyết định đi
thì cô em đã lập gia đình, phải làm lại
hồ sơ bảo lãnh, chờ đi sau. Nên chi, còn một mình
mẹ tôi đi Mỹ, dù mẹ không biết một chữ tiếng Anh, thật
là can đảm. Đến phi trường Los Angeles, mẹ đứng đợi
hơn một tiếng đồng hồ không thấy ai đón, cụ bắt đầu
run, vì những người cùng chuyến bay họ được thân nhân đón gần
hết, cụ nhìn xung quanh toàn người xa lạ, khác ngôn ngữ, muốn hỏi thăm
mà không biết nói gì, cạnh cụ chỉ là xe hành lý vô tri
giác. Bỗng cụ thấy một bé gái chừng ba bốn tuổi, khuôn mặt thật
dễ thương, đang ngơ ngác như tìm ai,
cụ liền đến ôm nó vào lòng, nhưng một thiếu phụ sang
trọng, trạc ngoài 30 chạy lại bế thốc đứa bé đi,
có lẽ bà cụ mới ở Việt Nam qua không biết luật
lệ bên Mỹ, cụ tủi thân muốn khóc.
Sau lưng cụ đứng
không xa là một chàng thanh niên khoảng 24-25 tuổi, dáng người cao lớn, ăn
mặc lịch sự, cũng đang dáo dác tìm người thân, chợt thiếu phụ khi nãy
gọi lớn:
- Tèo, em có thấy anh
Quang và cô Bảy không?
Cậu thanh niên lo lắng
nói:
- Không chị ạ!
Sao hai người đi gửi xe lâu quá, chắc lạc… Hay là đang tìm mình.
Nghe thấy tên Tèo,
bà cụ giật thót người. Tèo là tên cúng cơm của thằng con út,
cách nay hơn mười năm cụ đã gạt nước mắt, đứt ruột lo cho con đi
vượt biên, lúc nó mới mười hai tuổi đầu. Cũng vì nhớ thương
nó mà đường xa ngàn dặm cụ liều bước ra đi. Bây
giờ không thấy nó đến đón, cụ đang tủi thân, hay
là… chợt cụ nghĩ đến câu hay mắng yêu lúc nó còn nhỏ,
cụ liền cất tiếng gọi trống không:
- Tèo! Tèo đâu!...“cha
tổ bố nó” sao nó không đến đón tôi.
Cậu thanh niên quay
phắt lại, nhìn sững bà cụ một lúc rồi ôm chầm lấy cụ. Hai
mẹ con không nói thành tiếng, chỉ có những giọt nước mắt thay
lời.
Người thiếu
phụ sang trọng ban nãy đã giằng đứa bé từ tay cụ,
bây giờ cũng từ từ dắt con đến bên cụ xúc động
gọi mẹ và trao đứa bé, rồi nói: “Con xin lỗi mẹ, đây
là cháu nội của bà. Nhà con đang đến kìa.”
Theo tay chỉ, cậu con
trai lớn và cô con gái của cụ cũng vừa đến, cậu không thay
đổi mấy, cậu đã gửi hình vợ con về, nhưng mắt cụ kèm nhèm
không nhận ra. Còn thằng Thanh có tên cúng cơm là Tèo lúc đi vượt
biên còn là thằng bé loắt choắt, nên thay đổi nhiều,
cụ nhận không ra. Thanh cười toe toét nói:
- Sao ngày xưa
mẹ cao lớn mà bây giờ mẹ thấp quá, nãy giờ con
cứ tìm bà cụ mặc chiếc áo bà ba, đầu búi
tó củ hành nên chẳng nhận ra mẹ, vì mẹ mặc áo
vét, đầu bới cao, mắt đeo kiếng, đẹp và khác quá,
mẹ tha lỗi cho con. Nhẹ ôm thằng Thanh, cụ cười:
- Ngày xưa con còn bé,
ngửa cổ nhìn thấy mẹ cao. Bây giờ con cao lớn, con nhìn xuống
thấy mẹ thấp hơn là phải rồi.
Thế rồi người con
trai lớn đón cụ về nhà, ở thành phố Westminster,
có bà sui đang ở chung. Hai bà lại khắc khẩu,
mà các cụ già hay bị cái tật lớn hơn cái
tuổi, đó là tật nói nhiều, “mau nói thì hay lỗi, nói
thật thì mất lòng”, nên mẹ tôi bị shock. Được vài tháng
thì các em tôi thu xếp cho mẹ qua ở với cô em gái
và Út Tèo tại thành phố Seattle, tiểu bang Washington quanh năm mưa
gió lạnh lẽo, được mệnh danh là “Even green State” nên
mẹ tôi không quen, đau ốm hoài. Hai năm sau khi gia đình tôi
sang định cư theo diện HO, và rước
cụ về Cali ở luôn với chúng tôi, cụ khỏe hẳn ra.
Lưng mẹ tôi lúc
còn trẻ hơi khom, về già khòm hơn nhiều, nhưng mẹ vẫn hãnh
diện: “Cái dáng lom khom là dáng lắm con”,và người xưa quan
niệm: “những người thắt đáy lưng ong, vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi
con.” Chẳng thế mà mẹ tôi đã có được tám mặt
con, bốn gái và bốn trai, qua Mỹ một nửa, còn một
nửa ở quê nhà, vì thế lúc nào mẹ cũng vọng
về cố hương yêu dấu, mà lòng thương nhớ khôn nguôi.
Những nỗi nhọc nhằn
vất vả đã làm răng mẹ tôi rụng gần hết, còn vài cái răng cửa khổng
khểnh để cười cho đỡ trống trải. Thế nhưng mấy năm
trước cụ đi nha sĩ để làm răng hàm, chả biết ông Bác
Sĩ bàn thế nào mà mẹ đồng ý nhổ hết những
răng còn lại để làm hai hàm răng giả, làm mẹ tôi đau phát
sốt mấy ngày, nhưng bây giờ mỗi lần mẹ cười nhe hàm răng đều
và trắng như hạt bầu trông rất ư đẹp lão.
Mẹ tôi hiền lành
thật thà, từ ngày tôi có trí khôn, chưa thấy mẹ đôi chối với ai, ngay
cả những người hàng xóm ưa lẻo mép. Bố tôi mới là người
khó nết nhất, vậy mà mẹ chẳng làm phật lòng bố bao giờ, nhưng
bù lại bố tôi là người cha hết mực thương yêu vợ con, lúc
còn sinh tiền người luôn lo tròn bổn phận, việc nước cũng như việc nhà.
Bố tôi mất vào mùa hè đỏ lửa năm 1972 tại Quảng Trị, khi ấy
mẹ mới ngoài 40 tuổi, tôi lớn nhất, em Út ba tuổi, tám đứa con
đang tuổi ăn chưa no, lo chưa tới, thật là một gánh nặng cho mẹ.
Sau khi bố mất,
mẹ tôi đã gượng đứng dậy trước nỗi đau bất ngờ, của
người góa phụ thời chinh chiến. Để đưa chúng tôi về sống với
bà ngoại ở xứ đạo Nghĩa Hòa gần Ngã Ba Ông Tạ.
Nhờ ngoại có sạp bán quần áo may sẵn trong chợ nhỏ gần
nhà, mẹ tôi theo bà ngoại tảo tần buôn bán, nên mẹ con cũng
đắp đỗi qua ngày.
Sau 30 tháng 4/75
mẹ và chúng tôi cùng chung số phận của những người miền nam,
chịu cảnh đời thay trắng đổi đen. Một miền Nam trù phú, văn
minh, bỗng chốc trở thành tiêu điều tan tác. Lại bị ngăn sông
cấm chợ, tạo ra cảnh gạo Châu củi Quế. Nên mẹ tôi phải lăn lộn ngoài
chợ trời, mua đi bán lại với sạp quần áo cũ.
“Người khôn của khó”.
Mẹ tôi lại sang một cửa hàng gần chợ Tân Bình để bán đồ sành
sứ, có những bộ tách trà cổ của Nhật nhẹ và đẹp,
những chiếc ly, bình cắm hoa bằng pha-lê trong suốt, mẹ mua lại của
những người cần tiền đem đồ qúy hiếm ở nhà ra bán. Cũng có những
chén đĩa mới, hàng China nặng hơn, mà men không đẹp bằng của Nhật,
nhưng vì hàng lậu ồ ạt đổ vào biên giới Hoa Việt tràn
lan, giá rất rẻ nên được các bà nội trợ ưa
chuộng đua nhau mua sắm, nhờ vậy mẹ tôi “trúng mánh”,
lo được cho bày con.
Mỗi sáng mẹ đi
bộ gần hai cây số, vừa đi vừa lần hạt, mẹ phó thác mọi
sự cho Chúa. Đến chợ mẹ lại vất vả tất bật
từ sáng cho đến nhá nhem tối mới về đến nhà. Tôi phải
nghỉ học để đi làm, và phụ mẹ chăm sóc nuôi nấng
các em. Bao nhiêu lo lắng đè trên đôi vai gầy của mẹ. Đêm đêm
mẹ hay ngồi khóc một mình, tôi luôn an ủi và tâm sự với mẹ,
cầm đôi tay khẳng khiu, nhìn tấm thân gầy còm, và vẻ mặt buồn
não nuột, mà thấy thương mẹ vô cùng.
Hẳn
là mẹ yêu bố lắm, vì cứ nhắc đến Người hoài.
Mẹ thường kể cho chúng tôi nghe về những kỷ niệm xa xưa,
nào là đám cưới mẹ mặc áo tứ thân, quần nái đen. Rước
dâu phải đi bộ, rồi qua sông bằng đò, hết một ngày mới đến nơi,
chúng tôi nghe đến thuộc lòng. Mẹ bùi ngùi kể, trước bố tôi học
trong chủng viện, nhưng vì thiếu sức khỏe nên phải xuất ra và làm
nghề dạy học. Tuy mang tiếng là “Thầy đồ dài lưng tốn
vải ăn no lại nằm” nhưng được cái bố cao ráo trắng trẻo,
nhiều chữ nghĩa lại yêu nghề. Vào những năm cuối thập niên 1940,
bố tôi nhờ người cất một ngôi nhà ở làng Nghĩa Dục, rồi
mở lớp dạy chữ quốc ngữ. Một mình bố mà dạy nhiều lớp một
lúc, bé có, lớn có, cả những ông già đang học xin phép ra sau
hè kéo điếu thuốc lào. Châm ngôn của lớp: “Quốc
ngữ là chữ nước ta, con cái nhà đều phải học”. Lúc bấy
giờ ở trong làng, việc truyền bá quốc ngữ đang thịnh
hành để xóa nạn mù chữ, mọi người trong
làng đổ xô đi học, nên lớp học của bố tôi rất đông,
nhưng học trò trả lương bằng thóc hoặc gạo chứ không
trả bằng tiền.
Thời Việt Minh mới
cướp được chính quyền, phong trào bình dân học vụ được phát động, mọi
người đều phải biết đọc, biết viết. Trên các đường cái
dẫn đến chợ búa trong vùng, người ta lập những trạm có gác.
Họ dựng một cái bảng lớn bên đường, rồi đặt chắn ngang một cây
tre dài, bất kỳ ai đi qua đều phải đọc thuộc 24 chữ cái,
hoặc đánh vần đúng thì được đi. Ai không biết
chữ thì phải trở lại hoặc lội xuống ruộng mà đi.
Mẹ tôi cười méo
mó kể, trong làng có một bà mụ tên là Trùm Vân, chuyên
làm nghề đỡ đẻ tại nhà rất mát tay
(vì thời đó quê mẹ chưa có nhà bảo sanh).
Một hôm bà trùm đi qua trạm “khảo chữ” bà không biết đọc,
cán bộ chận bà không cho đi, bà liền thoát y rồi vắt quần lên vai, miệng
la lớn: “Xê ra cho bà đi!”… Rồi bà ngang nhiên đi qua trước
sự sửng sốt của các cán bộ Việt Minh.
Sau
chuyện “bà trùm cởi quần đi qua trạm khảo chữ” Mẹ tôi
thở dài, kể thêm là bố cũng chẳng yên thân với
nghề gõ đầu trẻ. Năm 1949, Pháp nhảy dù xuống Phát
Diệm, đúng khi mẹ mới nằm cữ mới dậy, còn yếu, không
chạy được, bố tôi phải đứng trước nhà nói chuyện với Pháp.
Khi Pháp rút, Việt Minh nghi ngờ bố là gián điệp,
cứ bắt lên bắt xuống tra khảo đủ điều, oan khiên không biết kêu
vào đâu.
Mẹ kể, lúc bấy
giờ mẹ tôi có một cái đầu rồng (máy may).
Mẹ mở tiệm may, và mướn một bác phó may làm phụ.
Vì nhà ở ngay ngã ba đầu làng, mẹ tôi bán thêm
tạp hóa và vài món thuốc tây cần thiết như thuốc cảm, đau
bụng… (lúc ấy rất hiếm) nên tiệm của mẹ đông khách, chắc
mẹ tôi có duyên bán hàng, nên cuộc sống cũng dư dật,
có của ăn của để. Nhưng mẹ tôi chép miệng tiếc rẻ, vừa xây
nhà xong ở chưa được bao lâu. Thì Hiệp Định Geneve ký
ngày 20 tháng 7 năm 1954, chia đôi đất nước, vĩ tuyến 17 là đường
ranh giới, miền Bắc Cộng sản cai trị, miền Nam là vùng tự do.
Biết không
thể sống nổi với cộng sản, dân làng lần lượt bỏ trốn lên tỉnh.
Bố tôi cùng các thanh niên ban đêm trốn đi Nam Định trước. Còn
mẹ và dì Út tôi, tờ mờ sáng đầu đội tay
xách, nách bế em tôi nên phải mướn người gánh phụ, một
bên để tay nải quần áo, còn một bên để tôi ngồi lọt
thỏm trong chiếc thúng đan cho cân bằng đôi quang gánh, họ đi
nhanh trên con đường dẫn ra bến xe đò. Đến trước, họ gửi gói
quần áo và tôi cho một người lạ trên chuyến xe ra Nam Định,
mẹ đến sau rối rít tìm tôi, nếu chậm chút xíu nữa là tới giờ xe
khởi hành sẽ chở tôi đi mất. Tối hôm ấy gia đình tôi
ngủ nhờ nhà người quen, để ngày hôm sau lại đi xe
ra Hà Nội ở vài ngày, rồi bố tôi đến đón
cả nhà đi Hải Phòng, để lên “tàu há mồm” ra
tàu lớn di cư, cập bến Đà Nẵng. Tôi còn quá nhỏ không hiểu
nỗi mất mát đau buồn của gia đình tôi cũng như bao gia đình khác
phải đành bỏ lại quê hương mồ mả, nhà cửa ruộng
vườn để chạy vào Nam lánh nạn CS. Đó là tần thứ nhất,
mẹ là một trong số hơn một triệu người Bắc di cư vào Nam
để tỵ nạn Cộng Sản.
Cũng may mẹ tôi
cùng gia đình đi thoát, và được sống trong không khí tự do
cho đến tháng Tư năm 1975, lịch sử tái diễn, Cộng Sản lại tràn
vào cưỡng chiếm miền Nam. Nhân dịp này nhiều người dân từ miền
Bắc đã chạy vào Nam để tìm thân nhân và thay đổi
cuộc sống. Điều làm tôi nhớ nhất là gặp được một nhân chứng
sống sót của nạn cải cách ruộng đất.
Khoảng đầu năm
1976, mẹ tôi có người bác ruột, tên ông là Tổng
Loan ở ngoài Bắc trốn mãi mới vào tới Sàigòn. Ông đến thăm
và kể với mẹ tôi, năm 1954 vợ con ông di cư vào
Nam được, còn ông kẹt lại bị Việt Cộng bắt đem ra đấu tố,
vì trước kia ông là Lý Trưởng, nhà lại giàu có
từ đời ông cha.
Ông Tổng Loan
kể là chúng bắt ông quì giữa sân đình, trói quặt hai
tay, đầu gục xuống. Chung quanh ông là đám đông ngồi vây kín, thỉnh thoảng
lại giơ nắm đấm và hét to “Đả đảo địa chủ”, ông
sợ hãi đến vãi đái và run lên cầm cập. Sau cùng chúng cho
một đối tượng bần cố nông, ngồi lên hàng danh dự, đập bàn hạch
tội, và cho những người làm công cho ông khi trước ra
kể tội ông, hòng kết án tử hình. Nhưng nhờ vào
thời ông đối xử tốt với bà con trong làng, được bà con
thương nên chúng không có cớ giết ông, chỉ đánh đập rồi
tịch thu hết tài sản và bắt ông đày đọa lên rừng sâu,
cho đến năm 1975 cũng chưa được thả.
Vì ông đã quá già, râu
tóc, lông mi lông mày bạc trắng, ông liều mạng trốn trại, quyết
chí vào Nam để tìm vợ con. Vậy mà đi đến cầu Hiền
Lương, nơi từng là ranh giới) phân chia nam bắc, ông cũng bị bắt
lại ba lần, nhờ quá già nên được chúng thả ra. Sau khi
thoát được vô miền Nam, ông tìm gặp đuợc gia đình
như ng bà vợ ông ngày ấy bị bệnh lẫn (Alzheimer) không
còn nhận ra ông.
Tại Sàigòn,
nhờ mẹ tần tảo buôn bán, gia đình tôi có một căn
nhà mặt tiền. Đây là nơi gia đình vừa ở vừa mở cửa
hàng buôn bán. Thật ra thì nhà của mẹ tôi cũng chẳng to lớn gì,
nhưng nó nằm bên cạnh nhà bảo sanh tư của một bác
sĩ đã di tản từ 1975 bỏ lại. Thế là phường đội
trưng dụng để làm trụ sở công
an. Ý đồ họ là muốn chiếm luôn căn nhà của
mẹ tôi bên cạnh để mở trụ sở rộng thêm. Vì vậy,
ngày nào cũng có hai cán bộ trên phường tới nhà ốp mẹ tôi
phải đưa gia đình đi kinh tế mới. Họ bảo mẹ buôn
bán là bóc lột, là ăn bám, không đúng đường lối của chính sách.
Họ chỉ có việc ăn, rồi đi đến những căn
nhà ở vào tầm mắt của phường, thúc giục người
ta đi để chiếm nhà cửa. Cuối cùng mẹ phải cắt một nửa
hộ khẩu lên mạn Phương Lâm, mua căn nhà nhỏ và sào đất
cho các em tôi tạm sống. Phần Mẹ thì cương quyết ở lại
Sàigòn để tiếp tục tảo tần buôn bán để tiếp tế nuôi
các em. vì đâu có đứa nào quen làm ruộng rẫy gì, mà còn mất cả học
hành. Nhưng nhờ vậy, cán bộ phường không còn lý do đến thăm
sức khỏe mẹ tôi nữa.
Bẵng đi một thời
gian, thấy tình thế yên ổn, mẹ tôi lại chạy tiền lo
hộ khẩu đem các em trở lại Sàigòn. Rồi vào đầu thập niên
1980, mẹ tôi gom góp, thu xếp cho các em tôi vượt biên, tìm sự sống
trong cái chết, vì nhận thấy quê hương mình, không còn là nơi an
toàn để sống. Đó là lý do mà ngày nay mẹ tôi có mặt tại Hợp
Chủng Quốc Hoa Kỳ này, và cũng là lần tỵ nạn cuối cùng của đời
mẹ.
*
Ngôi nhà chúng tôi
đang ở gần nhà thờ Westminster, nằm trên đường Olive
cách trung tâm Little Saigon khoảng mươi phút lái xe. Đây là nơi có
số người Mỹ gốc Việt đông đảo nhất nên mẹ tôi nói người
mình qua đây một nửa nước rồi, đông lắm con ạ! Mẹ đi
lễ ở nhà thờ không còn chỗ mà ngồi, đi
chợ thì gặp toàn là người Việt, tha hồ mà nói chuyện.
Cũng
nhờ có mẹ ở với chúng tôi, coi sóc nhà cửa và các cháu
để tôi yên tâm đi làm. Bên hông nhà quay ra đường có mảnh vườn
nhỏ, khoảng 30 thước vuông, chung quanh rào bằng những miếng gỗ mộc mạc,
vậy mà mẹ tôi trồng đủ các loại rau. Giữa vườn
là luống rau muống, rau dền, mé vườn có dậu muồng tơi cạnh luống
rau đay, rau cải cúc, rau thơm đủ thứ. Sau nhà là giàn su
su sai trái hơn giàn mướp, giàn bầu có quả dài cả thước, leo lên
hàng rào là khổ qua.
Vào mùa đông lạnh lẽo,
mẹ tôi trồng xu hào củ to mà tròn trồi trên mặt đất, bên
cạnh những bắp cải chắc nịch, một luống rau sà-lách giống Việt Nam, ăn dòn
mà ngọt, rau cải xanh cũng hạp với trời mưa lạnh, nên tàu lá lớn
và xanh rờn trông rất ngon. Ai đi qua cũng phải đứng lại nhìn vườn
rau đủ loại. Mỗi lần có con cháu đến thăm, mẹ tôi cắt
cho mấy bịch rau để làm quà đem về. Tôi cứ đùa, vườn rau của
mẹ nằm ngay mặt tiền nên không bị ế. Rau ăn không hết, bán
rẻ cũng đủ tiền nước, nhất là rau đay, rau mồng tơi,
cụ cứ hái ngọn bán dần, riết rồi nhiều mối quá ai muốn mua phải
gọi phone hẹn trước.
Nhớ mỗi chiều
chúng tôi đi làm về, gia đình quây quần bên mâm cơm được mẹ nấu
sẵn, mẹ tôi tỉ mỉ kho cá rất
kỹ vì nhà tôi ít ăn thịt, món thịt kho với trứng cho
các cháu không ăn cá. Ngày nào cũng thay đổi món canh, rau tươi sẵn ngoài vườn.
Cả nhà vừa ăn vừa khen ngon là cụ thích. Bây
giờ chỉ còn là kỷ niệm.
Trong chúng ta ai cũng
có mẹ, dù hoàn cảnh có khác nhau, nhưng người mẹ nào
cũng để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng ta. Mẹ tôi
không lanh lợi sắc xảo, tôi chỉ thấy nơi mẹ một
lòng đạo đức, một đức tin mạnh mẽ, và luôn phó thác con cái
trong tay Chúa. Thật tội nghiệp mẹ tôi phải sống cảnh già tha phương
nơi đất khách, mà lòng còn vương vấn, thương nhớ những đứa
con còn lại, nơi quê nhà xa vời vợi. Mẹ tôi thường thở dài
than: “Không biết bao giờ quê hương mới thoát ách Cộng
Sản”.
Năng Khiếu
vietbao.com
vietbao.com
No comments:
Post a Comment